trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
21 - 40 / 3021 bài
21 - 40 / 3021 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z


24.10.2008
Nguyễn Đình Đăng

Có hay không việc thay đổi chủ đề hội thảo?

Tôi là một trong những người nhận được thư mời viết tham luận và giấy mời tham dự từ Ban Tổ chức hội thảo “Nghệ thuật Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá”, diễn ra vào ngày 24/9/2008 vừa qua tại Hà Nội. Tôi đã không có thời gian viết tham luận và cũng không thể về dự hội thảo. Tuy nhiên, tôi vẫn còn giữ tất cả emails mà Ban Mỹ thuật Hiện đại của Viện Mỹ thuật Việt Nam đã gửi cho tôi trước hội thảo.

Nhân việc một số người cho rằng có sự thiếu nhất quán về chủ đề giữa hai lần mời viết tham luận, đã được đề cập đến trên talawas cũng như một số báo trong nước, tôi đã xem lại emails liên quan đến hội thảo này, và thấy rằng thư mời viết tham luận được gửi lần thứ nhất vào ngày 23/4/2008, lần thứ hai: ngày 11/7/2008, còn giấy mời dự hội thảo được gửi ngày 15/9/2008. Tôi không phát hiện ra bất cứ sự thay đổi nào về chủ đề “Nghệ thuật Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá” được ghi rõ trong 2 thư mời viết tham luận. Sự khác nhau duy nhất giữa thư mời viết tham luận gửi lần thứ nhất (tháng 4) và lần thứ thứ hai (tháng 7) là 2 từ “(lần 2)” trong bức thư tháng 7. Giấy mời dự hội thảo đề ngày 15/9/2008 do hiệu trưởng Đại học Mỹ thuật Việt Nam kiêm Viện trưởng Viện Mỹ thuật Lê Anh Vân đứng tên cũng giữ nguyên chủ đề nói trên.

Bản sao 2 bức thư mời và giấy mời đó được kèm dưới đây để quý vị tiện kiểm chứng.

Thư mời viết tham luận lần thứ nhất, 23/4/2008

Thư mời viết tham luận lần thứ hai 11/7/2008

Giấy mời dự hội thảo ngày 15/9/2008
 


24.10.2008
Mai SÆ¡n
Gần đây mỗi khi có bài của tác giả Nguyễn Mai Sơn đăng trên talawas tôi lại nhận được vài cú điện thoại, vài cái email, tin nhắn của bạn bè, người quen, kẻ lạ hỏi han vì nhầm tưởng tôi (Mai Sơn, địa chỉ email là nguyenmaison…, một người viết văn, dịch thuật ở Sài Gòn, lâu lâu cũng có bài đăng trên diễn đàn này) là tác giả Nguyễn Mai Sơn nói trên. Chắc cũng còn người nhầm tưởng và tin chắc như thế. Thật bất tiện cho tôi. Vậy mong talawas cho tôi chút “đất” để thanh minh chung. Xin cám ơn.
 


24.10.2008
Lệ Dân
Ông Hoàng Ngọc-Tuấn đã dùng một kiểu ngụy phương pháp cần thiết để phê phán Trịnh Lữ và Hoàng Ngọc Hiến. Tác giả Phạm Xuân Nguyên cũng đã làm như vậy trong một bài viết trên Tia Sáng số 20. Điểm xuất phát không phải là niên đại hoá chủ nghĩa hậu hiện đại về mặt nội hàm của postmodernism (hoặc tương đương), mà là sử dụng vỏ từ, với tư cách là thuật ngữ (như term trong ý kiến của một tác giả khác đã trích nhiều lần trên talawas) cùng thời điểm ra đời, tác giả và công trình liên quan đến sự ra đời (xuất hiện) của thuật ngữ ấy. Và cơ sự nhầm lầm này lại được gợi nên từ cách diễn đạt như đinh đóng cột của Trịnh Lữ và Hoàng Ngọc Hiến.
 
Ngụy phương pháp của Hoàng Ngọc-Tuấn, khi sử dụng cách diễn đạt ấy để phê phán lại hướng đến những hàm ngôn khác trong nhận xét cách thế học thuật:
  
  1. Tình cảnh không có thông tin;
  2. Thói không đếm xỉa đến thông tin mới và không có năng lực truy tìm thông tin mới;
  3. Phong cách cố cựu về quyền uy học thuật trong đáy giếng.

Với những hàm ngôn đó, bài viết đã có ấn tượng rồi. Rất tiếc ông Tuấn đã đi xa hơn khi gọi nó là “quái trạng văn hoá” và xem đó như tầm mức học trò.
 


23.10.2008
Nghiêm Quang

Đọc bài của ông Hoàng Ngọc-Tuấn và một số ý kiến phụ họa miệt thị nặng nề hai ông Trịnh Lữ - Hoàng Ngọc Hiến, tôi cho là các vị mang sẵn một định kiến trong đầu, nên triển khai lan man đến tư cách cá nhân của người bị phê bình, thay vì tập trung đến vấn đề cần bàn là nguồn gốc và thời điểm xuất hiện cụm từ "hậu hiện đại".

Ngay ở điểm mấu chốt này, là lý do dẫn đến bài viết nóng giận với những lời lẽ đao to búa lớn, ông Hoàng Ngọc-Tuấn đã có chút nhầm lẫn về phương pháp. Ông xét đến cái vỏ của từ postmodern và thao tác thủ công liệt kê các tài liệu có chứa từ nầy trước 1977. Cái sai nằm ở chỗ, khi bàn đến một trào lưu triết học, mỹ học, nghệ thuật, điều quan trọng không phải là vỏ từ mà chính là nội hàm của nó. Định nghĩa của postmodern những năm đầu thế kỷ 20 làm sao giống với định nghĩa hiện tại. Để so sánh, tiếng Việt của 2000 năm trước cũng là tiếng Việt nhưng không phải là thứ tiếng Việt mà chúng ta đang nói năm 2008.

Vả lại, trích một bài của Umberto Eco qua bản dịch Vũ Ngọc Thăng cũng trên talawas: "’Hậu hiện đại’, không may, là một thuật ngữ xài đâu cũng được. Tôi có cảm tưởng là hôm nay người ta áp dụng nó cho mọi chuyện mà người sử dụng thích. Mặt khác, hình như có một ý đồ làm thuật ngữ này trượt lùi: trước tiên nó có vẻ thích nghi cho một vài nhà văn hoặc nghệ sĩ hoạt động trong hai mươi năm vừa qua, rồi dần dà kéo lại tới đầu thế kỉ, rồi lùi lại nữa, và cuộc đi vẫn tiếp tục, chắc không lâu nữa phạm trù hậu hiện đại sẽ tới Homer.

Theo cách làm của ông Tuấn thì quả thực "chắc không lâu nữa phạm trù hậu hiện đại sẽ tới Homer".

Do vậy, nếu nói khái niệm postmodern xuất hiện lần đầu (với nội hàm/định nghĩa gần với những gì được hiểu hiện nay) trong sách của Charles Jencks hay trong sách của Jean-François Lyotard thì không phải là sai, đừng nói tới "quái trạng văn hóa", "sai khủng khiếp / lố bịch" để rồi "lan ra nhanh chóng như hai cái chân lý bằng dầu phộng". "Hậu hiện đại là một khuynh hướng không thể được diễn tả một cách lịch đại", cho nên việc xác định cha đẻ trực tiếp của định nghĩa postmodern chỉ có tánh cách tương đối. Không thể khẳng định chính xác tuyệt đối chỉ người này (là cha đẻ) và không là người kia như trong sinh vật học.

Những trích dẫn dưới đây cho thấy hai ông Hoàng Ngọc Hiến - Trịnh Lữ không cô đơn với các xác định thời điểm xuất hiện khái niệm hậu hiện đại trong các bài viết của họ. Hoặc tác giả những trích dẫn nầy cũng viết xằng bậy, và hứng chịu cùng một loại phê bình với hai ông, hoặc ông Hoàng Ngọc-Tuấn (có thể nào chăng) chưa chính xác. Trong trường hợp đó, những lời lẽ ông đã viết sẽ là phản đòn gởi trả lại ông.

Xin lỗi vì đây không phải là chuyên môn của tôi, nên tôi không tự tiện dịch ra tiếng Việt phần này, quý vị nào có thể, xin giúp cho. Và cũng rất tiếc vì tôi quý mến ông Hoàng Ngọc-Tuấn và trang Tiền Vệ do ông chủ trương, cũng như tôi dành sự kính trọng cho các ông Trịnh Lữ, Hoàng Ngọc Hiến. Cả ba vị đều có những đóng góp không nhỏ cho văn hóa văn nghệ.

1. "C´est alors un critique d´architecture, Charles Jencks, qui utilisa sans doute pour la première fois le terme ‘postmoderne’ dans un ouvrage publié en 1978 intitulé L´Architecture postmoderne." (Trang philo.fr của nhà odile jacob chủ trương, Bộ Quốc gia Giáo dục và Đại học Pháp hỗ trợ)

2. "The term ‘postmodernism’ first entered the philosophical lexicon in 1979, with the publication of The Postmodern Condition by Jean-François Lyotard.”

"The term ‘postmodern’ came into the philosophical lexicon with the publication of Jean-François Lyotard's La Condition Postmoderne in 1979.” (Stanford Encyclopedia of Philosophy)

3. "Le post-modernisme désigne un mouvement artistique, initié et théorisé par Charles Jencks."

"Le terme post-modernisme a été utilisé aussitôt par des philosophes de la déconstruction comme Jean-François Lyotard pour désigner un courant de l'histoire des idées et de la littérature de la Post-modernité."

"Il serait d'ailleurs problématique de voir en Lyotard le père de ce que les Américains appellent les postmodern studies."

"Les premiers philosophes ayant influencés la philosophie postmoderne ont été Michel Foucault, Jean-François Lyotard et Jacques Derrida." (Wikipedia tiếng Pháp)

4. "Lyotard occupies a significant position in postmodern educational thinking primarily because his (1984) book The Postmodern Condition: A Report on Knowledge (first published in 1979) was for many British readers their first introduction to the links between education and the postmodern condition.”

"For those interested in researching issues in the postcompulsory education sectors (higher, further, adult, community), there is no better starting point as guide to the emergence of the 'postmodern condition' than Lyotard's The Postmodern Condition: A Report on Knowledge." (Website trường Plymouth)

5. "Le terme de ' post-moderne’ fit son apparition dans un premier temps au niveau artistique, et plus particulièrement en architecture sous la plume de Charles Jencks." (Tiểu luận của một sinh viên khoa chánh trị trường Đại học Jean Moulin Lyon 3)

Chú ý phụ chú số 58 của quyển nầy:

"Même le livre de Lyotard, La condition postmoderne, qui est considéré aujourd'hui comme la clef de voûte de toute définition du mouvement postmoderne,..."
 


23.10.2008
Nguyá»…n Mai SÆ¡n

Từ “hậu hiện đại”, khái niệm “hậu hiện đại”, “tâm thức hậu hiện đại”, “trào lưu hậu hiện đại”, “chủ nghĩa hậu hiện đại”, “hoàn cảnh hậu hiện đại”… đều đã trở nên quen thuộc trong đời sống văn học nghệ thuật với nhiều cách tiếp cận, cách hiểu và lý giải.

Ông Trịnh Lữ nói “xuất hiện lần đầu trong cuốn Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne) của Jean-Francois Lyotard” là không ổn, nhưng với việc “Góp chuyện hậu hiện đại”, thì không thể phủ nhận những gì ông đã viết và hiểu về “hậu hiện đại” dù là nông hay sâu, đúng hay sai. Tinh thần của hậu hiện đại là có quyền nghi ngờ vào tất cả những cái gọi là “văn bản lớn”, “trần thuật lớn”, “lý giải lớn”, “chuyên gia lớn”... Đã nghi ngờ vào mọi “lý giải lớn” thì cho dù ai đó có được cái tiếng là “chuyên gia hậu hiện đại” thì cũng không phải gì là ghê gớm. Những “kiến thức” về “hậu hiện đại” có thể đến từ vài thao tác nhấp chuột trên mạng internet. Thế thì cái gọi là “chuyên gia của chủ nghĩa hậu hiện đại” nếu không “tiêu hóa” được nó thì cũng chỉ là nhai đi nhai lại những mớ kiến thức đã được sắp đặt, trình làng mà thôi.

Ông Hoàng Ngọc-Tuấn có tư cách nhất định trong nghiên cứu về “hậu hiện đại”, nhưng không có nghĩa rằng ông “nói đúng” tất cả về hậu hiện đại. Trong vô vàn cái đúng, có cái sai, và ngược lại, cho nên không ai có thể tự vỗ ngực cho rằng mình đã hiểu trọn về “hậu hiện đại”. Vì khi “chủ nghĩa hậu hiện đại” ra đời, nó cũng phải cho mình một “quan điểm”, một “định nghĩa”…, tức là nó cũng trở thành một “trần thuật lớn”, “văn bản lớn”, “lý giải lớn”… thế thì nó có phải là “chân lý tuyệt đối” để người ta không thể “phủ định” nó, nghi ngờ nó được không? Và nếu đúng với “tinh thần hậu hiện đại” và những gì nó kêu gọi thì nó cũng phải biết nghi ngờ chính nó, “phủ định” chính nó.

Tôi nghĩ, với một cụm từ “lần đầu tiên xuất hiện” mà Hoàng Ngọc-Tuấn đã phải hạ thấp một đồng nghiệp nghiên cứu và “góp chuyện” với hậu hiện đại như Trịnh Lữ xuống mức thua “cậu học trò” phổ thông thì e có phần quá ngôn. Dĩ nhiên, tôi không bàn về lịch sử ra đời của từ “hậu hiện đại” cũng như chuyện chữ nghĩa (càng bàn càng xa) của nó, vì khái niệm “hiện đại” vẫn còn là cái “đương là”, cái “đang ở”, thì cái gì có “hậu” ắt có “tiền”, tức có đối đãi, phân biệt.

Sau khi bài của ông Trịnh Lữ được đăng tải, tôi thấy trên blog của Nguyên Đầu Bạc đã có phản ứng khá sớm (có lẽ còn sớm hơn cả bài phản ứng trên talawas) với khái niệm “lần đầu tiên”; nhưng so sánh bài này với bài của Hoàng Ngọc-Tuấn, tôi thấy cũng là chỉ ra cái “sai”, cái “nhầm lẫn” về mặt chi tiết “lịch sử ra đời” của từ “hậu hiện đại”, nhưng nhiều khi “cách nói” còn quan trọng hơn “vấn đề nói”, bởi vậy cùng chỉ ra cái “sai” nhưng có người thuyết phục hơn mà có người thì không?

Hoàng Ngọc-Tuấn có thể bằng tinh thần của “hậu hiện đại” nghi ngờ mọi giá trị ẩn đằng sau những cái danh “nhà nghiên cứu”, “giáo sư”, “tiến sĩ”, “hội thảo khoa học”, để không bị những cái đó đánh lạc hướng nhận thức của mọi người. Nhưng nếu chỉ vì bản thân phạm vi nghiên cứu “có tiếng” của mình để kéo thấp giá trị từ một bài viết của một người đến cả một giới nghiên cứu, giới học giả trong nước… thì chẳng khác nào nhờ cái “sai phổ thông” của người mà tôn mình lên. Tôi tạm suy nghĩ, phải chăng đó là “thời cơ hậu hiện đại” để một số người trở thành “nhà hậu hiện đại” thực thụ? Nhưng không biết tôi có nhầm không, khi bằng tinh thần của hậu hiện đại, mọi người không chỉ có quyền được “đúng” mà còn có quyền được “sai”, quyền “ngộ luận” nữa.

Có nhiều bất đồng chung quanh sự ra đời khái niệm “chủ nghĩa hậu hiện đại”, nhưng đa số chọn thời điểm sau Thế chiến thứ Hai. Có người còn cho nó một ngày chào đời rất rõ ràng: “Hiện đại kết thúc và Hậu hiện đại bắt đầu ở Hiroshima vào ngày 6 tháng 8 năm 1945”, theo như Mark Taylor (Modernity ended and postmodernity began in Hiroshima on 6 August 1945)… Nhưng cũng có người cho rằng không cần thiết phải đóng Hậu hiện đại vào một khung lịch đại nào, như Umberto Eco: “Thực ra, tôi tin rằng chủ nghĩa Hậu hiện đại không phải là một khuynh hướng cần định rõ niên đại mà đúng hơn, là một phạm trù tư tưởng – hoặc, hơn nữa, một Kunstwollen, một đường lối vận hành. Có thể nói, mỗi thời đại đều có chủ nghĩa Hậu hiện đại của riêng mình...” (Nhật Chiêu, “Thiền và hậu hiện đại”).

Qua đoạn trích của Nhật Chiêu, tôi chú ý đến câu “Có thể nói, mỗi thời đại đều có chủ nghĩa Hậu hiện đại của riêng mình”. Vì vậy có một số người đã “sai” và đã “hồ đồ” một cách hài hước, đã chọn cả ngày giờ cho nó trong khi mọi người vẫn tiếp tục đưa giả thiết, bàn cãi về cái “nguyên nhân đầu tiên” của khái niệm, mà có một lúc nào đó cái “nguyên nhân đầu tiên” ấy chưa chắc đã phải là “nguyên nhân đầu tiên” đích thực. Chỉ biết “Ồ!”… rõ khổ “hậu (tiền, bán hậu, bán tiền) hiện đại”…