trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 482 bài
  1 - 20 / 482 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcThơ và Thơ Trẻ
23.7.2003
Lê Minh Hà
Phùng Cung, đời người, đời chữ
 
Thơ - với ai đấy - trước khi là nghiệp thì đã là nghề. Dù nhuận bút cho thơ luôn ít ỏi đến tội nghiệp thì đó vẫn là nhuận bút. Và đôi khi, nhuận bút nhỏ nhoi kia vẫn có thể bị coi là nhiều, bởi với người yêu thơ, thơ không bao giờ được là thế phẩm.

Với Phùng Cung, thơ có lẽ chỉ là nghiệp. Hẳn là thế! Vì nếu không, người thơ ấy đã phải răn mình treo bút sau bao nông nỗi mà duyên do là chữ nghĩa. Hơn mười năm ở tù vì vài ba phúng dụ nghệ thuật vượt ra khỏi khuôn khổ quy phạm của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa - Con ngựa già của chúa Trịnh, Dạ ký - ấy là cái giá Phùng Cung đã trả cho những đam mê chữ nghĩa của mình, ấy cũng là cái phần đau khổ người thơ đã gánh cùng bạn bè nghệ sĩ trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.

Trong Cát bụi chân ai, Tô Hoài đã rất thâm trầm (hay là giễu cợt?) cho người đọc thấy những thống khổ mà Phùng Cung đã trải. Chân dung người tù mãn hạn Phùng Cung ấy sẽ khiến ta trọng hơn một Phùng Cung khác: làm đinh và làm thơ; làm đinh để sống và để vật lộn với chữ nghĩa, khó nhọc và mê mải chẳng khác gì một Hàn Dũ, một Giả Ðảo thời xưa.
Tài tình ấy của Phùng Cung với thơ đã được thấu hiểu bằng tài tình của một người thơ khác - Phùng Quán. Trên một số Diễn Ðàn năm ngoái, giới thiệu thơ Phùng Cung, Phùng Quán đã cho biết sẽ đi đọc thơ xuyên Việt hòng đủ tiền giúp Phùng Cung khai sinh thơ mình. Dưới suối vàng chắc hẳn Phùng Quán cũng ngậm cười vì người anh em thơ của mình rốt cục cũng đã ra mắt được tập thơ đầu tay. Ở tuổi sáu nhăm. Vâng, đúng, ở tuổi ấy.
Tôi hình dung Xem Ðêm của Phùng Cung nằm khiêm nhường trên giá của một hiệu sách Hà Nội, lẫn giữa bao nhiêu bìa sách đỏ và xanh khác. Ở cái thời loạn sách, một cô sinh viên năm thứ hai cũng có thể được bố mẹ chi tiền in một tập thơ, những câu chữ rút ruột mà thành của Phùng Cung sẽ có tác động thế nào đến tâm thế con người?

*


Nếu dừng ở số lượng bài in trong tập Xem Ðêm thì ắt phải giật mình: 200 bài. Hai trăm bài thơ, bài nào cũng buộc ta phải lắng mình lại mà ngẫm nghĩ. Tự nghĩ, đây không phải là một sự xa xỉ lời ca ngợi. Cũng tự nghĩ: Dễ mấy người làm được thế trong thơ.
Thơ Phùng Cung là thứ thơ kiệm chữ, phảng phất gợi nhớ Tanca, Haiku của Nhật. Thơ ấy buộc mỗi chữ phải ở thế thăng hoa. Xem Ðêm đạt tới độ ấy: tứ không lộ và chữ thì như nhập hồn. Ví dụ mùa nước lụt, với Phùng Cung, đã là Mùa nước mắt:

Ðê tiền triều gãy khúc
Ðồng ngập trắng
Con lềnh đềnh cõng - vắng - bơi - suông
Thương em đứng giữa mùa nước mắt.

Ở một bài bất kỳ nào khác, cũng có thể tìm minh chứng cho điều đã nói, chẳng hạn Gặp em.

Lâu lắm gặp em
Em chỉ khóc quay đi
Bước - héo
Áo - gầy
Gió - va - nón - cũ
Tôi hiểu em
Tôi chẳng nói được gì.

Có thể là do hoàn cảnh sống riêng, Phùng Cung buộc phải đứng bên lề thế sự và do thế phải luôn luôn hướng nội, một đặc điểm của Xem Ðêm là không có bài nào động chạm trực tiếp tới các biến cố lịch sử trong đời sống dân tộc suốt mấy chục năm qua. Nhưng trung thành với mình như thế thì đã là một bản lĩnh nghệ thuật, và bản lĩnh thơ của Phùng Cung ở Xem Ðêm là ở chỗ thơ ông chứa chở không phải là các biến cố đến rồi đi mà là cái hồn vía của hiện thực được soi ngắm qua một đôi mắt thức.
Ấy là những mảng cắt từ một nông thôn Việt Nam khó nghèo, như Cua đồng:

Phận - lấm
Tối ngày đào khoáy
Lưng nắng - vẽ
Hoa văn tiền sử
Chài chãi đồng chiêm
Mấy kiếp rồi

Hay Vạc:

Nắng - đạp cánh đồng
xơ xác
Bước liêu xiêu
Cái vạc ăn ngày.

Phùng Cung, ở mặt này của hiện thực, đã đạt tới độ sâu sắc chưa từng thấy trong thơ ca Việt Nam mấy chục năm đổ lại đây. Thơ ông nói rất giỏi, rất giản dị về cái nghèo, cái lam lũ, cái thanh sạch và cam chịu cho đến giờ vẫn thống trị nông thôn Việt Nam. Thật khó tìm trong diện mạo thơ hôm nay những nét thơ này nếu không phải là chỉ có ở một thơ Phùng Cung. Thơ ông có cái kiệm lời của người từng trải:

Gió mưa sùi sụt
Lửa mất
Bếp còn
Âu rỗng chuột rình khua khoắng
Ba vua bếp già lo lắng lườm nhau.
(Bếp)



Bước em xéo bóng
Ði về hai buổi
Càm cắp queo hông
Nắm rau nón củi
Se sém nỗi ong vàng
Ðiếng nắng - hoa - ngâu.
(Nắng hoa ngâu)

Nếu nói về tài quan sát của Phùng Cung ở đây thì thật chưa đủ. Có bao nhiêu hòa nhập, yêu thương, gắn bó trong những câu chữ đó.
Và những yêu thương ấy lại tụ về chất chứa ở một người thôi - Phùng Cung. Trọn tập Xem Ðêm, không có bài nào nói tới những oan khiên trong đời nhà thơ, nhưng lại có rất nhiều bài nói tới những mất mát, thiếu hụt, những sự dữ của đời người, ví như một Ao hoang, Gãi đất, Quyên giáo, Ðậu mùa... Xuất hiện với tần suất gần như thế là những bài dường như chỉ vờn họa lại cái thuần khiết của sáng, chiều, trưa, của nắng mưa... Nhưng có bao giờ thơ tả cảnh lại chỉ là tả cảnh thôi đâu, với những tài thơ thực sự? Ví như chỉ ở một bài bất kỳ này của Xem Ðêm:

Dưa héo sào phơi
Em đi đâu
Chĩnh nước gốc cau
Ôm khoanh - trời cũ
Lá bưởi đầu hồi
Loáng thoáng phân chim.
(Vắng)

Có chăng mối liên hệ hữu cơ giữa hiện thực và kẻ nghiền ngẫm nó ở hiện tượng làm nên một đặc điểm thi pháp này của Phùng Cung?

*


Ðể mới hóa thơ, nhà thơ có thể đưa ra một tuyên ngôn thơ mang tính bùng nổ. Và biến tuyên ngôn thành hiện thực bằng những thi phẩm tân kỳ mà buổi đầu xuất hiện có thể làm người đọc sững sờ, phẫn nộ. Cũng có thể, người thơ sẽ lặng lẽ tiến chiếm những tiêu chí trên con đường hiện đại hoá thơ ca chỉ bằng những vần thơ nặng những tự tình. Người yêu thơ cuối thế kỷ này đang được chứng kiến lại một hiện tượng đã xảy ra từ đầu thế kỷ: thơ đang quẫy cựa, đang đòi tung phá, đang được mới hóa. Góp phần vào tiến trình đó của thơ ca là những Lê Ðạt với Bóng Chữ; Ðặng Ðình Hưng với Bến LạÔ Mai; là những Ðỗ Kh; Hoàng Hưng; Dương Tường; Khế Iêm... Rất nhiều tên tuổi nữa. Dường như Phùng Cung không đi chung một con đường với các nhà thơ vừa nói, nhưng vẫn là một đích ấy. Không thể coi là ngẫu nhiên hiện tượng Phùng Cung ưa một lối viết ngắn, súc tích hơn cả thơ Ðường, cũng như liên tục tạo từ mới hoặc tạo hàm nghĩa mới cho từ... Có không ít bài ở Xem Ðêm chỉ gồm có một câu.

Lặng nhịp sương rơi
Chiều - gạo - đổ
Dế gào chân mộ
Trăng lên...
(Nghĩa Trang)



Này em
Cây khế gãy rồi
Nỗi chua vẫn hỏi thăm
Người trồng cây.
(Cây Khế)

(Nghiến đứt hình thức thông thường của thơ sáu tám là hiện tượng thường thấy ở thơ ca hiện nay song chưa thấy ai ngắt nhịp 5/3 như ở câu tám bài trên (?Rất lạ!)

*


Khó có thể phủ nhận rằng trong văn xuôi đương đại, Tô Hoài là người đi dai nhất, xa nhất trong việc khai thác khả năng biểu cảm của tiếng Việt, cũng như làm phong phú nó. Dù có là họa sỹ cũng không dễ gì diễn tả cho hết các sắc độ của màu vàng qua sự mô tả của Tô Hoài. Phùng Cung chính là một người như thế của thơ ca Việt Nam đương đại. Nắng của Phùng Cung là nắng - Âu Cơ, nắng - ngả - tương, nắng - non, nắng - phơi - rơm, nắng - đồng - trinh, nắng - hàn - vi, nắng - hoa - ngâu, nắng - thừa, nắng - cũ... Và gió nữa: gió cỡn, gió quần, gió trong cả hình ảnh váy lộng buồm... Nắng gió đấy là nắng gió của thị giác mà trước hết là nắng gió của tiềm thức. Và những hình ảnh như thế xô dạt trong suốt Xem Ðêm như là sáng tạo riêng của họ Phùng thi sĩ.

Phùng Cung mang lại cho thơ sự vi diệu khi làm sống dậy những hình ảnh của khứu giác. Chưa hề thấy ở đâu sự xuất hiện thường xuyên đến thế của kiểu hình ảnh này như ở Xem Ðêm: Gió quần lùm ngải cứu - Mùi ngộ cảm đầy vườn; mùi cháo - canh; mùi tép rang hàng xóm thơm - nghiêng, trứng nhà ai rán - thơm - mùi - thiếu mỡ; Ai đốt rác lá tre bên ngõ - Lối đi đầy mùi - khói - cuối - năm, mùi - dòng - giống... Sự cụ thể hóa cái tưởng chừng khó cụ thể ấy đã là một nét đặc sắc của không gian nghệ thuật thơ Phùng Cung.

Phùng Cung tỉ mỉ nhạy cảm trong quan sát, cẩn trọng trong cấu tạo hình ảnh. Ðó tuyệt nhiên không phải là cái tỉ mỉ của lối tư duy liệt kê. Sau câu chữ như họa như khắc kia là những miền tâm cảm của một người ít ngủ. Hình ảnh này của chủ thể trữ tình thường hay thấy ở thơ những bậc ưu thời mẫn thế thuở xưa. Phùng Cung Xem Ðêm, những đêm của họ Phùng là những 'đêm - nghiêng - gió - chập - chờn - mưa - gõ - lá; ngọn đèn con đòi - lay - gió - cả ao sâu cá quẫy nhắn mưa rào; là Ðêm xá tội, là những Ðêm chợt nghe

Trong gối vọng tiếng ru
Lắng tai mới rõ
Tiếng tóc mình chuyển bạc.

Phải đọc những Nghe đêm, Xem đêm ấy mới có được hình dung không sai về gương mặt thơ Phùng Cung. Phùng Cung dồn chứa trong thơ cái tinh tế trước đời sống vi mô và cả vĩ mô. Ðọc Xem Ðêm, thấy mừng vì mình còn biết nhân hậu, và đôi lúc thấy rùng mình chắc sẽ là cảm giác của không phải một người, khi đọc (chẳng hạn) bài này:

Tội nghiệp nhà thơ
Hợm mình
Lầm lạc
Bởi không biết sống
Nên không biết chết
Nửa thế kỷ
Bị lưu đày
Trong cõi tung hô.
(Tội nghiệp)

Thơ Phùng Cung là thế, thâm trầm, thấm thía, tan trong tình và thăng hoa từ tình.

*


Rồi có thể có một ngày, thơ ca Việt Nam sẽ chuyển hẳn sang cái mà hôm nay ta gọi là thơ hiện đại hay hậu hiện đại hay (sẽ gọi là) hậu bình phương lập phương hiện đại và đi xa hơn thế. Thơ sẽ có thể chỉ gồm những nguyên âm hoặc phụ âm; sẽ xuống dòng nhiều như nhảy cầu thang hoặc sẽ không xuống dòng như trôi miên man trên biển, sẽ được cắt dán bằng các vật liệu tưởng chừng phi thơ hoặc sẽ được bẻ gãy như những đoạn chiến hào còn sót lại ở một góc rừng hoang sau nhiều năm im tiếng súng; Thơ có thể khai tử toàn bộ chấm và phẩy và toàn bộ các ký hiệu dấu /; ( ) hoặc đơn giản chỉ là một hay nhiều trang giấy trắng hoang tưởng giữa một tập sách...Và người yêu thơ sẽ giải mã được toàn bộ các ký hiệu âm thanh và vô thanh ấy. Hoặc không giải mã được thì cũng sẽ chấp nhận...

Tôi nhớ tới sự toàn thắng của Thơ Mới năm mươi năm hơn về trước. Trước khi tuyên xưng Thơ Mới, Hoài Thanh, Hoài Chân đã Cung chiêu anh hồn Tản Ðà như là người bắc cầu cho hai thế kỷ thơ. Người ta không thể gọi Phùng Cung là một nhà thơ hiện đại hiểu theo nghĩa trên, mà chắc gì nhà thơ muốn vậy, nhưng bằng phong cách đoạn tuyệt với nền thơ đương thời mà vẫn chất chứa cái hồn cốt của thơ Việt Nam muôn thuở, chắc chắn thơ Phùng Cung sẽ làm thiên hạ tốn không ít giấy mực và thời gian. Như Tản Ðà đã từng.

Thơ đang rất cần những kẻ âm thầm sống cho thơ như thế, và tài như thế. Tiếc thay, không nhiều!

1996
Nguồn: Đăng lần đầu trên Diá»…n Đàn, 1996