© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcVăn học Việt Nam
3.9.2005
Hiếu Tân
Đọc lại Truyện Kiều
 1   2 
 
3.2. Cuộc đời Kiều qua cái nhìn Phật giáo

Những ai học Phật đều cảm thấy mình đi dưới bầu trời tự do tư tưởng. Phật không độc quyền nắm giữ chân lý. Dĩ nhiên người muốn theo Phật thì phải có niềm tin vào Phật, nhưng vẫn có thể tôn trọng những niềm tin khác. Qua hai mươi lăm thế kỷ hệ tư tưởng Phật giáo đã phát triển ra vô số hệ phái với nhiều cấp độ khác nhau. Thái Kim Lan cho rằng tư tưởng Nguyễn Du trong Truyện Kiều thuộc hệ Bát Nhã (Không luận) của Long Thọ và Thiền tông của Huệ Năng. Cũng cần phân biệt trong đạo Phật hai phương diện: triết học và tôn giáo; trong đó tôn giáo là nơi lý trí bất lực và chỉ còn lòng tin là chỗ dựa duy nhất.


a. Tứ diệu đế

Thái Kim Lan viết: “Nguyễn Du đã sử dụng cái khung giáo lý Phật giáo “tứ diệu đế“ để thực hiện bản trường ca Ðoạn trường tân thanh một cách sáng tạo: nếu câu chuyện 15 năm lưu lạc giang hồ của nàng Kiều từ khi “bán mình chuộc cha”, “thanh lâu hai lượt thanh y hai lần” cho đến khi trầm mình ở sông Tiền Ðường là một thực chứng thấu đáo của hai diệu đế đầu “khổ và tập khổ”, thì cuộc đoàn tụ gia đình và tái ngộ người yêu thuở ban đầu là cơ hội diệt khổ của nàng Kiều, là cơ hội sự thực hiện giải phóng khổ đau toàn diện nằm trong hai diệu đế sau “diệt và đạo” như vế đối hay vế đóng cho hai vế đầu.”

Cơ hội diệt khổ, giải phóng trong cuộc đoàn viên và tái ngộ, chính là nhờ ở Kim Trọng quân tử, khác lòng người ta. Nếu Kiều có được quả phúc từ kiếp tu của mình hay nhờ phép màu cứu độ của Quan Âm, thì phép màu ấy đã cho nàng đến lúc này gặp lại một Kim Trọng vẫn còn là chàng Kim - người tình tuyệt diệu - như xưa. Hãy thử tưởng tượng một kết cục khác, Kiều gặp lại một Kim Trọng đã bị quan trường làm cho biến chất, thành một phường giá áo túi cơm chẳng hạn? Cội nguồn khổ đau hạnh phúc cho con người vẫn là chính con người. Không biết Nguyễn Du có nghĩ thế không, nhưng Truyện Kiều nói thế. Thái Kim Lan cũng hơn một lần nói đến “tha nhân là địa ngục” (mượn cách nói của J. P. Sartre nhưng không phải cách hiểu của Sartre), có lẽ lúc này phải nói tha nhân cũng là thiên đường.


Khổ đế:

Thái Kim Lan ca ngợi sự đồng cảm của Nguyễn Du với nỗi đau xé lòng của Kiều: “Giây phút giác ngộ mà Nguyễn Du bắt gặp cũng là giây phút bừng nở hạnh từ bi, hàng tâm theo Phật ‘thuyết pháp độ nhân như hằng hà sa số’, từ đó phát tâm lân cảm vô hạn với nỗi đọa đày ’đau đớn thay phận đàn bà’”.

Điều này có thể hoàn toàn đúng dưới một góc nhìn, nhưng nó không loại trừ cách nhìn khác: cái tâm đắc “Tài mệnh tương đố” của giới văn nhân tài tử, Kiều khóc Đạm Tiên, Nguyễn Du khóc Kiều, ba trăm năm nữa còn ai khóc Nguyễn Du, đều là đồng bệnh tương liên cả.


Tập đế:

Thái Kim Lan nhiệt thành ca ngợi mối tình Thúy Kiều Kim Trọng: “Mối tình đầu vừa hé cánh cửa cho người con gái thấy cõi hạnh như chốn ‘động đào’, tràn đầy yêu thương và hi vọng của miền đất phúc ‘thiên thai’, với nỗi gắn bó ‘song song hai miệng một lời đinh ninh’ trước ‘vầng trăng vằng vặc’”.

Nhưng thiết nghĩ, dù đẹp đẽ đến đâu, mối tình này, ái dục này, chẳng phải là một biểu hiện của vô minh sao? (nếu như tác giả không có ý định bác bỏ nguyên lý Tu là cỗi phúc, tình là dây oan - tư tưởng nhà Phật hay cũng là của chính Nguyễn Du?)

Thái Kim Lan say sưa ca ngợi “khát vọng đoàn viên” của Kiều trong bước đường lưu lạc, lòng thương cha nhớ mẹ, nhớ cảnh gia đình êm ấm xưa kia. Nhưng cái tham luyến ấy chính là cái mà nhà Phật gọi là phiền não. Đó chỉ là những tình cảm rất thông thường của con người, nhưng ở nàng Kiều tài hoa, nó sâu đậm khác thường. Muốn bước lên đường giải thoát thì phải ly nó ra, xả nó đi, chớ có đâu cứ khư khư ôm lấy nó mà tưởng rằng nó là phương tiện giải thoát?

Dù Phật giáo Bát nhã có cái nhìn hết sức cởi mở đối với chữ “Tình” thì ta thấy vẫn có chỗ khác biệt, “có điều kiện”. Đối với Thái Kim Lan thì điều kiện đó là chữ TRINH - “ái mà không dâm”. Chúng ta thấy rõ tình của Thuý Kiều ở đoạn đoàn viên này không còn là cái tình say đắm ban đầu nữa, mà đã khác hoàn toàn về chất. Có lẽ đây chính là điểm làm thất vọng những người vốn nặng lòng với mùi tục luỵ của TÌNH, những người nghiêng về Thị Mầu hơn là Thị Kính, như Xuân Diệu chẳng hạn.


Diệt đế:

Ðắm chìm trong thân phận ấy, con người có thể có hai thái độ, như Kiều đã có: tuyệt vọng phẫn uất và khao khát được giải thoát, tìm mọi cách để giải thoát. Chính vì đi đến tận cùng của cái khổ, con người mới khát khao sự diệt khổ. Diệt khổ có nguyên nhân đã nằm sẵn trong ’chân lý’ đời là bể khổ, chứ không nằm ở một thế lực nào khác. Trong ý nghĩa ấy, bị đoạ đày và mong ước giải thoát trên phương diện triết lý và tu chứng cùng nằm trên một bình diện và cùng trong hiện tại; đồng thời đạo Phật cũng nhấn mạnh, đời người trăm năm là mảnh đất tốt nhất để thực hiện giải phóng, đạt giác ngộ.

“Ước vọng của con người trái lại, và đây chính là diệu đế thứ ba (Tôi nhấn mạnh - HT), là được giải phóng toàn diện lên trên vòng sinh tử ấy mà chỉ có cuộc sống mới cho con người cơ hội thực hiện giác ngộ để giải phóng.” [1]

Diệt khổ thực ra có điều kiện tiên quyết nằm ở chân lý thứ hai (tập đế). Con người có khổ và có khao khát diệt khổ đi nữa, nhưng nếu không có liễu tri về nguyên nhân của khổ theo Phật giáo, thì làm sao được giải thoát theo con đường của Phật? Trong Truyện Kiều qua tâm tư và ngôn ngữ của Kiều, không chỗ nào thấy nói đến điểm này.

Tóm lại, có thể qua cuộc đời oan khổ của nàng Kiều để luận về khổ đế, nhưng Truyện Kiều và Nguyễn Du đã chẳng cho ta biết gì về ba diệu đế sau cả.


b. Nghiệp

Tư tưởng về nghiệp trong Truyện Kiều được bộc lộ rõ hơn. Nguyễn Du viết: Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa. Tuy nhiên, tư tưởng này cũng vẫn chung sống với các tư tưởng khác chứ không phải là chủ đạo, lấn át như Thái Kim Lan kết luận.

Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài, chữ mệnh, dồi dào cả hai.
Có tài mà cậy chi tài?
Chữ tài đi với chữ tai một vần
Ðã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài

Trong đoạn thơ trên đây, mở đầu bằng chữ Ngẫm hay, toàn là phát biểu của Nguyễn Du, chứ đâu phải “chỉ 4 câu cuối nói lên chủ trương của tác giả nghiêng hẳn về lý thuyết Phật giáo”.

Câu thơ “Trời kia đã bắt làm người có thân” được Thái Kim Lan diễn giải là thân nghiệp. Nếu đúng thế thì ở câu này đã là tư tưởng Phật giáo. Nhưng câu này lại liền mạch tư tưởng với 4 câu sau, nói về tài - mệnh. Ngay cả câu Trời kia đã bắt làm người có thân cũng gợi cho ta nghĩ ngay đến câu Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả vị ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn? của Lão Tử, dù cho có thể đây là chỗ gặp nhau giữa Phật và Lão. Ngay chữ “thiện căn” cũng có thể thấy nó gần với “tính bản thiện” của Mạnh Tử hơn là cái quan niệm khá đặc biệt của Thái Kim Lan “Chữ TRINH như thiện căn ở tại lòng ta”.

Ở đây cũng như ở những chỗ khác, Nguyễn Du không “dùng tư tưởng Phật giáo để phê bình Nho giáo”. Ông chỉ nói lên tư tưởng của mình, một tư tưởng hỗn hợp cả Phật - Lão - Nho, cả những tâm lý đã tồn tại dài lâu trong dân chúng, niềm tin ngây thơ về một ông trời thưởng phạt, vốn rất xa với tư tưởng Phật học. Rất có thể Nguyễn Du thiên về Phật hơn Nho, nhưng điều đó ông không có hàm ý ở đây. Sự so sánh đánh giá nằm ở chủ quan người đọc.


c. Sự thuần nhất của tư tưởng Phật học

Một điều đáng chú ý là trong truyện Kiều, người nói lên cái tư tưởng về nhân quả, về nghiệp lại chính là Đạm Tiên, một bóng ma, Hội viên Hội Đoạn Trường, một hiện thân của thuyết Tài-Mệnh tương đố:

Âu đành quả kiếp nhân duyên

(Câu 201, báo mộng lần thứ nhất)

Rỉ rằng: nhân quả dở dang
Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao,
Số còn nặng nợ má đào
Người dù muốn quyết, trời nào đã cho

(Câu 995-998, báo mộng lần thứ hai)

Cái tiền oan túc trái ở đây được xử lý bởi một ông trời!

Nhân vật thứ hai diễn giải về chữ NGHIỆP của Kiều là bà Tam Hợp đạo cô, là người mà Giác Duyên, người quan tâm đến vận mệnh của Kiều thường tham vấn. Bà đạo cô này là một tiên tri, thường hé hộ thiên cơ, cả đến sự cân nhắc thưởng phạt của trời, chính nhờ bà này mách trước đia điểm gieo mình của Kiều mà Giác Duyên vớt được nàng, tạo ra cơ hội tái sinh, chuyển nghiệp! Trên bình diện tư tưởng, bà Tam Hợp đạo cô (cái tên có nói lên gì về hợp lưu của ba đạo không nhỉ?) phải được coi ngang hàng với thày phi phù trí quỷ ở chỗ Thúc Sinh, một dạng mê tín dị đoan mà các bậc chân tu luôn bài bác.

Theo Hoàng Ngọc Hiến: “Tư tưởng ’nhân quả’ khẳng định quan hệ nhân quả giữa kiếp này và kiếp trước, kiếp sau. Nội dung hình tượng Truyện Kiều chỉ nói về kiếp này của nàng Kiều. Như vậy, quan hệ ‘nhân quả’ không được bộc lộ ở ngay nội dung của tác phẩm. Ðó là một quan hệ không có nội dung… Như vậy trong Truyện Kiều, triết lý Phật giáo là ngôn ngữ Phật giáo, là những lời giải thích nhưng không phải phải là ý nghĩa đích thực của nội dung hình tượng tác phẩm. [2]

Theo chúng tôi, chỗ này Hoàng Ngọc Hiến nói đúng vì nhân “Hiếu Tâm” động đến Trời với quả “đoàn viên” phúc sau dồi dào, qua lời Tam Hợp, không phải là ý nghĩa chữ nghiệp của đạo Phật. Trong chữ nghiệp của đạo Phật không có ông trời.


d. Tu là cỗi phúc, tình là dây oan

Tu là cỗi phúc, tình là dây oan, lời phát biểu của sư Tam Hợp đúng là tư tưởng đạo Phật, có lẽ cũng là suy nghĩ của chính Nguyễn Du. Lý trí nghe Phật dạy “tình là dây oan” là ái dục là vô minh che lấp bản thể, nhưng trái tim nghệ sĩ lại rung động sâu xa để viết lên những dòng thơ tả tình đẹp đến nao lòng, với những xúc động ngọt ngào gợi lên hạnh phúc đích thực của tình yêu trần tục.

Lựa chọn của Kiều giữa TU và TÌNH: Sau khi được cứu vớt, cùng Giác Duyên ở lều tranh bên sông Tiền Đường, với Kiều, tu là chuyện đương nhiên, nhưng trước đó Kiều đã có đến hai cơ hội để tu.

Lần đầu ở nhà Hoạn Thư, qua tờ thân cung nàng xin nhờ cửa Không, đã được chấp thuận cho ra ở Quan Âm các, kiểu tu hành thật là sang trọng. Nếu nàng thật khôn ngoan và tỉnh táo, thì phải đủ sức cắt hẳn mối tình vô vọng ấy, và sự thể chắc đã khác. Nhưng mối tình với Thúc Sinh, một mối tình đã khiến Nguyễn Du viết nên những câu thơ đẹp nhất trong văn chương Việt (Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san / Dặm hồng bụi cuốn chinh an, trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh… Vừng trăng ai xẻ làm đôi / nửa soi gối chiếc, nửa soi dặm trường, hay: Long lanh đáy nước in trời, thành xây khói biếc non phơi bóng vàng…) còn quá nặng, quá ám ảnh, tâm trạng nàng những là nhân duyên đâu lại còn mong? Còn tiếc lắm, còn đau lắm, đến nỗi Phật tiền thảm lấp sầu vùi, vẫn nói lời trước mặt, rơi châu vắng người. Chủ tâm của Hoạn Thư không phải muốn hành hạ Kiều, mà chỉ muốn cách ly Kiều khỏi Thúc Sinh. Nhưng chính sự chia cắt ấy đối với Kiều mới là đau đớn nhất. Đến khi có cơ hội lén gặp nhau, thì nói rồi lại nói, lời chưa hết lời, để lúc bị Hoạn Thư bắt gặp mới hốt hoảng đến thế, mới tính bài chạy trốn. Kiều xin Thúc Sinh liệu bài mở cửa cho ra nhưng cách cửa ấy Hoạn Thư đã mở rồi mà Kiều không biết. Đây chính là lúc tình che mờ trí, đến nỗi không chỉ Thúc Sinh thấp cơ thua trí đàn bà mà cả Kiều cũng thua!

Lần thứ hai tu ở Chiêu Ẩn am với Giác Duyên thì bị chính Giác Duyên vì quá khiếp sợ trước uy quyền nhà họ Hoạn mà vô tình đẩy vào tay họ Bạc.

Trong suốt quãng đời chìm nổi, thân phận Kiều đã gợi được niềm thương cảm của nhiều người, nhưng Kiều ít có dịp thể hiện lòng từ bi của mình với người khác. Vụ báo ân báo oán khi Kiều được tựa lưng vào quyền lực của Từ, đã gây thêm nghiệp xấu. Người ta thường đọc xuôi theo truyện Kiều Đạo Trời báo phục, Lồng lộng trời cao, hại nhân nhân hại, rồi trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen, để cho hành động báo ân báo oán ấy một danh nghĩa cao đẹp: thực thi công lý, thoả mãn nỗi khát khao công lý của chúng dân, mà không nhận ra rằng nó chỉ thoả mãn cá nhân nàng Kiều. Lẽ ra, sau bước chuyển biến to lớn của số phận - kết duyên cùng Từ Hải, và sau chừng ấy thời gian, Kiều đã có thể quên đi mọi hận thù để chỉ giữ trong lòng niềm thương nhớ cố hương và ước ao đoàn tụ. Nhưng nàng đã để nó đè nặng trong lòng đến nỗi chỉ sau khi có đầu rơi máu chảy, bể oan mới dường đã vơi vơi cạnh lòng. Hai chữ “khư khư” của bà Tam Hợp nói về Kiều đâu chỉ đúng với chữ Tình. Cái “phiên toà” mà Kiều làm chủ, nghĩa là sẽ gánh hết trách nhiệm ấy, nếu đúng, chưa chắc đã hay, thế mà còn có lầm, khi cho tuốt tuột từ Tú Bà đến Ưng Khuyển chịu chung một tội hình. Sai lầm ấy từ cõi lòng sân hận quá đỗi mà ra. Ngay cả việc đem ngàn vàng để trả ơn bát cơm Phiếu mẫu, và những lời đối đáp với Hoạn Thư chỉ bộc lộ rõ cái ngã mạn của Kiều. Câu nói chối tai nhất thốt ra từ miệng Kiều là câu: Xem cho rõ mặt biết tôi báo thù, và hành vi kỳ lạ nhất là mời sư Giác Duyên chứng kiến cuộc báo thù ấy! Nếu sau này có lúc nhờ Phật mà túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi, thì Kiều nên nghĩ lại để nhìn Tú Bà hay Ưng Khuyển, Thúc Sinh với cùng tấm lòng từ bi độ lượng như nhau. Sau cuộc báo oán, Kiều đã lạy tạ Từ Hải đến câu “Dễ đem gan óc đền nghì trời mây”nhưng rốt cuộc nàng Kiều có tiếng là “ân oán rạch ròi”, “trước sau trọn vẹn” ấy chỉ làm được cái việc cầu xin một nấm đất cho cái xác tàn của Từ, một việc mà nếu chứng kiến chắc Từ phải chết đến lần thứ hai. Nhưng ta cũng phải thể tất cho Kiều, trong tay Từ Hải và trong tay Hồ Tôn Hiến là hai hoàn cảnh khác nhau, với Từ là có tự do và có cả quyền lực nữa, còn với Hồ thì nàng có gì?


e. Đoàn viên và chuyển nghiệp

Có hai loại ý kiến khác nhau về các giải pháp có thể có cho số phận Kiều trong truyện: kết thúc ở sông Tiền đường hay tái sinh và tài hợp. Giải pháp nghệ thuật kết thúc ở sông Tiền đường là ý muốn trung thành với lôgích của hiện thực, đó là tâm trạng phải chấp nhận thực tế, dù nó cay đắng thế nào. Câu chuyện Giác Duyên vì biết được mệnh trời mà đón vớt nàng Kiều khó được những người có đầu óc thực tế chấp nhận. Giải pháp “tái sinh và đoàn viên” thể hiện ước mong, hy vọng thiết tha của tác giả và người đọc. Hy vọng, ước mong có đem đến giải thoát thực sự hay không lại là chuyện khác. Ở đây tác giả đưa yếu tố phi thực vào là do quá thương yêu con người, không nỡ nhìn nàng mãi đau khổ và không muốn kết thúc truyện trong bế tắc nên bằng tưởng tượng của mình đã mở ra lối thoát. Triển khai ý niệm đoàn viên, tác giả lại mở ra một hướng hiện thực mới, hiện thực của Tâm hồn. Giải pháp này phản ánh quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Du (đúng hơn là của Thanh Tâm tài nhân - ta luôn luôn thấy Nguyễn Du chỉ diễn đạt các sự kiện bằng bút pháp và cái tâm của riêng mình, không có ý định sửa đổi nguyên tác)

Về tác nhân chuyển nghiệp, Thái Kim Lan cho rằng: “Cho dù với hành động đó cuộc đời lưu lạc giang hồ của nàng Kiều bắt đầu, nhưng ’hiếu tâm’ của nàng đã trở nên một trong những điều kiện cho ‘phúc sau dồi dào’’’.

Ý Thái Kim Lan muốn nói đến chữ nghiệp trong hiện tại, đây là một ý niệm siêu hình không thể kiểm chứng được mà phải nhờ cậy đến niềm tin tôn giáo.

Hành động hiếu (bán mình) của Kiều là điều kiện để cứu gia đình khỏi tai vạ nhất thời. Trước khi tai vạ xảy ra, đang là MỘT NHÀ êm ấm. Sau thời điểm ly tán ấy “người đàn ông” Kim Trọng một tay cáng đáng, khôi phục, nâng đỡ gia đình trong suốt 15 năm qua cảnh ngặt nghèo; Kim cùng bốn người nhà họ Vương luôn đi cùng một nẻo, còn Thuý Kiều lưu lạc nẻo khác. Khi đoàn viên, lại hợp MỘT NHÀ

Một nhà phúc lộc gồm hai

Chữ Phúc ở đây phải hiểu theo hai nghĩa: giàu sang vinh hiển trong cõi tục hay niềm hoan lạc của tâm linh đã được giải thoát? Đạo Phật cho rằng nghĩa thứ hai cao hơn nghĩa trước. Chúng tôi nghĩ rằng ở đây gồm hai cảnh: Kim-Vân hưởng giàu sang vinh hiển, do thành quả công lao của Kim. Kiều vui với cái tâm đang tìm đến Niết bàn (Chẳng tu thì cũng như tu mới là) sau khi đã bén mùi thiền. Bởi vậy “hợp” mà không “hợp” và theo nghĩa của đạo Phật, đó mới là “điều kiện của phúc sau dồi dào”. Hãy thử tưởng tượng nếu cả nhà không tìm được Kiều? Thì vẫn cứ “phúc lộc, quan giai lần lần” dù nhớ thương khôn nguôi! Hay nếu như Kiều cũng theo thói thường trở về với tục? Thì câu chuyện sẽ chẳng còn gì để nói!Vậy thì ở đây là chuyển nghiệp hay chuyển tâm?

Theo Thái Kim Lan: “Nguyễn Du muốn gửi gắm điều gì trong đoạn cuối này, điều gì có thể làm nền tảng cho cuộc sống đoàn viên, cho sự hòa hợp hòa đồng của những con người sống chung với nhau dưới một mái nhà, hay nói theo thuật ngữ chuyên môn: nguyên tắc chung sống hòa bình giữa con người với con người”.

Đặt vấn đề hoà bình và hoà hợp giữa Kiều với Kim Trọng và gia đình - những người suốt đời thương yêu Kiều, từ trước đến sau luôn luôn chấp nhận nàng không một điều trách cứ, thì thật lạ kỳ. Nếu muốn nói đến hoà bình hoà giải đại đồng thì phải nói đến những ai kia, vì trong đời nàng thiếu gì kẻ thù?


f. Không và Thiền

Với cảm hứng dạt dào, Thái Kim Lan say sưa nói đến trình độ cao của tư tưởng Phật học Nguyễn Du qua Long Thọ (Bát nhã), Huệ Năng (Thiền tông), trích dẫn cả Mãn Giác Thiền sư đến Lương Chiêu Minh Thái Tử phân kinh thạch đài, để biết rằng Nguyễn Du đã nghìn lần đọc Kinh Kim Cương. Nhưng vấn đề là tư tưởng Phật học ấy được biểu hiện trong Truyện Kiều như thế nào? Tiếc thay khi cho rằng tư tưởng cao siêu ấy thể hiện qua ý niệm đoàn viên, “là cơ hội diệt khổ, là cơ hội sự thực hiện giải phóng khổ đau toàn diện nằm trong hai diệu đế sau ‘diệt và đạo’… là ý niệm của sự nối tiếp (mùa xuân tiếp sau mùa đông), như ‘đêm qua sân trước một nhành mai’… là ý niệm nhân quả toàn vẹn, là cánh cửa mở ra Niết bàn trong hiện tại”…, thì những lời bình ấy vẫn chỉ là nhã hứng của người viết, trong sự liên hệ với những ý niệm về Phật và Thiền, mà không phải bật lên từ chính hình tượng trong truyện Kiều. Cảnh tượng đoàn viên, xét cho cùng, cũng chỉ là cái kết thúc có hậu giống như trong Nhị Độ Mai, Lục Vân Tiên, Hoa Tiên, Tấm Cám, Phạm Công Cúc Hoa… Tư tưởng Thiền tông hay Bát nhã của Nguyễn Du thể hiện ở đâu khác, chứ không phải trong Truyện Kiều.

Thái Kim Lan đã lấy Nguyễn Du ngoài Truyện Kiều để bình về Truyện Kiều. Những cảm nghiệm về Phật và Thiền được mang từ ngoài vào khi đọc Kiều.

Thái Kim Lan nói nhiều đến khát vọng đoàn viên trở nên một bản ngã thứ hai của nàng Kiều, cho khát vọng ấy là điều kiện tái sinh tái hợp, là điều kiện giác ngộ của Kiều. Chúng tôi không tìm thấy căn cứ cho luận đoán này. Nói như Nguyễn Ðăng Thục có vẻ có lý hơn: “Tâm hồn Kiều trước kia đang còn vọng động, bắt đầu bước vào trường đời, còn ngày nay thì bình tĩnh vì đã biết qua kinh nghiệm bản thân đến chỗ giác ngộ”.

Đúng. Nhưng để giác ngộ đâu có đơn giản dễ dàng. Kinh nghiệm và khát khao là cần nhưng chưa đủ. Để đủ, còn cần có hai điều kiện: Một là, trên bình diện đạo, ngoài kinh nghiệm đời (bể khổ) điều quan trọng hơn là phải có kinh nghiệm tu (giải thoát). Hai là, trên bình diện đời, bể khổ của đời thật sự đã vơi đi. Nếu Thân vẫn quằn quại trong bể khổ mà Tâm đã được giải thoát, thì phải là trình độ siêu việt, chẳng hạn như Mãn Giác Thiền sư trong cơn bệnh trọng vẫn chỉ cho người khác nhìn nhành mai nở buổi xuân tàn hoa rụng hết. Chớ tưởng lầm rằng thần lực của tâm thiền có thể biến hoa tàn thành hoa nở, có thể đẩy lui cơn ác bệnh đang hành hạ thân mình. Chính là trong cõi tâm không vọng động có một bông hoa luôn mãi nở tươi cho dù ngoài kia, trong cõi vô thường có lúc hoa tàn hết. Theo Thái Kim Lan phải nhìn sự vô thường trong viễn tượng của một mùa xuân lại về. Cách nhìn đẹp đấy, nhưng nếu trong đời thực, trong cõi vô thường ấy nó không về, hay trong cái hữu hạn của một đời người, nó chưa kịp về…, thì xin hãy nhìn vào trong TÂM để tìm lấy mùa xuân trong ấy. Không thể lấy cái nhìn lạc quan, lấy ước mơ khát vọng thay cho cái nhìn thẳng vào mặt thật của đời sống, vì đó cũng là mê lầm không kém phần nguy hại.

Nguyễn Du chắc hằng tâm niệm lời dạy của Phật trong Kinh Kim Cương: ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm, nhờ đó mà Lục tổ Huệ Năng cũng như Trần Thái Tông của Trúc Lâm Yên Tử đã bừng ngộ. Với Kiều, cái Tâm vướng luỵ nhất là ở cõi Tình, vậy trình độ tâm linh của Kiều đạt tới mức nào để được gọi là giác ngộ? Như trên ta đã biết, hai lần Kiều ở chùa đều là miễn cưỡng: ở Quan Âm các là tạm chấp nhận để thoát cảnh khổ nhục của kiếp hoa nô, (nhân duyên đâu lại còn mong, khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi), lần sau ở Chiêu ẩn am là tìm nơi độ thân khi bơ vơ chưa biết đi đâu (gửi thân được chốn am mây, muối dưa đắp đổi…). Ảnh hưởng của Phật không thể không có, nhưng nó đến từ từ. Lần đầu Dường gần rừng tía dường xa bụi hồng những tưởng giọt nước cành dương, lửa lòng rưới tắt mọi đường trần duyên nhưng chưa tắt hẳn. Con đường tu Phật vừa đòi hỏi, vừa tạo điều kiện để thoát khỏi chữ Tình. Chỉ đến khi gặp lại gia đình, nàng mới có lời tiếp tục chọn đường tu khi trả lời cha:

Đã đem mình gửi am mây,
Tuổi này bạn với cỏ cây cũng vừa,
Mùi thiền đã bén muối dưa,
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi

Lựa chọn của Kiều trong việc nối lại với Kim Trọng, đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ, chính là lựa chọn của một tâm hồn đã bén mùi thiền, cũng có nghĩa là những khao khát duyên tình trong nàng đã thật sự nhạt phai. Sự đời đã tắt lửa lòng không phải chỉ là câu mói buông xuôi. Chỉ có nhờ nó mà nàng mới giữ được sự yên tĩnh của tâm hồn. Khi chén rượu, khi cuộc cờ, khi xem hoa nở khi chờ trăng lên là cái phong độ thanh nhàn không bị câu thúc vì những bức bách của đời sống hay khát khao bản năng. Có thể nghĩ Kiều đã tìm thấy tự do nội tâm, đã tìm được cách làm chủ đời mình, điều mà trong suốt quãng đời luân lạc trước kia, nàng chưa bao giờ có được. Có lẽ không chuyên tâm về tu Phật, nhưng cũng đã xa tục luỵ lắm rồi. Chẳng tu thì cũng như tu mới là.


g. Ái và Dâm

Khi cân nhắc công - tội Thuý Kiều, Tam Hợp đạo cô cho rằng Kiều có “tình tiết giảm nhẹ” là mắc điều tình ái (tội nhe hơn) khỏi điều tà dâm (tội nặng). Có công bằng không khi xã hội đẩy Kiều vào chỗ ô uế phục vụ cho những “giống hôi tanh”, trái ngược với ý chí của nàng muốn giữ “thân nghìn vàng”, mà lại luận về nàng Dâm hay không Dâm, trong khi cả linh hồn nàng, cả cuộc đời nàng là một biểu tượng chống lại nó?

Hết lời ca ngợi Tình yêu cùng với chữ Trinh, Thái Kim Lan đòi hỏi rằng ngay trong quan hệ tình yêu, cũng phải tỏ rõ ranh giới giữa “ái” và “dâm”, giữa mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm.

Yếu tính của ”tình đạo” ấy, theo Nguyễn Du, nằm ở chỗ phải nêu lên được và làm tỏ rõ ranh giới giữa “ái” và “dâm”, giữa “mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm”, chính ranh giới này người phụ nữ hoàn toàn có tự do ấn định, và chính nó khẳng định thể tính (être, Sein) tự do của người đàn bà trong tương quan tình yêu.

Chúng tôi không hiểu nội hàm của chữ “dâm” ở đây. Nếu chỉ là “quan hệ xác thịt” giữa những người yêu nhau, thì đó cũng chính là tình yêu, sao có thể gọi là tà dâm? Và khi yêu thì cả hai đều có quyền tự do lựa chọn. Nếu là quan hệ “không có tình yêu”, chẳng hạn quan hệ mua bán (như Mã Giám Sinh) hay cưỡng bức (như Hồ Tôn Hiến), thì đó là dâm, là vô đạo đức, nhưng trong trường hợp này người đàn bà là nạn nhân, là nô lệ.

Chưa một lần trong đời, Kiều đã dùng tự do của mình để quyết định dấn thân cho ham muốn tình dục của chính nàng[3] . Điều này không lấy gì làm chắc. Trong đời người đàn bà đa tình Thuý Kiều đã có ba cuộc tình đều sâu nặng ơn nghĩa, đều yêu bằng cả tâm hồn. Chỉ riêng với Kim Trọng là chưa chăn gối, còn với Thúc Sinh, Từ Hải, đã là vợ chồng. Tình chăn gối với Từ Hải được miêu tả thật cao sang lộng lẫy: đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên. Đó là hôn nhân có tình yêu mãn nguyện, Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng. Nếu trong cuộc hợp hôn ấy Kiều không hề cảm thấy ham muốn tình dục của chính nàng thì có gì là đẹp?

Hãy nên cảnh giác với chữ TRINH vì nó rất gần, dễ lẫn với ý đồ nô dịch nữ giới, hạn chế người phụ nữ trong cái vòng là phương tiện hay tài sản sở hữu của người chồng. Chữ TRINH trong Truyện Kiều có ý nghĩa đặc thù là sự trong trắng của tâm hồn nàng Kiều, mà Nguyễn Du có ý thức trân trọng giữ gìn (hay đúng ra không phải Nguyễn Du, mà Thanh Tâm Tài Nhân đã giữ, nhưng Nguyễn Du đã nâng cao lên) cho nàng suốt cuộc trầm luân.

Chính trong tương quan xung đột, mâu thuẫn giữa “bắt phong trần phải phong trần” mà đó là thể xác, và “cho thanh cao mới được phần thanh cao” mà đó là cái “tâm”...

Theo tôi hiểu thì Trời chỉ bắt được phần xác, còn Kiều vẫn giữ được phần hồn (“Tâm”). Cái thanh cao trong tâm nàng Kiều, đâu phải Trời cho. Nếu là bắt và cho thì phong trần hay thanh cao chỉ là đầy đoạ hay cho nhẹ nhàng phần thể xác, còn phần tâm hồn của Kiều, luôn mãi thanh cao, không hề thay đổi (Bụi nào cho đục được mình ấy vay) . Đấy mới là theo nghĩa đạo Phật.


h. Chữ Tâm

Thái Kim Lan muốn “trả lại cho Nguyễn Du gia tài tư tưởng mà ông đã gửi gắm cho người đi sau: Gia tài tư tưởng ấy nằm vỏn vẹn trong một chữ duy nhất: chữ TÂM, trái tim mà nhà thơ đã cảm nghiệm và muốn trao lại cho đời sau là một trái tim nhìn ‘vạn pháp thảy đều là tâm’, linh thiêng hay trần thế chỉ nằm ở một chữ TÂM ‘Linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu’”.

Nhưng đó chỉ là suy đoán chủ quan: Nguyễn Du có nói tâm, nhưng có rõ cái TÂM nào đâu? Sự mù mờ về ngữ nghĩa của khái niệm - nội hàm thì mông lung nên ngoại diên cũng nhập nhằng - vốn là điểm yếu của cách tư duy phương Đông thiếu tính khoa học chặt chẽ, đôi khi lại được nâng lên thành ưu việt. Chính vì để mở như thế nên mỗi người đọc có quyền hiểu theo cách của mình. Trong Linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu - có một chữ tâm, nghĩa là “Phật chỉ có trong tâm của ngươi, chứ không đâu khác”. Không chỉ Phật mà giới Nho cũng nói nhiều nhất đến tâm, có rất nhiều trường phái, nói chung tâm được hiểu là ý thức chủ quan, thường do trời phú vì Trời với Người là một. Trong dân gian cũng hay nói chữ Tâm, với nghĩa tấm lòng. “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Tâm được so với tài trong quan hệ với vận mệnh, hạnh phúc con người. Để tìm kiếm hạnh phúc trong cuộc đời này thì đừng trông cậy nhiều vào tài, vì nó rất dễ gây nhiều trắc trở tai hoạ. Trong mọi hoàn cảnh, hãy cứ trông vào cái Tâm, vào tấm lòng vốn thiện của mình mới mong tìm thấy hạnh phúc đích thực.

Thái Kim Lan có nói đến chữ tâm bằng ba lần chữ tài, nhưng đọc đi đọc lại chỉ thấy đưa ba chữ Tâm ra để so với một chữ Tài. Quả thật quá hăng say không phải lúc nào cũng là ưu điểm.


4. Kết luận

Nguyễn Du là một trong những người học vấn uyên bác nhất trong thời đại mình, bởi vậy tư tưởng của ông thể hiện trong tác phẩm, dù là tác phẩm dịch, hết sức phong phú, đa dạng, đa chiều có khi mâu thuẫn, nhưng không cột chặt vào một lý thuyết duy nhất nào. Nguyễn Du là một nghệ sĩ, không phải nhà tư tưởng, Truyện Kiều cũng không phải tiểu thuyết hay kịch luận đề như La Nausée hay Les Mouches của J. P Sartre. Là một nghệ sĩ lớn đồng thời là một tri thức uyên thâm, ông đã thể hiện nhiều tư tưởng của thời đại mình (Phật, Lão, Nho…) và bộc lộ những thái độ, những quan điểm đôi khi vượt trên thời đại. Đó cũng là triết lý, vả chăng, triết lý nào chẳng mang đến một thái độ? Cái hay của Truyện Kiều dường như vô tận. Cách của Nguyễn Du là miêu tả sự vật như nó có, tự nó nói lên và gây xúc cảm mãnh liệt nơi người đọc. Truyện Kiều cũng như bất kỳ tác phẩm lớn nào, không chỉ có một tư tưởng dù là cao siêu. Nó luôn luôn chỉ là gợi ý để ta đào sâu suy ngẫm về Đạo và Đời, nó không chứng minh cho đạo và không thể dùng nó để chứng minh, vì nó rộng lớn, phong phú hơn nhiều cái được chứng minh. Được đọc lại Truyện Kiều hay đọc các tác phẩm viết về Truyện Kiều đối với tôi bao giờ cũng thú vị vì nó cho thêm cơ hội để suy ngẫm. Tôi muốn nói điều này như một lời cảm ơn tác giả Thái Kim Lan.

© 2005 talawas



[1]Thái Kim Lan, bài đã dẫn
[2]Hoàng Ngọc Hiến, “Triết lý Truyện Kiều”, trong Kỷ niệm 200 năm Nguyễn Du (1765-1965), tr. 279, 281, 284 (Dẫn theo chú thích 1, kì 1)
[3]Thái Kim Lan, bài đã dẫn