|
|
|
 |
 |
20.10.2008
Minh Ngá»c
Đọc ý kiến của Tràng An, tôi thấy buồn cười cho lối bao biện khá ngô nghê của độc giả này. Ngô nghê ở chỗ, ông Hoàng Ngọc-Tuấn phê bình ông Hiến và ông Lữ trên bài viết của các ông ấy. Những bài viết này được đăng lên các trang đã dẫn và ông Tuấn viết dòng mở đầu rất rõ: "Đọc internet, tình cờ thấy trên báo Tia Sáng ngày 2/10/2008 có một bài viết dưới nhan đề là ‘Góp chuyện hậu hiện đại’, tôi vào xem cho biết,..." thì làm sao Tràng An lại đòi ông Tuấn phải "trực tiếp tham dự"? Có lẽ Tràng An cho rằng, những bài viết của ông Hiến và ông Lữ thì be bét (như lời ông Tuấn đã phân tích) còn những điều các ông ấy phát biểu ở các cuộc hội thảo nào đó thì không be bét? Nếu không, Tràng An mang chuyện này ra nói để làm chi? Nếu có, các ông Hiến và Lữ viết bậy bạ làm chi để rồi phải ê chề? Tràng An còn "bẻ" từ chuyện trình độ học vấn sang chuyện văn hoá mà không thấy thẹn thì quả là đáng nể. Thẹn ở chỗ, chính Tràng An bênh vực những kẻ thiếu văn hoá đến độ, như theo lời ông Tuấn đưa ra: "Chỉ có những cậu học trò trung học lười biếng, ẩu tả, thì mới vội vã cho ta câu trả lời rằng: “Từ “hậu hiện đại” (postmodern) xuất hiện lần đầu trong cuốn Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne) của Jean-Francois Lyotard...”, hay “Thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại lần đầu tiên xuất hiện năm 1977, trong cuốn sách Ngôn ngữ kiến trúc hiện đại (sic) của Charles Djenks (sic).” Những cái sai lố bịch ấy chứng tỏ ông Hoàng Ngọc Hiến chưa từng biết đến một tài liệu nào sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa hậu hiện đại” trước cuốn sách năm 1977 ấy (mà ông đã ghi sai cả tên tác giả lẫn tên sách), và ông Trịnh Lữ chưa từng biết đến một tài liệu nào sử dụng từ “hậu hiện đại” trước khi ông nhìn thấy cuốn sách Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne, 1979) của Jean-Francois Lyotard, do Phạm Xuân Nguyên dịch (nxb. Tri Thức, 2007). Cả hai ông đều không biết “hậu hiện đại” có cái gì trước 1977 và 1979, nhưng cả hai ông đều không hề có một chút thắc mắc nào cả. Thậm chí, hai ông cũng chỉ may mắn lắm là trông thấy hai cái bìa sách ấy, hay nghe người nào nói loáng thoáng về hai cuốn sách ấy là cùng. Vì nếu hai ông thực sự có đọc hai cuốn sách ấy, thì hai ông sẽ tuyệt đối không thể tìm ra trong hai cuốn sách ấy có bất cứ dòng chữ nào ghi rằng hai tác giả ấy là những người đầu tiên đẻ ra các từ “postmodern” và/hoặc “postmodernism”! Chưa đọc sách, chỉ nghe lóm hay chỉ nhìn thấy cái bìa sách, thế mà các ông tự tin tuyệt đối vào cái biết hạn hẹp đến kỳ quái của mình, và các ông hiên ngang phun châu nhả ngọc về “hậu hiện đại” tại các hội thảo khoa học cao cấp ở thủ đô! Thế là thế nào?" Tôi không rõ Tràng An có quan niệm thế nào là kẻ có văn hoá. Bản thân tôi, những kẻ được ông Tuấn nêu ra ở trên rành rành là những kẻ không có một tí văn hoá nào mới có những hành động và thái độ như thế. Tràng An còn tự tin đến độ đã đưa ra 3 điểm dạy bảo nhưng bất chấp những điều mình đang dạy bảo đúng hay sai. 1) Những văn bản nào cần dùng để tập trung phê bình thế? 2) Những điều ông Tuấn phê bình ông Hiến và ông Lữ không khoa học ở những điểm nào? Ông Tuấn đã chửi bới, đạp đổ và thoả mãn tự ái và mưu đồ cá nhân ở những điểm nào? 3) Ông Tuấn viết không trúng đích ở những điểm nào? Đòi hỏi phải "phê bình mang tính khoa học" nhưng lại quy chụp cho ông Tuấn những điều tệ hại mà không cần đưa ra một mảy may dẫn chứng và phân tích nào thì độc giả Tràng An lấy tư cách gì để... dạy? Buồn cười thì đã hẳn, nhưng khi đọc những ý kiến như của độc giả Tràng An thì tôi quả thật buồn.
19.10.2008
Trà ng An
Đôi lời về bài “Một quái trạng văn hóa” Đọc bài “ Một quái trạng văn hóa” của ông Hoàng Ngọc-Tuấn, tôi thấy có ích phần nào lại chính là nhờ một trang dài liệt kê các sách vở có nhắc đến từ “hậu hiện đại”, phần còn lại khiến người đọc nghi ngờ tự hỏi không biết ông Ngọc-Tuấn này có phải chính là ông Ngọc-Tuấn ấy, trình độ học vấn đến thế ấy mà không biết trình độ văn hóa ra làm sao? Một cuộc hội thảo khoa học mà ông không trực tiếp tham dự, cũng chưa được đọc hết các bài tham luận đã bị ông phỉ báng là “hội thảo cốt để giải ngân”. Một tác giả được nhiều bạn đọc yêu mến kính trọng không chỉ vì tài hoa mà còn vì nhân cách như ông Trịnh Lữ thì được ông gọi là “háo danh, tự mãn, vô trách nhiệm”. Tiếc một điều là ông Ngọc-Tuấn có lẽ chưa biết, ông Trịnh Lữ vốn chưa bao giờ tự xưng là nhà này nhà nọ, cũng không thấy ông ham hố tham gia vào những hội này hội kia, uy tín mà ông có được từ bạn đọc gần xa vì lẽ đó mà thực sự vô tư trong sáng, khởi xuất từ chính những lao động nghệ thuật lặng lẽ và nghiêm cẩn của ông. Bạn đọc Việt Nam ngày nay tuy chưa được sống ở môi trường văn minh với hệ thống thư viện tiện lợi như ông Ngọc-Tuấn ở tận bên Sydney nhưng cũng nhờ có mạng internet mà được nối với thế giới, lại cũng ngày càng có nhiều người có điều kiện đi du học đây đó, chẳng đến nỗi nào bị ông coi như những kẻ chẳng biết gì như thế. Chúng tôi biết đọc, biết sàng lọc, biết tìm ra cái hay cái dở, cái đáng tiếp nhận, cái cần phải suy nghĩ bàn luận thêm chứ đâu có phải con rối để các ông nói gì chúng tôi cũng cắm đầu cắm cổ tin theo? Cá nhân tôi thấy bài tham luận của ông Trịnh Lữ là một hành động dũng cảm, không xu thời dễ dãi, khơi gợi nhiều suy nghĩ cho những người làm nghệ thuật nước nhà nên tỉnh táo khi tiếp nhận các luồng văn hóa, tư tưởng, ngõ hầu tìm ra một lối đi cho bản thân. Tôi không thấy ông Trịnh Lữ ra giọng dạy bảo ai, xúc phạm ai, ông chỉ mạnh dạn nêu lên những suy nghĩ của ông một cách khiêm tốn, có văn hóa. Không phải nói nhiều thì những người vô tư, tử tế có dịp biết tới nguyên văn bài phát biểu của ông Trịnh Lữ (chứ không phải chỉ là bài trích đăng, cắt xén không hỏi ý kiến tác giả trên một số báo mạng) rồi đọc bài của ông Ngọc-Tuấn thì cũng đủ hiểu cả rồi. Tôi chỉ xin góp đôi lời thế này, để nâng cao tầm văn hóa phê bình, người viết phê bình nên chăng tự nhắc mình: 1. Khi phê bình nên tập trung vào văn bản, không nên có những qui kết vội vàng về nhân cách của tác giả một cách vô lối, xúc phạm. 2. Phê bình mang tính khoa học, xây dựng, để làm rõ thêm vấn đề, khơi gợi để độc giả cùng suy nghĩ hay phê bình để chửi bới, đạp đổ, thỏa mãn tự ái và mưu đồ cá nhân? 3. Chỉ ra những tiểu tiết chưa rõ hoặc chưa chính xác là cái tốt. Nhưng quan trọng hơn nên viết cho trúng đích, phê bình cái mà người ta đang bàn tới, không nên cố bới lông tìm vết rồi lu loa qui chụp, xúc phạm. Dung túng cho những kiểu phê bình “cả vú lấp miệng em” như thế sẽ khiến những người yếu bóng vía phát hoảng, chả ai dám nói lên ý kiến trái chiều, còn những người vốn ưa tịch lặng có thể ngao ngán mà bỏ mặc cho những kẻ xu thời náo loạn mà thôi. Là một bạn đọc rất mực kính trọng ông Trịnh Lữ, tôi thực lòng tin tưởng ông sẽ không lấy thế làm điều, vẫn tiếp tục dám nói những điều “nghịch nhĩ” một đám đông.
18.10.2008
Chu Việt
Ông già Thế Uyên Ông ở nhà già, gọi ông là ông già là thuận lý nhưng khiên cưỡng. Thật ra ông không già. Ông là một loại người mà Tàu gọi là “ nhân lão, tâm bất lão”, hiểu theo ý nghiêm túc. Nhà già được ông mô tả như một nơi nghỉ mát lý tưởng ở đâu như Acapulco hay Waikiki. Đọc văn ông, bao giờ tôi cũng thấy xúc động vì ông nhìn đâu cũng thấy đời mầu hồng trong khi nó xám xịt, con người lạc quan hết thuốc chữa. Cách đây dăm sáu năm, ông bị tai biến mạch máu não, liệt một nửa người, tưởng đâu đã ô-rơ-voa văn nghiệp. Nhưng không, liệt tay phải, ông phấn đấu luyện tập viết bằng tay trái, và chỉ ít lâu sau lại thấy xuất hiện bài vở của Thế Uyên. Một gương ý chí bất khuất đáng nể phục. Tôi thích văn Thế Uyên vì nó dung dị, lãng mạn, giầu cảm tính, rất gần gũi với Thạch Lam - chú ông. Ông đọc nhiều, hiểu rộng, tri thức không thua kém ai. Vốn ngoại ngữ của ông không thâm sâu lắm nhưng ông đã dịch thành công cuốn Exodus của Leon Uris. Tác phẩm của ông gồm phần lớn là truyện ngắn, trong số đó tôi thích nhất là “Căn nhà của mẹ” viết năm 1970 với một văn phong thể ký và cốt truyện đơn giản làm lòng người rung động. Độc giả và các nhà phê bình thường chê trách Thế Uyên ở điểm ông nặng phần dục tình trong các tác phẩm, có khi đẩy nó tới mấp mé bờ kích dục, thí dụ như trong truyện ngắn ”Nhà văn già và cô bé gù”. Tôi chỉ thấy chuyện này thường tình và khá phổ biến. Viết về dục tình nhưng ông vẫn né tránh sự dung tục mà thi vị hóa nó một cách phóng khoáng. Ông đâu táo tợn bằng Thấm Vân, sỗ sàng như Đỗ Kh. trong “Linda mặt ngang”, hay trắng trợn như Khánh Trường trong “Có yêu em không?” Phải, Thế Uyên có viết một sê-ri bài về dục tình nơi các nhà văn nữ ở hải ngoại [kể cả Phạm Thị Hoài], trong đó kỹ thuật của ông là trích đoạn những câu liên hệ tiêu biểu nhất. Thế thôi, không có gì là lập thuyết hay phê bình dài dòng cả. Đơn giản, ông chỉ làm một công việc thâu góp (compilation) mà thôi. Có thể lý giải thiên hướng dục tình trong văn chương Thế Uyên bằng giả thuyết ẩn ức kiểu Freud. Nhưng tôi không thấy dấu hiệu chứng cứ gì nơi con người của ông. Trước khi bị tai biến não, ông ung dung nốc bia và hút thuốc lá liên tu như thổi ống bễ. Người anh của ông (Duy Lam) – nguyên là một vận động viên thể dục - thường than phiền với tôi: “Thằng ấy chẳng chịu thể dục thể thao bao giờ cả”. Nhưng có một điều tôi nhận xét nơi Thế Uyên là ông có một libido mạnh hơn người thường và đối tượng của ông bao giờ cũng chỉ là vợ ông (nhân vật Thi), một người đàn bà nhỏ bé, xinh đẹp, đảm đang, Ông là người chồng tuyệt đối chung thủy với vợ dù tính tình rất phóng khoáng. Cách đây ít lâu tôi có sang Seattle thăm ông, thấy ông mập hẳn ra (vì phải cai thuốc lá) và trông thật giống bà mẹ (Nguyễn Thị Thế). Tò mò, tôi hỏi đùa ông: “Này, ông liệt nửa người bên phải. Thế còn ‘hình nhi hạ’ có bị liệt không?” Ông tỉnh bơ đáp “vẫn như thường lệ”. Tuần trước, anh Nguyễn Tường Thiết có e-mail cho tôi báo tin Thế Uyên đang bị đau nặng, kèm theo là e-mail của Thế Uyên cho biết ông bị nhiễm trùng túi mật ở gan (gallbladder), một hai tháng sau phải giải phẫu cắt bỏ. Tôi hỏi bác sĩ Nguyễn Tường Giang (nhà thơ, con út Thạch Lam) có sao không. Giang bảo không sao cả, thường thôi. Tôi e-mail cho Thế Uyên động viên tinh thần và nhắc lại lời Giang. Nhưng ở tuổi 73 của ông, cái gì cũng có thế xẩy ra. Cho nên tôi cầu Trời khấn Phật – kể cả xin đấng Allah, cho thời thượng – cho ông tai qua nạn khỏi như lần trước.
17.10.2008
Nguyên Trưá»ng
Cho choa góp mười ngàn đồng! Quê choa có một ông bí thư tỉnh uỷ hồi hưu, nghe đâu mới nhận bằng tiến sĩ (TS), vui ơi là vui! Chẳng biết khi còn tại nhiệm ông đã học hết lớp mấy và có bằng A Anh văn chưa, nhưng sau khi hồi hưu được vài năm thì ở hội nghị nào cũng thấy (đấy là nói mấy cái hội thí dụ như khuyến học gì đó, cốt để mấy anh háo danh khoe và tâng bốc nhau cho đỡ nhớ thời còn tại nhiệm) người ta giới thiệu: “Anh TVK vừa nhận bằng tiến sĩ ở Singapore về”. Nhưng ở bên dưới người ta lại kháo nhau: “Thằng ấy thuốc sâu (TS) đấy!” Thôi thì tiến-sĩ-thuốc-sâu gì cũng được, miễn là vài năm nữa ông cựu bí thư quê choa sẽ có tên trên bảng vàng bia đá ở cái Văn Miếu thời đổi mới là vui rồi. Cứ nghĩ đến ngày choa được ra thăm cái Văn Miếu ấy, được nhìn thấy tên ông cựu bí thư tỉnh uỷ TS đồng hương trên bia đá cưỡi mu rùa là choa lại thấy run bắn cả người lên vì sướng rồi. Được sướng mà lại không đóng góp gì thì cũng kì, cho nên choa xin ông Phạm Minh Hạc, là người đang làm cố vấn cho cái Văn Miếu hiện đại đó, công khai tài khoản công trình để choa có điều kiện góp mười ngàn đồng. Chẳng phải xây dựng đâu mà chỉ nhằm bôi trơn ngòi bút, cho ông TS quê choa được ra hàng bia mặt tiền mà thôi. Ai vô tình đọc mấy dòng này mà lại có quen biết ông Phạm Minh Hạc, xin nhắn giùm. Choa xin cám ơn trước!
11.10.2008
Hồ Bạch Thảo
Bài viết về Ải Nam Quan của ông Trương Nhân Tuấn rất công phu, tôi xin phép được góp ý về một vài địa danh: 1. Ông Tuấn mô tả vị trí hai ải Thủy Khẩu và Bình Nhi khá chính xác. Nếu mở bản đồ phía nam Trung Quốc tại trang maps.google.com, hãy bắt đầu từ Nam Ninh tức thành Ung xưa, hướng nam đi ngược sông Tả Giang qua Long Châu, đến đây dòng sông chia làm hai: nhánh bên trái đi vào Lạng Sơn qua biên giới nước ta tại Ải Bình Nhi, nhánh bên phải vào Cao Bằng qua biên giới tại Ải Thủy Khẩu. Thời nhà Tây Sơn, có thỏa ước với nhà Thanh mang hàng hóa qua hai quan ải này buôn bán. 2. Theo Ðào Duy Anh tham khảo từ Thiên hạ quận quốc chép: “Pha Lũy tức Nam Quan…” Tôi làm bản tra cứu (Index) cho Minh thực lục, thấy trong sách này chép tên “Pha Lũy” 8 lần từ năm 1428 trở về trước, chép tên “Nam Quan” 4 lần từ năm 1539 trở về sau. Riêng Thanh thực lục chép tên “Nam Quan” 23 lần, không có tên “Pha Lũy”. Như vậy Ải Pha Lũy được đổi tên thành Nam Quan có thể từ thời Gia Tĩnh. 3. Ông Tuấn nói có thuyết cho rằng Pha Lũy phía nam Kê Lăng, có thuyết cho rằng ở phía bắc Kê Lăng. Tôi xin chép lại một đoạn nhật ký của Thượng thư Hoàng Phúc, người đã đích thân đi trên con đường này lúc sang làm quan tại nước ta dưới thời Minh thuộc: “Sáng sớm từ Ải Pha Lũy tại biên giới đi ngựa đến giờ Ngọ đến đồn Khâu Ôn. Ngày hôm sau khởi hành từ sáng tại Khâu Ôn đến giờ Ngọ đến Ải Lưu, tiếp tục đến chiều đến đồn Kê Linh [Lăng]. Đi tiếp 2 ngày đến đồn Cần Trạm…”
|
|