trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
21 - 40 / 3021 bài
21 - 40 / 3021 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z


27.10.2008
Nguyễn Ngọc Kali


Đề tài tranh luận về Hậu hiện đại trên talawas khởi đầu từ bài viết “Một quái trạng văn hóa” của Hoàng Ngọc-Tuấn. Vì thế, bất cứ vì lý do gì, lá thư “Trả lời thắc mắc của anh Tôn Thất Quỳnh Du” về một số dữ kiện của Hoàng Ngọc-Tuấn cần phải được đăng trên trang chính của talawas. Đấy mới là đúng nguyên tắc.

Sau ngày 30/4/1975, Hà Nội biến thành trung tâm quyền lực. Theo dõi vụ này, tôi nhận thấy, vấn đề khá sâu rộng, là một số trí thức Hà Nội đã và đang sử dụng học thuật để củng cố và duy trì quyền lực của họ.


talawas: Về việc talawas không thể đăng lại ý kiến phản hồi của tác giả Hoàng Ngọc-Tuấn, chúng tôi đã nói rõ trong thông tin của talawas ngày 26.10.2008. Bài vở và ý kiến không đúng nguyên tắc của toà soạn, vì bất cứ lý do gì, đều không được chọn đăng.

 


27.10.2008
Nguyễn Đăng Thường

Rất cám ơn Hàm Anh đã cho tôi biết rõ thêm rằng ông Trịnh Lữ là một người "dốt", một "tay mơ", rằng trong nước có "một cái lũ 'vô... hậu hiện đại'". Tôi xin chấp nhận rằng tôi mù tịt về các chuyện này khi viết, nên đã không sử dụng các "từ/thuật ngữ" trên.

Nếu tôi đã có lỡ lời "vu khống, thóa mạ, mạt sát" "cái lũ" "dốt", "tay mơ", "vô hậu hiện đại" ấy, thì tôi xin thành thật rút lại và đứng ra nhận tội và xin lỗi, mong chư vị lượng thứ. Nhầm lẫn là bản tính của con người mà. Tôi thích vài cái hay của chủ nghĩa hậu hiện đại nên tôi ủng hộ. Tôi không hề vỗ ngực tự xưng mình là đứa "có học" hay là thằng "chuyên gia hậu hiện đại" gì cả, như Hàm Anh đã có nhã ý gọi như vậy. Tôi không cần giả vờ khiêm tốn, mà cũng không hề mặc cảm, hay tự tôn, nên Hàm Anh cứ tha hồ muốn gọi tôi thế nào cũng được, cũng vui. Bởi lẽ tôi đã từng làm thơ để tự sỉ vả. Bài thơ đã được/bị nhóm Mở Miệng chọn đăng trong tuyển tập Có jì dùng jì có nấy dùng nấy do Giấy Vụn xuất bản. Xin trích dẫn:

Đụ mẹ

hốt chữ dọn sân cho giới trẻ
ung dung thơ thẩn lè phè
được vài thằng tặng đụ mẹ

đụ mẹ mày nguyễn đăng thường
bù nhìn dễ thương chỉ hướng
gạt gẫm thi nhân lạc đường

thơ xưa làm bằng mực tàu
thơ nay phải viết bằng máu
thi hào biểu hiện nỗi đau

chó ráp bò rên thơ cứ đi
về nguồn nhưng không vào chuồng khỉ
mở miệng cười vang như ngựa hí

Tôi không hề coi chủ nghĩa hậu hiện đại là "một cái gì đó thánh thần", là "bố là mẹ chúng ta". Cũng chẳng hề muốn "thực hiện sứ mệnh cao cả là cứu nền nghệ thuật nước nhà". Sức mấy. Bởi lẽ tôi không bàn luận về chủ nghĩa hậu hiện đại, nói chung, trong cuộc tranh luận. Tôi chỉ muốn nêu lên vài điều sai lầm trong bài của Trịnh Lữ và bài của Hoàng Ngọc Hiến, nói riêng. Tôi cũng không hề muốn "chỉ bảo" ai cả, nhứt là chỉ bảo "cái lũ vô hậu hiện đại" nào đó, tôi không hề biết tới khi nhấp chuột viết. Tôi viết để trình bày vài điều rất chủ quan của mình về chủ nghĩa hậu hiện đại cho độc giả talawas nói chung - nếu có độc giả - chứ không để cho một nhóm đặc biệt nào, thế thôi.

Riêng chuyện ai "thiếu văn hóa" thì tôi chắc độc giả đã nhìn thấy rồi. Hành vi "to tiếng để gây sự chú ý" thì Hàm Anh có thể công kích tôi trong lần này thôi, nếu muốn, không cần phải tổng luận và coi đó là "biện pháp phê bình" của tôi, vì nếu thấy nó thực sự sai bậy thì tôi sẽ tránh tái phạm. Hàm Anh viết: Hậu hiện đại kết hôn cùng tâm lý thương mại, quảng cáo, ngày càng đẻ ra nhiều “quái trạng cởi truồng”. Xin thưa: Chuyện thương mại, quảng cáo, cởi truồng là do nghệ sĩ và lái buôn chứ không đến từ bản thân của chủ nghĩa hậu hiện đại. Vì là ý kiến ngắn nên tôi không đào sâu thêm các vấn đề này. "Quái trạng cởi truồng", nếu đã thực sự xảy ra trong nghệ thuật hậu hiện đại, thì nó vẫn còn thua xa "quái trạng hoa hậu, sân golf", và vô số "quái trạng khác" ở nước ta bây giờ.

Chuyện trong nước có những kẻ sợ bị kết tội là "bảo thủ", là "vô văn hóa", là "không biết gì", đã "rỉ tai" Hàm Anh nọ kia thì xin thưa rằng nó cũng không ăn nhập vì tới bài viết của tôi, cũng như những cái sai trong các bài viết của Trịnh Lữ và của Hoàng Ngọc Hiến.
 


27.10.2008
Đào Nguyên

Hậu hiện đại? Thú thật: tôi rất hoang mang!

Tôi rất hoang mang khi thấy ông Nhật Chiêu trên Giác ngộ Website cố công tạo mối liên hệ giữa thiền và hậu hiện đại, trong khi ông Nguyễn Đăng Thường thì cho một cuộc triển lãm các tác phẩm hậu hiện đại gồm những bức tranh hấp dẫn một cách rất cởi mở trân mình: Kennedy rất “thiền”, Marilyn rất sexy, ba người không đầu không tay rất “quái trạng”, Adam và Eva rất hoan lạc, tranh cu dái rất lòng thòng… Xem các bức tranh này lần đầu thì rất ngất ngây nhưng chưa ngộ, phải xem hai ba bận mới bớt ngây ngất để mà giác ngộ. Trong khi Nhật Chiêu và Nguyễn Đăng Thường phơi bày cái hậu hiện đại khá vô thường (hay bất bình thường?) cho độc giả xem, thì ông Tôn Thất Quỳnh Du xét lại lý lịch của ông Hoàng Ngọc-Tuấn theo truyền thống “chính danh” của Khổng Tử, rất tương phản với truyền thống “danh khả danh phi thường danh” của Lão Tử. Tôi cũng xin được phép nhắc đến các ý kiến ngắn của nhiều độc giả về hậu hiện đại: chúng đều rất là “talawas”, rất là lý thú!

Bây giờ chắc độc giả cũng hiểu lý do của sự hoang mang tôi khi theo dõi cuộc tranh luận về “hậu hiện đại”. Tôi cũng xin mạo muội đề nghị là mình đừng nên dịch post-modernismhậu hiện đạipost- mà dịch là hậu thì các nghệ sĩ hậu hiện đại còn chịu ảnh hưởng của cái vòng kim cô của phạm trù thời gian: đã có hậu thời phải có tiền và có đương thời; mà hễ có đương thời thì lại là hiện đại, nhưng nếu đương thời đã hay đang là hậu hiện đại thì làm sao đây? Đề nghị của tôi là dịch post-modernismviệt hiện đại hay vượt hiện đại để chuyển đổi một từ lệ thuộc nhiều vào phạm trù thời gian sang phạm trù tư tưởng và phạm trù hành động.
 


27.10.2008
Thành Nguyễn

Lại hậu hiện đại!

Ông Trịnh Lữ cho rằng thuật ngữ “Hậu hiện đại” xuất hiện lần đầu tiên vào một năm nào đó, trong một ấn phẩm nào đó, của một ông nào đó. Thế là ông Hoàng Ngọc-Tuấn viết một bài tràng giang đại hải mạt sát ông Lữ một cách thậm tệ. Ông Tuấn đã không ngại dùng những lời sỉ nhục cá nhân ông Lữ, rồi qua luôn cả ông Hoàng Ngọc Hiến. Đọc hết bài viết của ông Tuấn, tui chỉ thấy ông hài được cái "tội" duy nhất là cái niên đại mà trào lưu trên được đặt tên. Còn ngoài chuyện đó ra, chỉ nghe ông Tuấn la rầy, mắng mỏ không thương tiếc. Ông cho rằng cái đám dân trong nước, hổng có ai dám nói vì tên tuổi của Trịnh Lữ. Không dám nói có nghĩa là biết mà không dám, vì sợ một điều gì đó. Từ câu viết của ông Tuấn, tui suy ra, ở trong nước cũng có người có kiến thức hơn… cậu học sinh trung học, nhưng hễ vạch ra cái sai của người khác ở Việt Nam thì đều có tội… hình sự hay tội chính trị. Vậy, nhắc nhở ông Lữ về ngày tháng năm sanh của "em hậu hiện đại" ở tận trời Tây là cũng có tội như phê bình… Đảng Cộng sản Việt Nam? Có thế thì mới có chuyện hổng ai dám nói chớ. Nói thì nói vậy, chớ tui biết chắc ông Tuấn không suy nghĩ vô cùng ngớ ngẩn như thế. Ý của ổng là như vầy: không ai nói vì không ai biết (chứ không phải biết mà không dám). Và toàn dân Việt trong nước đều… dốt! Ít ra là dốt hơn ổng.

Trước khi dứt lời, xin nhắn thêm ông Tuấn điều này (dù dốt nát, tui cũng… dám nói như thường): Cả thế giới bây giờ đều gần như đồng tình cho rằng nhà danh họa Monet là cha đẻ của trường phái ấn tượng trong hội họa (impressionism), nhưng nếu Monet sống lại và được hỏi xem có phải ông thực sự là cha đẻ của trường phái ấn tượng hay không, và nếu như ổng chân thành, tui dám cá với ông Tuấn là ổng sẽ lắc đầu và đáp: "Hổng dám đâu!”. Vài lời góp chuyện, cho “em hậu hiện đại” thêm phần hương sắc.
 


27.10.2008
Hoà Nguyễn

Trong bài "Ðường tiến quân của kẻ thù phương Bắc qua các cuộc xâm lăng nước ta", ông Hồ Bạch Thảo viết: "Nguyên soái Toa Ðô nhà Nguyên đem quân từ Vân Nam [1285] qua nước Lão Qua, thẳng đến Chiêm Thành, hội quân tại Ô, Lý rồi đánh châu Hoan, châu Ái (Thanh, Nghệ Tĩnh). [13] "(Chú thích dưới bài viết số [13]: Ðại Việt sử ký toàn thư, tập 2, trang 55)

Theo bản dịch Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội năm 1993, chuyển sang ấn bản điện tử năm 2001, ở quyển V trang 193 thấy ghi câu viết giống như trên. Nhưng mục chú thích số 7 cùng trang ghi thêm: "Các sử tịch Trung Quốc đều chép là Toa Đô xuất phát từ Quảng Châu, theo đường biển tiến đánh Chiêm Thành vào tháng 11 năm Nhâm Ngọ (1282)".

Cũng trong ĐVSKTT bản điện tử trang 187, ở mục chú thích số 6 ghi: "Toa Đô tên Mông Cổ là Sôgatu. Thực ra Toa Đô mang 5000 quân đi đường thủy từ Quảng Châu đánh Chiêm Thành từ tháng 11 năm Nhâm Ngọ (1282), còn kẻ chỉ huy 50 vạn quân xâm lược Đại Việt là Thoát Hoan và Lý Hải Nha".

Việt Nam sử lược (VNSL) của Trần Trọng Kim, bản điện tử trang 55 viết: "Quân Nguyên chia làm hai đạo: một do tướng Mông Cổ là Toa Đô đem 10 vạn quân từ Quảng Châu đi hải đạo sang đánh Chiêm Thành; còn Thoát Hoan thì kéo đại binh đến ải quan, sai người đưa thư sang nói mượn đường đi đánh Chiêm Thành".

VNSL trang 57 viết: "Toa Đô là tướng đạo thứ hai quân Nguyên đi đường bể đánh Chiêm Thành, nhưng mà quân Chiêm Thành giữ được các đường hiểm yếu, đánh mãi không được. Nguyên chúa hạ chiếu sai Toa Đô theo đường bộ kéo ra mặt Nghệ An họp với Thoát Hoan đánh An Nam".

VNSL trang 59 cho biết ở trận đánh Tây Kết (Hải Dương) vào tháng 5 năm Ất Dậu (1285), Toa Đô bị quân ta giết.

Như vậy, Toa Đô đã theo đường biển (dù không thể với 10 vạn quân theo VNSL), vì đường bộ từ Vân Nam vượt qua Ai Lao để đến Chiêm Thành có nhiều núi rừng hiểm trở, rất khó cho việc chuyển quân đối với thời xưa và có thể cả với ngày nay.

Ông Hồ Bạch Thảo không nhắc tới lần tiến quân sau cùng của "kẻ thù phương Bắc" xảy ra gần đây, vẫn còn trong trí nhớ của nhiều người.

Theo bài "Chiến tranh biên giới Việt - Trung, 1979", trên Wikipedia tiếng Việt:

Sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân đội Trung Quốc áp dụng chiến thuật biển người bất kể tổn thất tiến công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam.

- Hướng Lạng Sơn có quân đoàn 43, 54, 55
- Hướng Cao Bằng có quân đoàn 41, 42, 50
- Hướng Hoàng Liên Sơn có quân đoàn 13, 14
- Hướng Lai Châu có quân đoàn 11
- Hướng Quảng Ninh, Hà Tuyên (nay là Hà Giang) mỗi nơi cũng có từ 1-2 sư đoàn.