Äá»— Kh.
Những lí nhí trong
chuyện không triển lãm hình của phóng viên Nick Út cho thấy trên phương diện thông tin Việt Nam còn phải học hỏi nhiều ở Hoa Kỳ, chí ít là ở phòng Thông tin Quân đội Mỹ. Trong các cuộc chiến trước đây, phóng viên Mỹ được tự do hành nghề trên các mặt trận và được quân đội dễ dãi mọi phương tiện. Nick Út có phần chụp được ảnh ăn giải Pulitzer của ông trong thời gian chiến tranh Việt Nam hẳn là có nhờ chính sách cởi mở này. Nhưng đây là một nhầm lẫn. Phòng thông tin Quân đội và chính quyền Mỹ phát hiện chậm trễ là trong cuộc chiến này, họ được báo chí trả ơn bằng cách đâm sau lưng chiến sĩ, lạm dụng tự do mà trình bày... sự thật (phần nào thôi) khiến Hoa Kỳ phải thất bại chua cay.
Bài học này được chính quyền Mỹ ghi nhớ và rút tỉa kinh nghiệm, thất bại tại Việt Nam, đi đầu là do lỗi của dư luận tức là là do lỗi của các phương tiện truyền thông. Trong cuộc chiến Iraq và Afghanistan, dĩ nhiên là không thể để chuyện này xảy ra một lần nữa, đây không phải là một tuyến xa vời với những domino thi nhau đổ dây chuyền ở tít mãi nơi nào Đông Nam Á mà là quyết liệt sống còn giữa Dân chủ và Khủng bố; nếu không chặn ở Kandahar hay Anbar thì sẽ bị đe doạ ngay ở Disneyland. Các nhà báo từ giờ trở đi phải đăng ký với quân đội, chứ không còn được lăng xăng trên mặt trận mà cài đặt trong đơn vị (
embedded, từ này có nơi nhại thành
in-bed-with, nghĩa là nằm chung giường). Trước hết, ăn chung mâm nằm chung chiếu, chia sẻ gian nguy với các binh sĩ, về mặt tâm lý, phóng viên “cài đặt” sẽ gần gũi, tự biến thành đồng đội nghĩa là một thứ phóng viên quân đội chứ không còn là một phóng viên độc lập của một cơ quan truyền thông. Bạn hàng ngày của họ không còn là các đồng nghiệp phóng viên tối họp nhau ở khách sạn soi mói chính quyền hay là diễu cợt hệ thống quân giai, mà là những quân nhân kỷ luật và những chỉ huy sáng suốt của đơn vị cài đặt. Thứ nhì, việc hành nghề thông tin của họ dễ giới hạn và dễ kiểm soát hơn với những quy định mới. Dĩ nhiên, ở phương Tây, các nhà báo muốn hành nghề độc lập, bên ngoài phòng thông tin quân đội, vẫn được toàn quyền nhưng bị bắn nhầm thì ráng chịu, và chuyện này có xảy ra chứ không phải là không, và xảy ra hơi nhiều.
Trong các quy định mới, trước hết là không nên tường thuật về các binh sĩ tử trận, sợ làm lung lay tinh thần của hậu phương. Phải nói, đây là cuộc chiến đầu tiên của Hoa Kỳ với một quân đội nhà nghề, tức là binh sĩ tình nguyện chứ không phải là nghĩa vụ. Các binh sĩ tình nguyện này, tuyệt đại đa số xuất thân từ các thành phần bình dân, nếu không nói là thiếu thốn, tiếng nói không được nặng trong xã hội, nếu không nói là không có tiếng nói. Vì vậy, họ chết mặc họ, trong khi con cái các thành phần trung lưu, thượng lưu, vẫn tiếp tục học hành, đi làm, đi chơi... tức là không đăng lính. Thành phần này lơ là với chiến tranh, và tốt nhất là cứ để họ lơ là, chứ đăng hình liệt sĩ thì họ lại để ý, rồi đâm ra có ý kiến này kia. Mặt khác, chiến tranh này cũng là chiến tranh được tư hữu nhiều nhất trong lịch sử quân đội, với thành phần bảo vệ đánh thuê của các công ty tư nhân (30.000 người tại Iraq) hay thành phần hậu cần và tạp dịch trong các căn cứ quân sự (trên 100.000), tổng cộng có thể lên cao hơn con số lính viễn chinh Mỹ. Đánh thuê ăn tiền thì chết là tai nạn chính đáng của nghề nghiệp cho nên con số các liệt sĩ nhà thầu đương nhiên được bộ Quốc phòng giấu kín và các công ty thầu quốc phòng viện lẽ bí mật nghề nghiệp. Nhưng nếu phải công bố con số các liệt sĩ thuộc thành phần quân đội thì bộ Quốc phòng vẫn không muốn cho quần chúng thấy hình. Ảnh quan tài lính Mỹ được coi là bí mật, để “bảo vệ riêng tư của các gia đình,” phổ biến thì bị truy tố. Không thấy ảnh quan tài, đúng theo thành ngữ “chưa thấy quan tài chưa nhỏ lệ,” thì tức là không có thiệt hại và không có người (Mỹ) chết, đơn giản là vậy. Khi 1.000 quân nhân tử trận và được nhà báo Ted Koppel đọc tên trên truyền hình, ông bị coi thiếu điều là phản quốc chứ không phải là tôn vinh sự hy sinh của họ. Nếu tử trận trước đây được coi là cao quý thì cuộc chiến này là một cuộc chiến xấu hổ, người chết được dúi vào một góc tủ kín và khoá lại.
Nhưng thế vẫn chưa đủ. Mới đây phòng Báo chí Quân đội lại có một quy định mới là các phóng viên “cài đặt” trong các đơn vị
không được chụp hình các quân nhân bị thương.
[1] Lý do được viện dẫn là bảo vệ riêng tư (trong khi riêng tư ở Mỹ thì đã có đạo luật Patriot Act đắc lực phục vụ bằng các cho phép chính quyền vô tư mà theo dõi thư, điện thư và nghe lén đọc lén). Ngay cả các ảnh không thấy mặt mũi của thương binh cũng bị cấm, trong trường hợp thấy cả bối cảnh chung quanh (phù hiệu của đơn vị, đồng đội của đương sự...) và có thể đoán ra danh tánh của người bị thương. Lẽ viện là con tôi có gởi về cho gia đình hình chụp cạnh cây dừa hay con lạc đà, nay tôi xem báo thấy ảnh cây dừa còn đó, con lạc đà còn đó mà quân nhân Mỹ nằm sõng soài thì tôi có thể suy ra ngay đó là con tôi! Tuy nhiên, nếu đương sự chấp thuận, nghĩa là ký vào văn tự cho phép thì hình vẫn có thể phổ biến được, quân đội không can thiệp vào việc này.
Một điển hình, do
phóng viên của tờ New York Times kể lại [2] , ông chụp ảnh một binh sĩ bị mù hai mắt, nằm trên cáng và đương được đưa lên tàu sang (bệnh viện quân đội Mỹ ở) Đức để chữa chạy. Giờ, muốn phổ biến hình này (mà phóng viên chụp hình là để đăng báo, không phải là để trong bộ sưu tập cá nhân những lúc buồn lật ra coi một mình), thì ông phải đưa cho binh sĩ mù này xem và chấp thuận ký vào giấy cho phép. Ta tưởng tượng cảnh Robert Capa chạy lăng xăng trên bãi biển Omaha Beach trong cuộc đổ bộ Normandy, gặp ai nằm xấp cũng lật ngược lại và lay lay, nếu thều thào còn sống thì xin họ một chữ ký chấp thuận phổ biến hình. Đó là ảnh một người, còn mười người bị thương ở trên ảnh thì phải có đủ bằng ấy chữ ký, lỡ trong khi đó có một người qua đời thì vứt xác sang một bên và chụp lại chín anh thoi thóp? Trên thực tế, đây là việc không thể làm được, nghĩa là từ đây, nếu quy định này tồn tại, sẽ không còn thấy hình quân nhân Hoa Kỳ bị thương. Mà không thấy hình quân nhân bị thương nữa, tức là không có quân nhân Hoa Kỳ bị thương. Chuyện này, Tổng thống Bush đã đi trước. Trong hai năm đầu chiến tranh, ông không hề bén mảng lại gần một quân nhân mang thương tích. Chỉ khi sắp phải lại gần (và tranh luận trên truyền hình) với một quân nhân ba lần mang thương tích (tại Việt Nam, ứng cử viên Dân chủ John Kerry) ông mới đến Quân y viện Walter Reed để uỷ lạo các thương bệnh binh. Vì nếu đến thăm họ thì ông sẽ lên hình, họ sẽ lên hình và người xem sẽ tự hỏi, thế ra là nhiệm vụ (
mission) ông rêu rao vẫn chưa được hoàn tất (
accomplished)?
Trong khi quần chúng đang ngán ngẩm chuyện chiếm đóng Iraq, có lẽ Bộ Quốc phòng nên ra thêm một quy định mới. Đó là không được phổ biến hình của các quân nhân Mỹ tại Iraq nếu không có sự chấp thuận của đương sự nếu đương sự độc thân hay sự chấp thuận của đương sự lẫn cả vợ hay chồng của đương sự nếu đã thành hôn và hằng năm khai thuế lợi tức chung, đồng thời chữ ký của các con nếu đương sự có khai trợ cấp cho con để khấu trừ vào thuế. Nếu quy định này ra đời thì chẳng mấy chốc mà hình ảnh của quân nhân Mỹ tại Iraq biến khỏi các phương tiện truyền thông. Không có hình là không có tin, không có tin là không có sự việc, có nghĩa là không có quân đội Mỹ ở Iraq nữa. Rất là giản tiện, như thế Quốc hội khỏi cần phải bàn cãi lôi thôi, nay bỏ phiếu chống quỹ tăng viện, mai ra nghị quyết đòi rút quân.
© 2007 talawas
[1]http://www.nytimes.com/2007/05/28/business/media/
28carr.html?ex=1338004800&en=61d3ca3b3b6d5297&ei=5090&partner=rssuserland&emc=rss
[2]http://www.huffingtonpost.com/michael-shaw/reading-the-pictures-em_b_50927.html