Tư tưởngTriết há»cÄiểm nóngChÃnh trị thế giá»›i14.10.2001
Jürgen Habermas
Mở hướng tá»›i Ãức tin và Tri thức
Ãáp từ Giải thưởng Hoà bình cá»§a ngà nh phát hà nh sách Ãức
(Frankfurt, 14.10.2001)
Phạm Kỳ Äăng chuyển dịch
Nếu tình hình
thời sự cấp bách đánh tuột khả năng chọn lựa chủ đề ra khỏi tầm
tay như một cách nói, hẳn sự cám dỗ chúng ta cùng với những John
Waynes trong số trí thức tranh tài rút súng khỏi đai quần bắn phát
nhanh nhất tất nhiên sẽ rất lớn. Mới cách đây chưa lâu có nhiều ý
kiến khác nhau về câu hỏi, có nên và ở mức nào, chúng ta chịu biến
mình thành công cụ của kỹ thuật gien, hay cả có nên và đến mức nào
chúng ta theo đuổi mục đích tối ưu hoá bản thân nữa. Vừa vượt qua
những bước đầu tiên trên con đường này, một cuộc chiến của các thế
lực đại diện đức tin giữa những người có tiếng nói trong nền khoa
học có tổ chức và phía nhà thờ đã xảy ra. Một bên lo ngại chủ
nghĩa ngu dân mê muội và sự vớt vát những tình cảm sót lại thời
tiền sử mang tính ngờ vực khoa học, còn phía kia phản đối một niềm
tin vào tiến bộ bằng khoa học như một thứ chủ nghĩa tự nhiên thô
lậu chôn vùi mọi đạo đức. Nhưng vào ngày 11 tháng 9, căng thẳng
giữa thế giới thế tục và tôn giáo đã bùng nổ theo một cung cách
hoàn toàn khác. Những kẻ sát nhân quyết tự sát, biến đổi chức năng
của máy bay dân dụng thành những hỏa tiễn sống lái đâm vào thành
lũy tư bản của văn minh châu Âu, như bản di chúc của Atta cho ta
biết, đã mang động cơ hành động dựa vào niềm tin tôn giáo. Ðối với
chúng, những biểu tượng của thời hiện đại lan khắp toàn cầu hiện
thân cho đại quỷ sa-tăng. Nhưng rồi trên màn hình, trước mắt chúng
ta - những người chứng kiến toàn diện biến cố „hồng thủy“ -, cũng
dồn dập hiện ra những ảnh hình như trong kinh thánh. Và ngôn ngữ
trả đũa ban đầu- tôi muốn nói ban đầu- mà tổng thống Mỹ dùng đáp
lại đã mang một âm hưởng kinh cựu ước. Ngỡ như nội trong lòng của
xã hội thế tục này, vụ mưu sát truyền chiếu đi vừa chạm rung dây
đàn tôn giáo, mọi nhà thờ Thiên chúa, các thánh đường Hồi giáo, Do
thái giáo nơi nơi vang tiếng hòa âm. Trên sân vận động New York
mới cách đó ba tuần, sự đồng thanh tương ứng ngấm ngầm này đã
không đưa đẩy cả cộng đoàn tưởng niệm theo tín ngưỡng dân sự đến
đối chặn lại lòng thù hận.
Mặc dầu mang ngôn ngữ tôn giáo,
chủ nghĩa toàn thống, như chúng ta biết, là một hiện tượng hiện
đại. Ngay lập tức ta thấy sự không đồng thời về mô típ hành động
và phương tiện ở những thủ phạm Hồi giáo. Ðiều đó phản ánh một
tính bất đồng về thời gian của văn hóa và xã hội đã chỉ vừa mới
hình thành do hậu quả của một cuộc hiện đại hóa ào ạt tróc đi cội
rễ một cách không thương tiếc trên những nước quê hương thủ phạm.
Những gì xảy ra, dẫu sao trong hoàn cảnh may mắn có thể được chứng
nghiệm như một quá trình phá hủy mang tính sáng tạo, đã không hứa
mang lại một cân bằng nào mà người đời biết đến đặng bù vào nỗi
đau do những hình thái sống truyền thống tan rã gây ra trên những
đất nước này. Trong quá trình đó, điều hứa hẹn cải thiện mức sống
vật chất mới chỉ là một. Quan trọng là bước chuyển biến về tinh
thần, trên phương diện chính trị biểu hiện ở sự tách rời tôn giáo
và nhà nước, đã chịu phong bế bởi cảm giác bị hạ nhục. Cả ở châu
Âu, nơi lịch sử dành cho hàng trăm năm để tìm thấy một thái độ
nhậy cảm đối với cái đầu Janus lưỡng diện của thời hiện đại, sự
„thế tục hóa“, như cuộc tranh cãi về kỹ thuật gien cho thấy, ngay
bây giờ vẫn hàm chứa những cảm xúc lưỡng phân. Những khuynh hướng
thủ chính giáo (Orthodoxien) cứng nhắc đều có ở phương Tây cũng
như ở vùng Cận và Viễn Ðông, trong hàng ngũ tín đồ Thiên chúa, Do
thái giáo và Hồi giáo. Ai muốn tránh một cuộc chiến tranh giữa các
nền văn hóa tất phải hồi tưởng lại trong tâm trí mình biện chứng
chưa hoàn tất của quá trình thế tục hóa riêng có ở phương tây.
Cuộc chiến chống lại chủ nghĩa khủng bố không phải là một cuộc
chiến tranh, và trong chủ nghĩa khủng bố cũng - tôi nhấn mạnh:
cũng - bộc lộ cuộc đụng độ kinh hoàng không sao nói thành lời của
những thế giới bên kia phía bạo lực lặng câm của lực lượng khủng
bố cũng như của tên lửa, bắt buộc phải tìm ra một ngôn ngữ chung.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa thực hiện thông qua những thị trường
tháo bỏ biên giới, nhiều người trong số chúng ta hy vọng chính trị
trở về ở hình thái khác. Không ở hình thái nguyên thủy của nhà
nước an ninh toàn cầu hóa, tức trong những phương diện cảnh sát,
tình báo và kể cả quân sự như bây giờ mà hình thái này phải mang
tư cách là một quyền lực tổ chức khai hoá toàn thế giới. Trong
giây lát hiện thời chúng ta chẳng còn làm gì hơn ngoài hy vọng
mong manh về một lý trí cuối cùng và một chút tự suy nghiệm lại.
Bởi chưng khoảng sót lại của sự không nói nên lời cũng đã chia bè
xẻ mối ngôi nhà mình. Chúng ta chỉ có thể thận trọng đương đầu với
những rủi ro do một sự thế tục hóa trượt mạch nơi khác gây ra, nếu
như chúng ta ý thức rõ được rằng thế tục hóa trong những xã hội
hậu thế tục của chính chúng ta hàm ý nghĩa gì?
Với ý định
này ngày hôm nay tôi lại chọn một chủ đề cũ : Ðức tin và Tri thức.
Hẳn quí vị không nên mong chờ một diễn văn chủ nhật phân cực khiến
cho người này phải bật dậy và kẻ khác ngồi gí tại chỗ.
Chữ
„thế tục hóa“ mới đầu có ý nghĩa tư pháp mô tả sự nhượng hữu mà
trong đó nhà thờ bị ép trao tài sản cho chính quyền nhà nước thế
tục. Ý nghĩa này chuyển sang mô phỏng sự hình thành thời hiện đại
về văn hóa và xã hội nói chung. Kể từ đó khái niệm „thế tục hóa“
đi đôi với nhiều cách đánh giá trái ngược nhau, tùy mức chúng ta
muốn nêu bật khía cạnh nào, hoặc công cuộc thuần phục quyền uy của
nhà thờ mà chính quyền thế tục tiến hành thành công, hoặc hành vi
chiếm đoạt phi pháp. Theo lối giải thích này, những cách nghĩ cách
sống theo tôn giáo đã được thay thế đi bằng những thể thức tương
ứng hợp lẽ và đằng nào cũng ưu việt hơn. Theo lối giải thích kia,
những lối sống và lối nghĩ hiện đại bị kì thị coi như tài sản tinh
thần bị đánh cắp một cách trái phép. Mô hình mô tả cuộc lấn
ép gợi ý diễn giải đầy lạc quan vào tiến bộ về một thời hiện
đại đã mất nhiệm màu, và mô hình mô tả cuộc chiếm đoạt gợi
ý diễn giải theo thuyết suy đồi về một thời hiện đại không nơi
nương tựa. Nhưng tôi nghĩ cả hai lối diễn dịch trên đều mắc chung
một lỗi. Chúng đều coi thế tục hóa như một cuộc chơi cùng về tay
trắng giữa một bên là lực lượng sản xuất tư bản của khoa học kỹ
thuật nhanh ào ạt trỗi dậy và bên kia là những thế lực duy trì
hiện trạng của tôn giáo và giáo hội.
Nhưng bức tranh này
không ăn nhập gì với xã hội hậu thế tục đang xoay xỏa theo sự tiếp
tục tồn tại của những cộng đồng tôn giáo trong một xã hội không
ngừng thế tục hoá. Trong bức tranh quá hẹp này, chỉ còn thấy lu mờ
dần vai trò dân sự hoá của một trí năng điều hòa [1] khai sáng dân
chủ đóng vai trò như phái thứ ba đang mở một đường riêng cho mình
giữa khoa học và tôn giáo trong muôn giọng ồn ào hô xung lệnh văn
hoá. Chắc chắn, từ giác độ của nhà nước tự do, những cộng đồng tôn
giáo nọ chỉ đáng được hưởng tính từ „ đứng đắn“, nếu về mặt nhận
thức dám tuyên bố khước từ việc thực thi tín điều của mình bằng
bạo lực. Nhận thức này đạt được một khi các tín đồ phản tỉnh trên
ba phương diện về vị thế của họ trong một xã hội đa nguyên. Thứ
nhất ở cấp độ nhận thức, ý thức tôn giáo phải chịu đựng được cuộc
gặp gỡ những tôn giáo và tín ngưỡng khác. Thứ hai, nó phải thỏa
đáng quyền tự chủ của khoa học chiếm giữ độc quyền về hiểu biết
thế giới. Thứ ba nữa, nó phải dính dáng vào những tiền đề của nhà
nước hiến pháp kiến lập trên nền đạo đức phi thần thánh. Không có
cú hích phản tỉnh này, đơn thần luận ở các xã hội hiện đại hóa bất
chấp mọi giá sẽ phát huy một tiềm năng phá hoại. Ðương nhiên từ
„cú huých phản tỉnh“ dễ đưa ra một hình dung sai về một quá trình
do đơn phương thực hiện và đã hoàn tất. Thực vậy, khi mỗi xung đột
mới xảy ra, việc phản tỉnh này sẽ tiếp diễn trên các điểm giao lưu
của công luận dân chủ.
Chỉ tới khi một vấn đề hệ trọng
sống còn được đưa vào chương trình nghị sự chính trị, quý vị hãy
nghĩ tới kỹ thuật gien chẳng hạn, các công dân theo đạo hay vô
thần mang những niềm tin thấm đẫm màu sắc thế giới quan mới va
chạm lẫn nhau, và như vậy họ sẽ biết tới yếu tố khiêu khích của
nền đa nguyên về thế giới quan. Nếu ý thức được hạn chế của mình
mà học được cách xử trí với yếu tố này một cách bất bạo động, họ
sẽ nhận thấy những nền tảng ra quyết định mang tính thế tục ấn
định trong hiến pháp sẽ có ý nghĩa như thế nào trong một xã hội
hậu thế tục. Trong cuộc tranh giành lợi ích giữa tri thức và tín
ngưỡng, chính nhà nước mang tính trung gian về thế giới quan không
đời nào ban hành những quyết định ưu tiên cho một phía. Trí năng
đa nguyên hóa của toàn thể công dân chỉ đi theo biến diễn năng
động của thế tục hóa trong chừng mực nó cần ở mức kết cục sao cho
cân bằng được khoảng cách với truyền thống mạnh mẽ và nội dung
mang thế giới quan . Nhưng kết cục họ sẽ sẵn lòng học hỏi mà không
từ bỏ sắc thái riêng, tức là thẩm thấu tới hai phía, mở hướng tới
khoa học và tôn giáo.
Tất nhiên trí năng điều hòa, mang
nhiều ảo tưởng về thế giới, phải để cho khoa học khai sáng một
cách không nhân nhượng. Nhưng những lý thuyết khoa học xâm nhập
vào thế giới sinh tồn,về cốt lõi, không động chạm tới khuôn khổ
của tri thức hàng ngày. Nếu như chúng ta học hỏi điều mới lạ về
thế giới và về bản thân chúng ta với tư cách là sinh thể trên đời,
hẳn nội dung hiểu biết về bản thân của chúng ta cũng đổi thay
theo. Kopernikus và Darwin đã cách mạng hóa bức tranh thế giới
mang tính trung tâm vũ trụ và trung tâm nhân loại. Ở đó, sự phá vỡ
ảo tưởng của thiên văn học về sự tuần hoàn tinh tú đã để lại ít
dấu vết hơn trong thế giới sinh tồn so với sự tước bỏ mọi ảo tưởng
sinh học về vị trí của con người trong lịch sử tự nhiên. Khi mỗi
lúc một áp sát sườn, kiến thức khoa học có vẻ còn gây nhiều bất an
hơn cho hiểu biết về bản thân chúng ta. Nghiên cứu bộ não dạy ta
biết về sinh học của ý thức. Nhưng liệu có vì thế mà ý thức đầy
linh cảm nọ về tư cách tác giả và năng lực chịu trách nhiệm luôn
chỉ đạo hành vi chúng ta sẽ thay đổi theo?
Nếu cùng Max
Weber hướng nhìn về những bước khởi đầu của sự“ tước bỏ nhiệm màu
thế giới“, chúng ta thấy ngay những điều gì bị đe dọa. Trong chừng
mực được khai thác cho lối quan sát khách quan hóa và giải thích
theo lối nhân quả, chính tự nhiên bị tước đoạt nhân tính. Trong
khi con người gán cho nhau những mục đích và môtip, tự nhiên được
khoa học nghiên cứu tuột khỏi mối liên hệ của con người. Vậy hôm
nay chúng ta có thể hỏi, bản thân con người, dần dà tổng hợp lại
trong tinh thần mô tả thuần theo khoa học tự nhiên sẽ thành gì
vậy. Liệu kết cục trí năng điều hoà không chỉ để cho hiểu biết của
khoa học chống cảm thụ chỉ dẫn, mà còn bị nó hoàn toàn thôn tính.
Nhà triết học Winfrid Sellars (trong một bài thuyết trình nổi
tiếng về „Philosophy and the Scientific Image of Man“) đã trả lời
câu hỏi này bằng một kịch bản mà ở đó, chỉ vì thuận cho hướng mô
tả khách quan hóa những biến diễn tâm lý, những trò chơi chữ nghĩa
thường ngày vốn cũ kỹ quen thuộc bị đánh mất hết tác dụng.
Ðiểm gặp tận cùng cho cuộc tự nhiên hóa tinh thần này
chính là bức tranh khoa học về con người cũng đã tước bỏ hoàn toàn
tính xã hội khỏi hiểu biết về bản thân chúng ta [2]. Ðương nhiên
chỉ có kết quả này một khi tính chủ ý của ý thức con người và tính
quy phạm của hành động chúng ta cùng hòa tan triệt để trong một sự
tự mô tả đó. Những lý thuyết thiết yếu cho việc làm này thí dụ
phải giải thích được con người có thể tuân theo hoặc vi phạm những
qui tắc mang tính ngữ pháp, khái niệm hay đạo đức ra sao. Những
học trò của Sellar đã hiểu sai thí nghiệm bằng suy nghĩ quyết giải
nan của thầy dậy mình thành ra chương trình nghiên cứu mà họ theo
đuổi tới hôm nay. Dự án hiện đại hóa tâm lý thường nhật chúng ta
bằng khoa học tự nhiên còn đi đến những thí nghiệm xây dựng một
ngữ nghĩa học muốn giải thích những nội dung mang tính suy tư một
cách sinh học nữa kia. Nhưng rồi kể cả những dự kiến năng nổ nhất
kia xem chừng không đủ sức vươn tới lấp đi sự chênh biệt nọ giữa
Tồn tại và Cần tồn được biết tới nếu như ta phạm quy tắc. Nếu
thông thường ra, miêu tả một người làm việc gì như thế nào, người
đó đã không muốn và cả đáng ra không nên làm điều gì, người ta sẽ
mô tả được con người đó - nhưng có điều không giống như một khách
thể, một đối tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên. Bởi vì vô
hình chung, các khía cạnh hiểu biết về bản thân từ thời tiền khoa
học của chủ thể mang khả năng trao đổi ngôn ngữ và hành động âm
thầm ngấm vào sự mô tả con người đó. Nhưng nếu chúng ta mô tả một
biến diễn như một hành vi con người chẳng hạn, hẳn chúng ta biết
rằng chúng ta mô tả một điều gì không chỉ cắt nghĩa được như một
quá trình tự nhiên, mà trong trường hợp cần thiết còn có thể đem
ra ra biện hộ được. Ðằng sau tất thảy là bức tranh của những con
người bình sinh vốn bị đẩy vào hoạt động liên phối được quy định
một cách mô phạm, có thể hỏi trách nhiệm đối với nhau, và họ gặp
gỡ nhau trong vũ trụ tập hợp bao nguyên tắc làm nên nền tảng chung
cho công luận. Ngay giác độ ống kính mang theo thường nhật này soi
rõ sự chênh biệt giữa trò chơi ngôn ngữ của biện hộ và trò chơi
ngôn ngữ của miêu tả thuần túy. Ngay cả những chiến lược giải
thích mang tính phi-quy nạp cũng vấp phải hạn chế ở tính nhị
nguyên này.Ý thức về tư cách tác giả mang trách nhiệm báo cáo là
cốt lõi của tự hiểu biết về bản thân chỉ có được dưới giác độ của
người trong cuộc và như vậy, sao có được dưới giác độ của người
quan sát. Niềm tin mang tính duy khoa học vào một ngành khoa học
một ngày nào đấy không những chỉ bổ sung cho hiểu biết bản thân
của con người bằng việc tự mô tả khách quan hoá mà còn thế bỏ nó
nữa thực không phải là khoa học mà là một triết học tồi. Ngay đối
với trí năng điều hoà khai sáng bằng khoa học, thí dụ sẽ không có
ngành khoa học nào chấp nhận vịêc đánh giá xem chúng ta phải ứng
xử ra sao với sinh thể người tiền nhân tính trong tinh thần mô tả
sinh học phân tử mà can thiệp bằng kỹ thuật gien cho phép làm được
như vậy.
Như vậy trí năng điều hòa bắt chặt với ý thức của
con người có thể đề xuất sáng kiến, mắc lỗi và sửa chữa sai lầm.
Ðối với khoa học, trí năng đó khẳng định một cấu trúc mở hướng
riêng. Mặt khác, theo tôi nghĩ , với ý thức tự chủ không thể nắm
bắt được một cách tự nhiên, trí năng này còn khẳng định một khoảng
cách tới tôn giáo lưu truyền thường cấp nguốn sống cho chúng ta
bằng nội dung quy phạm của nó. Có thể nói chắc rằng trí năng điều
hoà dân chủ của công dân này đã chiếm vị trí trong ngôi nhà của
nhà nước hiến pháp dân chủ kiến thiết bằng pháp luật của lí trí.
Và ngay cả pháp luật kiến lập bởi lí trí mang tính bình quyền cũng
có cội rễ tôn giáo. Nhưng sự hợp thức hóa cho luật pháp và chính
trị theo quyền lực của lý trí uống nguồn đã từ lâu trần tục. Chính
vì thế đối với tôn giáo, trí năng điều hoà khai sáng dân chủ bám
riết trên nền tảng không chỉ riêng cho các thành viên của một cộng
đồng tín ngưỡng chấp thuận. Ắt hẳn điều này cũng sẽ gây bực bội ở
phía những tín đồ cho rằng thế tục hóa kiểu tây phương có thể sẽ
là con đường một chiều gạt tôn giáo ra ngoài lề phố.
Thực
vậy, mặt trái của quyền tự do tín ngưỡng là sự hoà bình hoá chủ
nghĩa đa nguyên thế giới quan đã từng mang lại những hậu quả nặng
nề bất đồng đều. Cho đến nay nhà nước tự do vẫn bắt buộc riêng tín
đồ trong số công dân của mình phải chia xẻ bản sắc của họ thành
phần cá nhân và phần cho công luận. Chính họ là người phải phiên
dịch những ý niệm tôn giáo của họ sang ngôn ngữ thế tục trước khi
lý lẽ của họ may có cơ được đa số đồng tình. Cũng như vậy, những
người Tin lành và Cơ đốc, khi cổ động cho những bào thai cấy ngoài
cơ thể mẹ xứng hưởng tư cách của người mang quyền cơ bản, họ đã
tiến hành (có thể quá vội vã) thử nghiệm phiên dịch ý niệm con
người giống Chúa về mặt hình hài sang tiếng nói phàm tục của luật
pháp. Cuộc đi tìm nguyên tắc làm nên nền tảng với mục đích đạt sự
chấp thuận chung sẽ chỉ không đi đến loại trừ tôn giáo khỏi đời
sống công luận một cách bất công và, về phần mình, thế giới thế
tục không bị cắt rời khỏi nguồn cung cấp ý nghĩa mang nhiều tiềm
ẩn quan trọng, nếu như phía thế tục cũng giữ gìn được một cảm năng
nhạy bén đối với sức truyền đạt của ngôn ngữ tôn giáo. Ranh giới
giữa căn nguyên thế tục và tôn giáo vốn đan quyện. Chính vì vậy
cần hiểu việc xác định ranh giới gây nhiều tranh cãi này là một
nhiệm vụ phối hợp đòi hỏi hai phía cũng đều phải nhìn từ góc độ
của phía kia.
Trí năng khai sáng theo tinh thần dân chủ
không phải là đơn thể vậy; nó viết lên tâm trạng của một công luận
đa thanh. Số đông thế tục không được tuyên bố những quyết định
trước khi chưa lắng tai nghe những tiếng nói phản đối ở những
người đối lập ý kiến cảm thấy việc làm kia xúc phạm họ trong những
đức tin; và như vậy họ phải thấy sẽ học được điều gì. Trước thực
tại những nền tảng đạo đức của mình có nguồn gốc tôn giáo, nhà
nước tự do, đối đầu những thách thức mới phải tính đến khả năng
không vượt nổi trình độ truyền đạt ở thời kỳ hình thành nhà nước.
Ngày hôm nay ngôn ngữ của thị trường thẩm thấu vào mọi chân tơ kẽ
tóc và ép tất cả quan hệ con người vào một khuôn mẫu nhắm vào sở
thích từng người. Mối gắn bó xã hội trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau
đã không phát huy được trong những khái niệm khế ước, lựa chọn duy
lý và tối đa tận dụng.
Chính vì lẽ đó Kant đã không để cho
Cần tồn vô điều kiện [3] biến đi trong dòng cuốn hút của
nhu cầu tự thân khai sáng. Ông đã mở rộng quyền tự do như ý sang
địa hạt tự trị và như vậy chúng ta có được một ví dụ lớn đầu tiên
về một sự phá vỡ những chân lý tín ngưỡng tuy mang xu hướng thế
tục hoá nhưng đồng thời mang chức năng hàn gắn. Với Kant, những
điều Chúa răn lại tìm thấy uy lực của mình trong việc thực hiện
bắt buộc những trách nhiệm đạo đức. Với chúng ta đó là một tiếng
vọng hưởng không bỏ ngoài tai được. Với khái niệm tự trị đề xướng
, chắc chắn Kant đã phá vỡ hình dung mang tính cổ truyền về quan
hệ của bầy tôi với Chúa. Nhưng khi hướng sang biến đổi từng phần
nội dung tôn giáo một cách phê phán, ông đã tránh được những hậu
quả dung tục mà một sự thiểu phát vét sạch gây ra.
Ngôn
ngữ thế tục, chỉ riêng xóa những điều đã từng mang ý nghĩa, để lại
những tình cảm rối loạn. Có gì đó đã mất đi khi tội tông truyền
biến thành tội. Bởi đi đôi với nguyện vọng tha thứ còn có nguyện
vọng không hề ủy mỵ biến khổ đau gây ra cho người khác thành
chuyện chưa hề xảy ra. Chính lúc này chúng ta hoang mang bởi không
xoay chuyển được đau khổ đã qua - chính bất công đối những kẻ vô
tội bị hành nhục, bị chà đạp phẩm giá, bị sát hại vượt qua khỏi
mọi tầm đền chuộc lại mà con người có thể làm được. Hy vọng đã mất
về cuộc tái sinh đã để lại khoảng trống khôn nguôi. Theo tôi nghĩ,
sự ngờ vực của Horkheimer khi ông nói: „Người bị đánh chết thực đã
chết hẳn“ đối với Benjamin về hy vọng tràn đầy về sức đền chuộc
bằng tưởng niệm theo tinh thần nhân văn, thế đấy không cải chính
xung tác bất lực còn muốn thay đổi ít nhiều ở điều không thể cải
sửa. Cuộc trao đổi thư từ của Benjamin với Horkheimer bắt đầu từ
đầu năm 1937. Sau thảm họa diệt chủng (Holocaust), cả hai ý xung
tác thật và sự bất lực của nó vẫn tiếp diễn ở thực tiễn „ Xem xét
lịch sử“ (Adorno) vừa cần thiết vừa vô phương cứu chữa. Có lẽ từ
đây tôi cần phải nói, chính xung tác đó cũng còn biểu lộ ở dạng
trá hình trong thán khúc não nề rằng thực tiễn này không phù hợp.
Trong những giây lát ấy, các đứa con vô thần của thời hiện đại này
dường như tin rằng chúng mắc tội nhiều với nhau hơn và bản thân
chúng cần có nhiều hơn so với những điều từ truyền thống tôn giáo
phiên dịch ra mang lại - tức dường như tiềm năng ngữ nghĩa của tôn
giáo chưa được khai thác hết. Cũng có thể giá trị hai mặt này đưa
tới một thái độ hợp lý tức là giữ khoảng cách đối với tôn giáo mà
không đóng kín những phương diện của nó mở ra. Thái độ này có thể
lái sự tự khai sáng của một xã hội công dân tan nát vì đụng độ văn
hoá sang hướng đúng. Những cảm nhận về đạo đức cho đến nay chỉ
biểu đạt giàu cung bậc trong ngôn ngữ tôn giáo có thể được mọi
người nói chung hưởng ứng, nếu chẳng bao lâu nảy sinh một kiểu
diễn đạt cứu vãn tình thế đáp lại những gì đã đi vào lãng quên
nhưng là những mất mát hàm ẩn. Rất ít khi điều này thành đạt,
nhưng cũng đôi khi. Một sự thế tục hoá không gây đổ vở diễn ra
trong mô thức phiên dịch. Ðó chính là điều Tây phương, với tư cách
là quyền lực thế tục hóa toàn cầu, có thể học được từ lịch sử của
chính mình. Nếu không, kể cả dưới mắt thế giới Ả rập, Tây phương
chỉ như lính thập tự quân của thế lực tín ngưỡng ganh đua hoặc là
gã lái đi tìm buôn một loại lý tính với bản sắc công cụ chôn vùi
hết mọi ý nghĩa. Cuối cùng hãy cho tôi cắt nghĩa sự thế tục hoá
không gây đổ vỡ bằng một ví dụ.
Trong cuộc tranh cãi việc
ứng xử ra sao với bào thai người vẫn còn nhiều vị viện dẫn vào
kinh sách Môi-se 1, 27: Ðức Chúa Trời sáng tạo con người theo đúng
hình hài của Ngài, Ngài dựng nên loài người giống như hình Ðức
Chúa Trời. Không nhất thiết phải tin rằng Chúa hiện thân cho tình
yêu sáng tạo ra Eva và Adam thành những sinh thể tự do để hiểu nội
dung hình hài giống Chúa hàm ý gì đây. Không có tri thức ở một
phía vẫn có tình yêu, nhưng không có sự tôn trọng lẫn nhau sẽ
không có tự do. Chính vì vậy vị thế đối chiếu của con người, về
phần nó cũng phải được tự do để đáp lại lòng đoái thương của Chúa.
Tất nhiên như vậy, cái kẻ khác kia, kể cả có hình hài giống
Chúa, cũng được hình dung là sinh thể do Chúa sáng tạo ra, và điều
này tôi mới cho là quan trọng. Sự sản sinh ra hình hài giống Chúa
diễn đạt một cảm nhận có thể nói lên điều gì đấy trong câu chuyện
này đối với những kẻ thô tục với tôn giáo mà tôi vốn thuộc về họ.
Chúa chỉ có thể là “chúa thánh của những người tự do” chừng nào
chúng ta chưa san bằng được chênh biệt giữa đấng sáng tạo và sinh
linh tạo vật. Chỉ trong chừng mực đó sự sáng tạo hình thể của Chúa
mới không có nghĩa quyết định ngăn chặn việc con người tự xác
quyết.
Ðấng chúa tể càn khôn này, gồm trong một cả đấng
sáng thế và đấng cứu chuộc không cần phải hoạt động như một nhà kỹ
thuật theo quy luật tự nhiên hoặc như nhà tin học tuân theo quy
tắc một bộ mã. Tiếng gọi dội vào đời của Chúa, ngay từ đầu hòa
phối trong một vũ trụ nhạy cảm về mặt đạo đức. Chính vì vậy Chúa
chỉ có thể “ xác quyết” con người trong ý nghĩa Chúa vừa nâng đỡ
con người đi đến tự do vừa ràng buộc trách nhiệm cho nó. Vậy người
ta không còn phải tin vào tiền đề thần học nữa để bây giờ hiểu ra
hệ quả. Như vậy một mối lệ thuộc hoàn toàn khác được hình dung
theo lối nhân quả sẽ xuất hiện nếu như sự chênh biệt vốn được chấp
nhận trong khái niệm sáng thế bị loại bỏ, và một kẻ đồng tuế nào
đó đứng vào vị trí của Chúa - tức giả sử, chiểu theo sở thích
riêng, con người can gián vào công thức rất tình cờ phối hợp định
lượng nhiễm sắc thể cha mẹ mà ít ra không được phép, dù chỉ ở mức
phản chứng, quy ép kẻ khác kia đồng thuận. Lối diễn dịch
này gần gũi với vấn đề tôi lưu tâm tới ở một chỗ khác. Liệu người
đầu tiên nào tự ý chế định một con người khác trong dạng tồn tại
tự nhiên như vậy cũng phải tước mất của nó quyền tự do dành cho
những người ngang hàng phải lứa để đảm bảo cho kẻ đó khác mình?
_______________
[1] Commonsense: lý trí lành mạnh, xin dịch như trên trong
tương quan với khoa học và tôn giáo - người dịch chú thích
[2]
Có thể hiểu là tự ý thức - ndct
[3] Ðòi hỏi mang tính đạo đức
của Immanuel Kant - ndct