trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 235 bài
  1 - 20 / 235 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngChiến tranh nhìn từ nhiều phía
28.4.2007
Phan Quân
Tưởng niệm ngày 30-4
 
Với tâm trạng của một con chuột ở bên trong cái bẫy vừa sập xuống, người đàn ông chán nản nhìn cuộc sống quay cuồng bên ngoài, trên những nẻo đường thành phố. Thôi thế là hết, cả một quá khứ sự nghiệp, trong giây phút đã sụp đổ tan tành!

Mấy ngày trước đó, ông chạy đôn, chạy đáo, tìm đường thoát thân cho gia đình, cho chính mình, nhưng ngả nào cũng tắc tị. May mắn thay, phút chót, ông lọt vào cứ điểm cuối cùng của Mỹ để được hứa sẽ “bốc đi.” Ðến ngày hẹn, ông ngồi canh điện thoại, không cho ai sử dụng, chỉ nơm nớp trông chờ tiếng chuông gọi lại.

Thì giờ tích tắc, không đu đưa một chỗ như quả lắc, mà trôi đi, trôi đi, trong khi tiếng chuông điện thoại mong chờ cứ biền biệt xa vời. Ngày cạn dần mà cái mong chờ đâu chẳng thấy đến, trong khi bầu trời rợp phi cơ Mỹ, tầng trên là chiến đấu cơ phản lực bao vùng, tầng dưới là trực thăng đi lại như con thoi từ Sài Gòn ra vùng biển rộng. Người đàn ông ngước nhìn trời cao, ao ước và hy vọng, dù biết rằng, trong giây phút đó, tất cả chỉ là hão huyền. Nghe như vang dội trong tâm tư của mình câu ca: “Thượng Đế hỡi, có thấu...”

Không những chỉ hão huyền mà còn tuyệt vọng, vì kìa, tiếng nói của “Đại tướng-Tổng thống” đã vang vang trên tần số, không phải để ban chỉ thị, mà để kêu gọi chiến sĩ của mình buông súng, đừng bắn những “người anh em bên kia” của đại tướng nữa! Thế nhưng, vẫn còn những tiếng súng ấm ức, căm tức và tủi nhục, như danh tướng trấn biên cương, không giữ được nước, thà hy sinh với lòng trung trinh, chứ không chịu “tuân lệnh” thượng cấp quy hàng.

Thì ra những tấm gương trung hiếu, tiết nghĩa của tiền nhân từ Võ Tánh, Ngô Tùng Châu đến Hoàng Diệu, qua Phan Thanh Giảng và Nguyễn Tri Phương vẫn còn ngời sáng trong tâm hồn của một số chiến sĩ ở thế kỷ hai mươi, dẫu rằng tâm tư họ đang bấn loạn trước cảnh rã ngũ tan hàng. Đúng như Đặng Đức Siêu đã viết trong văn tế dành cho Võ Tánh và Ngô Tùng Châu:

Ngọc dầu tan, vẻ trắng nào phai,
Trúc dẫu cháy, tiết ngay vẫn để.

Những anh hùng đích thực của ngày ba mươi tháng tư năm đó thấu hiểu được tinh thần cao cả mà Hoàng Diệu đã lưu truyền trong tờ di biểu:

Tướng lược phi thường, tử quý sinh nhi vô ích,
Thành vong mạc cứu, túng nhiên hữu dư cô.

Thân là chiến sĩ mà không giữ được thành, chẳng bảo vệ được nước, không che chở được dân thì sinh sống để làm gì đây? Dẫu cho thành mất mà thân mình có hy sinh đi cũng còn có tội nữa là! Ba mươi hai năm qua, xin có một nén hương lòng thành kính dâng lên cho những người vì nước vĩnh viễn ra đi, chẳng chịu làm người di tản buồn!

Di tản nhất định là buồn, vì ra đi với hai bàn tay trắng; còn thêm những điều buồn tủi, những nỗi âu lo vì phía sau đã điêu tàn, ngõ trước lại mờ mịt, vô định và bấp bênh. Như một lần nhảy vào chân không, chẳng có dù bọc gió hãm đà rơi để đáp xuống an toàn. Ngoài ra, còn những nỗi nhục nhã, hèn hạ và tủi thân trên đường di tản vì bỗng dưng nước tiếp nhận phải gánh chịu một số người ăn chực nằm chờ, một gánh nặng từ đâu rơi xuống. Lòng người dẫu hào phóng đến đâu, nhưng khi bữa ăn hằng ngày của chính mình lại bị chia năm sẻ bảy cũng thấy mất vui.

Trên đường di tản buồn đó, có người chạy thoát, cũng có kẻ bị nằm lại với quê hương, chẳng còn là của mình nữa. Có những chuyến bay đã cất cánh nhưng không tới được nơi muốn đến. Ðạn pháo của quân thù khiến cho những cánh chim đi tìm tự do phải nằm xuống, không mồ mả, chẳng có thân tình và bạn bè thương tiếc! Rồi thân xác cứ theo thời gian mà rữa nát với gió thổi, mưa tuôn, nắng táp của cuộc đời. Ba mươi hai năm qua, những linh hồn lạc loài đó nay đã đi đâu và về đâu, hay cứ vẩn vơ trên mảnh đất nhiều người mà cũng lắm oan hồn này. Những oan khiên kia, không nơi nương tựa, đã gây nhiễu tinh thần của bầy ngựa hoang, lạc vào thành phố, thành thử lương tri họ bị ruỗng nát, có những hành động chẳng giống ai. Gợi nhớ ngày khó quên, ai ơi xin đừng bỏ rơi những oan hồn lang thang kia. Xin hãy mời họ lắng nghe một lời nguyền để sớm siêu sinh thoát hóa, phiêu diêu nhẹ nhàng cùng mây trắng bay xa.

Có những kẻ chạy đi, có những bạn bè nằm xuống và cũng có một số người sụp bẫy như người đàn ông nói trên kia. Làm thân “người ở lại” để lãnh đủ những gì mà người thắng cuộc muốn gán cho, vì trăm dâu đều đổ đầu tằm. Trong thế ngạo mạn, những người vừa chiến thắng hôm qua lớn tiếng rêu rao “đánh kẻ chạy đi, không đánh người ở lại,” thế nhưng, những cung cách bừa bãi, tùy tiện và hạ nhục đủ làm cho những “ngụy quân, ngụy quyền” bầm gan tím ruột, phải chi chết được còn sướng hơn. Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn. Hàng hàng lớp lớp “ngụy quân, ngụy quyền” bị tập trung “cải tạo,” để gọi là tẩy óc, rửa hồn, bị trở thành “công dân lương thiện xã hội chủ nghĩa,” không “ngồi mát ăn bát vàng.”

Tấm thân tù, sau lớp sơn mỹ từ, hào nhoáng “học tập cải tạo,” không được xét xử, không biết ngày ra, chỉ được đoàn tụ với gia đình khi “học tập tốt,” một định chuẩn mơ hồ và chập chờn, để ngụy trang bản án chung thân, ăn cơm tù, uống nước nhà lao cho đến hết quãng đời còn lại. Đói ăn, thiếu mặc, lao động cực hình, ốm đau thì “khắc phục,” dự trữ của thân xác chẳng còn gì, phải lấy thân nuôi thân, tâm hồn nặng trĩu khối u buồn côi cút.

Cho nên ngày một, ngày hai, thân tàn, ma dại, lang thang, thất thểu như những bóng ma trên hiện trường lao động khổ sai, để đạt cho được định mức “vinh quang xã hội chủ nghĩa!” Như bóng hình của những lá chết, cành khô sau cơn bão rớt dập vùi. Nên chi, có nhiều bạn bè yếu sức, đuối hơi nằm lại giữa đường lao lý, một dạng “học tập tốt” trước thời hạn.

Anh nằm xuống, sau một thời thất thểu trên cõi đời vô duyên, sống không phải sống, chết cũng chẳng ra chết. Anh nằm xuống, bạn bè chẳng được thăm hỏi, mắt trao tráo nhìn ruồi nhặng bay quanh, có đáp xuống cũng không buồn đuổi. Anh nằm xuống qua cái thờ ơ của tình đời, như con chó ghẻ chết đi, xin ăn trước chén cơm dằn bụng người chết theo thủ tục, cũng bị khước từ. Anh nằm xuống, thế là “bốn dài, hai ngắn,” hai tên hình sự, hai nuộc dây thừng, gọi là đưa tiễn anh về cõi vô biên, mịt mù năm tháng.

Nếu có ai còn thương tình, nhớ nghĩa, tìm ra địa điểm, chịu khó đào bới xương cốt đem về cải táng, thì dù thịt nát xương tan vẫn còn là diễm phúc. Chớ như một số anh, sống ở nhà giam, chết nằm trong lòng đất trại tù, người thân kẻ thương đâu đâu biền biệt. Xương tàn, cốt lụi, nằm trong đất Việt Nam, mà sao xa lạ, chờ hoài, chờ mãi đến dài cổ, hụt hơi. Thôi cũng đành nghìn thu viên miễn, lạc mồ, lạc mả, chơi vơi.

Có những người kẹt lại, sinh sống thử thời với chế độ mới lên, nhưng về lâu về dài thấy không chịu nổi, cũng phải cuốn gói ra đi, vì “cột đèn mà có chân thì nó cũng đi,” huống chi con người có đầu óc. Đường bộ, ngả biển, lối nào cũng tốt, chủ yếu là cứ đi. Đi cho rảnh mặt, đi cho khuất mắt, có chết cũng còn sướng hơn.

Trên hành trình vượt thoát đầy gian khổ đó, có người qua được, có kẻ không thoát, xuyên qua một cuộc sàng lọc gay go của lưới trời. Nào sóng to, gió cả, nào đói khát, ốm đau, nào hải tặc cướp bóc hãm hiếp... Con người làm mồi cho sóng nước, cho cá mập, kình ngư, cho cả con người hèn hạ, hung ác.

Sóng nước vỗ vào bờ cát, hòa điệu cùng gió trỗi lên khúc nhạc bi ai và gợi nhớ. Chịu khó lắng tai, có thể nghe thấy những hơi thở dài ai oán, những tiếng lòng nghẹn ngào thiết tha, nhắn nhủ bà con còn trên trần thế hãy tưởng nhớ và thương cảm. Trùng dương rộng lớn chứa chấp biết bao tâm tình của thuyền nhân, có đi mà không được đến. Tình huống thật thương tâm.

Mây ở trên trời mây muốn khóc,
Nước mắt ngày xưa lụt trăng sao.
(“Mây”, Trần Ngọc Trà)

Một chín bảy lăm, hai ngàn lẻ bảy. Ba mươi hai năm đằng đẵng. Từ những đau thương của một thế hệ vừa trôi qua, một lớp người Việt Nam mới đã xuất hiện, góp mặt cùng bốn bể năm châu, không thua kém ai. Trong bối cảnh an cư lạc nghiệp hôm nay, xin hãy để ra một đôi phút, tưởng nhớ và xót thương những người đã đi mà không đến, những người đã nằm lại trên đường lao lý, trên mảnh đất xưa cũ mà xa lạ, và vô vàn chiến sĩ can trường đã nằm xuống trên chiến địa, nay chẳng còn tên, vì một lý tưởng đời đời bất diệt!

Người xưa đâu tá?
Có linh xin hưởng!

(Hình trong bài: Tượng “Thương tiếc” của Nguyễn Thanh Thu, từng đặt trước cổng Nghĩa trang Quân đội Biên Hoà)

© 2007 talawas