Nói chuyện với Huy Cận
Ở đầu dây:
"Thưa... tôi xin được tiếp chuyện với ông Huy Cận."
Ở cuối dây:
"Tôi đây."
"Thưa chú... cháu là con của nhà văn Nhất Linh. Cháu từ nước ngoài về xin được đến thăm chú."
"À, anh có phải tên là Triệu không?"
"Thưa không ạ... Cháu tên là Thiết, em của anh Triệu."
"Anh về hồi nào? Anh hiện ở đâu? Ở nhà hay ở khách sạn?"
"Dạ... cháu đang ở khách sạn."
"Khách sạn nào? Buồng số mấy?"
"Thưa chú, cháu hiện ở khách sạn Camelia đường Lương Ngọc Quyến, phòng số sáu."
"Thế này nhé! Tôi đang rất bận. Tôi sẽ gọi lại ngay cho anh."
Ở đầu dây bên kia có tiếng đặt máy đánh "cạch". Tôi chưng hửng. Mười phút sau có tiếng điện thoại reng. Cái giọng Huế cấm cẳn và nặng chịch lúc nẫy bây giờ nghe mềm và nhẹ hơn:
"Anh Thiết hỉ... Ngày mai đúng hai giờ anh lại tôi..."
Huy Cận cho tôi biết là mặc dầu có tuổi ông vẫn còn làm việc ở Nhà Văn hóa và thời gian đó là thuận tiện nhất cho ông. Năm ấy ông đã 79. Đó là một ngày mùa thu của 1998. Lần đầu tôi gặp ông, cũng là lần trở về Hà Nội thứ hai của tôi sau 45 năm.
Ba năm sau, năm 2001, chúng tôi lại có dịp đến thăm ông lần thứ nhì. Từ khách sạn trong khu phố cổ Hà Nội tôi gọi điện thoại xin gặp ông. Mẩu đối thoại ở trên được lặp lại, gần như giống hệt:
“Khách sạn nào? Buồng số mấy?”
“Thưa chú, cháu hiện ở khách sạn Prince đường Lương Ngọc Quyến, phòng số tám.”
“Tôi đang rất bận. Tôi sẽ gọi ngay cho anh.”
Mười phút sau điện thoại reng. Y như lần trước ông lại hẹn ngày giờ gặp nhau...
Lần trước, ở tuổi 79, Huy Cận kêu rất bận, tôi đã “nghi nghi”. Lần sau, ở tuổi 82, ông lại cũng rất bận, tôi càng “ngờ ngờ”. Óc tôi thoáng nghĩ tới cái passport màu xanh đậm của tôi đang nằm thoải mái trong tay cô thư ký của khách sạn. Một cú điện thoại đủ xác nhận lý lịch của tôi. Không chạy vào đâu được.
Cái nghi cái ngờ theo tôi ám ảnh... Óc tưởng tượng của tôi đã đi quá xa... hay quả thực thi sĩ đã quá bận rộn chăm lo cho nền văn học của nước nhà trong những ngày còn lại hiếm quí của cuộc đời ông... Tôi cứ ngờ ngợ...
*
Tối thứ bẩy chúng tôi mời mấy người bạn thân đến nhà nhậu chơi lai rai. Vừa đẩy cửa bước vào một người bạn nói to cho cả đám:
"Các ông biết không? Huy Cận chết rồi!"
*
Mấy năm trước tôi có viết một bài ký mang tên "
Cây bàng lá đỏ" tả về chuyến đi Hà Nội vào mùa thu năm 2001. Có một vài người hỏi tôi những sự kiện nêu trong bài ký là hoàn toàn thực hay có tưởng tượng ở trong. Tôi trả lời là tất cả sự kiện đều thực, chỉ có thời gian là hư cấu. "Cây bàng lá đỏ" là ghép những sự kiện của hai chuyến về Việt Nam của tôi gộp làm một lần. Chẳng hạn như trong đoạn tả về cuộc gặp gỡ Huy Cận tôi đã để độc giả hiểu như thể năm 2001 tôi mới gặp ông lần đầu. Thật ra đó là lần thứ hai. Nhưng khi viết "Cây bàng lá đỏ" tôi đã hoàn toàn thu ống kính về lần gặp gỡ đầu tiên ba năm trước đó, mùa thu năm 1998, bởi vì chính lần gặp gỡ này mới cho tôi nhìn rõ hơn con người Huy Cận.
Giây phút trước khi tôi lên xe, Huy Cận quàng tay qua người tôi. Tôi cảm thấy bàn tay ông nặng xuống bả vai. Qua giọng nói của ông và qua bàn tay ông truyền vào người tôi, tôi cảm nhận được cái xúc động của ông già 82 tuổi đó, cái xúc động nó rõ ràng là mạnh mẽ hơn một sự ngậm ngùi: "Việc gì anh ấy phải chết. Việc gì bố cháu phải chết..." ("Cây bàng lá đỏ").
Đó là cái xúc động của ông già 79 tuổi, nói cho đúng ra. Trong lần gặp thứ nhì năm 2001 khi Huy Cận bước vào tuổi 82, trong mắt tôi, tuồng như ông lại đóng khung trong cái vỏ cứng, ít ra cũng trong phần đầu của cuộc nói chuyện. Tôi không tìm thấy ở lần sau này những biểu cảm tương tự. Trong buổi nói chuyện chúng tôi đã có một lúc tranh luận khá gay gắt khi Huy Cận bắt đầu nói về chính trị, đặc biệt khi ông tự giành quyền "phán xét" hành động chính trị của bố tôi, điều mà bố tôi không muốn: bố tôi tự chết chỉ quyết là để không ai được quyền phán xét ông, ngoài "lịch sử". Nhưng ngay sau phần đó thì mọi sự chùng xuống với một tình cảm thiết tha khi Huy Cận nói về quá khứ, thời Tự Lực Văn Đoàn. Đặc biệt là ở cuối buổi nói chuyện ông đã chia sẻ với chúng tôi những kỷ niệm thân mật và hết sức riêng tư giữa ông và bố tôi.
Hôm đó, như lần trước, chúng tôi cũng đứng chờ ông mở cửa trước cánh cổng sắt. Lần này tôi có thêm anh Việt và chị Thoa đi cùng. Ba năm đi qua, Huy Cận trông có hơi khác, già đi. Ông vẫn mập mạp. Những nếp nhăn xếp chồng lên trên khuôn mặt đầy đặn làm cặp mắt trước kia trông húp húp nay như ti hí. Khi Huy Cận cười miệng ông trông như móm, mặc dù răng cộ còn đủ. Giọng nói của ông vẫn mạnh và tóc của ông vẫn còn đen. Khác lần trước Huy Cận tiếp chúng tôi ở căn buồng trong. Căn buồng rộng hơn căn phòng khách phía ngoài nơi có treo mấy bức phác họa chân dung Huy Cận và Xuân Diệu. Bốn chúng tôi ngồi hai bên chiếc bàn gỗ mun trên dẫy ghế nệm da. Tôi ngồi cạnh Huy Cận. Anh Việt và chị Thoa ngồi đối diện. Ngước nhìn anh Việt và tôi, Huy Cận bắt đầu:
"Ai là anh, ai là em đây?"
Tôi nói:
"Thưa chú, anh Việt là anh cả. Còn cháu là út trong nhà."
Huy Cận nhướng cặp mắt:
"Anh mà trông trẻ hơn em!"
Chị Thoa quay qua anh Việt:
"Anh Việt hôm nay sướng nhé! Được chú Huy Cận khen trẻ..."
Anh Việt nói:
"Chú khen cháu chẳng sướng đâu. Giá có cô nào trẻ trẻ nói thế cháu sẽ thích lắm..."
Tôi chen vào:
"Chú Huy Cận ơi, anh Việt ăn gian đấy ạ! Anh ấy hơn cháu những mười tuổi nhưng vì anh ấy nhuộm tóc đen thui, còn cháu, cháu cứ để nguyên tóc bạc... Anh Việt này, anh nhìn tóc chú Huy Cận đây xem, còn đen nhánh, với cái tuổi tám mươi của chú, cháu ngờ lắm..."
Nhân biết anh Việt sống nhiều năm bên Pháp, Huy Cận bắt đầu nói với chúng tôi về những kỷ niệm, những chuyến đi Tây của ông. Ông đi sang Pháp dự hội nghị rất nhiều lần như đi chợ. Câu chuyện đến một lúc nào đó chuyển dần về thời Tự Lực Văn Đoàn. Huy Cận nói với chúng tôi là nếu không xẩy ra cuộc Cách mạng tháng Tám thì ông đã được vào Tự Lực Văn Đoàn rồi. Sau Xuân Diệu thì đến lượt ông. Điều này gần như chắc chắn. Ông nói. Trước đây Huy Cận đã từng nói đúng như thế với người con út của Thạch Lam. Ông nhắc lại chuyện này với một sự tiếc làm tôi chạnh nhớ tới người bạn tâm giao của ông, nhà thơ Xuân Diệu, người đã có chân trong Tự Lực Văn Đoàn, nhưng sau này phủ nhận Tự Lực Văn Đoàn, xem việc mình là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn là một cái nhục.
Nói chuyện chừng nửa giờ, như sực nhớ ra chuyện gì, Huy Cận đứng lên. Ông lê thân hình nặng nề đi vào phòng trong. Cùng lúc ấy cửa trước mở một người đàn bà đứng tuổi đi vào, nhìn chúng tôi, rồi bước lên cầu thang. Người đàn bà ấy trông rất trẻ so với Huy Cận. Không được giới thiệu chúng tôi không biết sự liên hệ. Trong lúc Huy Cận không có mặt, anh Việt lôi ra trong túi xách tay một cái máy quay phim video. Lát sau Huy Cận trở ra, tay ôm khệ nệ một bọc lớn. Anh Việt xin phép Huy Cận được quay phim buổi nói chuyện. Huy Cận lấy ra từ trong bọc một cái phong bì. Trong phong bì là một bức ảnh đen trắng ông đưa chúng tôi xem. Đó là bức ảnh chụp hai mẹ con. Bà Nguyễn Thị Vinh và cô Trương Kim Anh. Ảnh chụp ở Sài Gòn, đâu đó trong thập niên 60. Huy Cận mở ra một tờ giấy gấp tư đọc chúng tôi nghe bài thơ của ông. Ông nói bài thơ này ông sáng tác ở Hà Tiên có nhan đề "Tiếng sáo đưa Linh", tiếng sáo của nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh trong nhà xác bệnh viện Đồn Đất, trước thi thể của nhà văn Nhất Linh.
Rồi Huy Cận lấy ra từ trong bọc một tập bản thảo dầy. Tập này được ông gói bằng dây vải màu đỏ, gói kỹ lưỡng như kiểu người ta gói một chiếc bánh chưng. Tay Huy Cận chậm chạp cởi dây vải trong lúc miệng ông ngâm khẽ hai câu "Ngậm ngùi":
Sợi buồn con nhện giăng mau;
Em ơi! Hãy ngủ... anh hầu quạt ...
Huy Cận bỏ lửng. Ông ngửng lên nhìn chị Thoa:
"Cô với các anh còn phải nhận điều này... Trong tất cả các nhà thơ chỉ có Huy Cận là quạt hầu cho người yêu... còn các nhà thơ khác thì bắt người yêu quạt. Đặc biệt! Chỉ có tôi là quạt hầu cho người yêu... Huy Cận là trân trọng với người yêu..."
Anh Việt nói:
"Có thế các nàng mới thích mới mê chứ..."
Tiếng chị Thoa:
"Chắc chú Huy Cận có nhiều mối tình đẹp..."
"Tôi phải kể đến ba bốn ngày mới hết... Bây giờ mình không có thì giờ... Để chốc nữa tôi sẽ kể cho một mẩu..."
Rồi Huy Cận hướng mặt về phía anh Việt lúc ấy đang ghi âm và thu hình:
"Tập Hồi ký song đôi đây. Một nghìn trang. Nhưng mà chưa in. Có một số đoạn tôi trích ra đăng ở các báo rồi... Bây giờ đây này. Kỷ niệm với Nhất Linh và Khái Hưng. Trong tập này tôi dành 15 trang để nói về hai ông Nhất Linh và Khái Hưng. Tôi chỉ đọc cho các anh nghe trang về Nhất Linh thôi, thêm trang về Khái Hưng nó dài lắm. Cái trang đầu tôi tóm tắt khỏi phải đọc. Trước khi tôi nói về cái kỷ niệm thắm thiết và ca ngợi hai ông tôi phải nói về cái chính trị trước...”
Tiếng anh Việt ngắt lời:
“Cái không tránh được hả chú?”
“Không không... đương nhiên... đó là... sự thật lịch sử. Đây này trang đầu tôi nói Nhất Linh và Khái Hưng là hai nhà văn có tinh thần dân tộc và có tinh thần yêu nước sâu sắc và chống Pháp... cho nên... anh đã ghi chưa?”
“Ghi rồi ! Đang ghi đấy ạ...”
“Đang ghi rồi à... cho nên thực dân Pháp nó bắt hai anh và nhiều người khác cùng chí hướng đầy đi Vụ Bản là một nơi ma thiêng nước độc ở Hòa Bình, sau đó lại đầy đi một chỗ gọi là Trụ cũng là nơi ma thiêng nước độc ở Bắc Giang. Điều ấy là khẳng định đầu tiên... Nhưng mà tiếc rằng hai vị này và nhất là Nhất Linh Nguyễn Tường Tam có sai lầm về chính trị. Cái nhầm đầu tiên là tưởng dựa vào Nhật để mà có thể độc lập thì cái sai lầm này lớn lắm... Cha ông ta thời Đông Kinh Nghĩa Thục đầu thế kỷ, cả cụ Phan Bội Châu cũng đã nhầm trong phong trào Đông Du thì Đông Kinh Nghĩa Thục hay Đông Du là bị nhầm... Đế quốc Nhật là đế quốc... Điểm thứ hai tôi nói nặng hơn và không thể nhầm được là theo đuôi quân Tưởng Giới Thạch, quân Quốc dân Đảng Trung Quốc để chống lại cách mạng, để mà chống lại Việt Minh mà Việt Minh là cách mạng...”
“Thế nhưng mà không chống thì cũng bị giết...”
Huy Cận nhướng người phía trước, khum bàn tay đặt sau vành tai:
“Hỉ?”
“Cháu nói nếu hồi đó không chống thì cũng sẽ bị Việt Minh giết thôi.”
“Không, anh khoan nói... Việt Minh sẵn sàng hợp tác với tất cả. Đây là tôi thay mặt Việt Minh. Hồ Chủ Tịch và tôi và một số người... trong bảo tàng viện Hồ Chí Minh có một bản ghi có chữ ký của tôi ở dưới; Hồ Chí Minh ở trên, tất nhiên. Việt Minh chân thành hợp tác... tinh thành hợp tác... với các đảng phái để giành độc lập... Có cả một bản in..."
"Nhưng nói là một chuyện, còn làm hay không lại là chuyện khác..."
"Anh khoan bàn với tôi... tôi đang nói cái hồi ký của tôi mà... Cái đó là tai hại, cái đó không phải là nhầm lẫn... Cái đó là... tôi dùng một chữ nặng, đó là phản cách mạng..."
"Nhưng chắc chú nói như thế mới được in..."
"Không... Không... Tôi là nhân vật... nhân chứng lịch sử tôi phải biết chứ! Tôi rất biết Việt Minh bởi vì tôi ở trong Việt Minh, tôi ở trong Đảng Cộng sản Việt Minh mà, tôi biết quá đi chứ, là Việt Minh muốn hợp tác, nhưng người ta phá, nó phá từ khi ở biên giới... từ khi mà quân Tưởng Giới Thạch vào... Không phải chỉ có ông Nhất Linh với Nguyễn Hải Thần mà còn nhiều người khác nữa... Trong khi đó Việt Minh tạo điều kiện để hợp tác... Sau cùng thì có cái Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến thì cũng có tham gia nhưng mà... rồi thì..."
Trong lúc Huy Cận hăng hái nói, cánh cùi trỏ tay phải của ông lâu lâu hích hích vào vai tôi, như thể để thăm dò, chắc vì thấy tôi từ lúc nẫy vẫn ngồi im không nói gì (nhất là không nói "móc họng" kiểu anh Việt). Tôi bèn nhẩy vào cuộc tranh luận:
"Chú cho cháu ngắt lời một chút xíu. Trước khi mất bố cháu có để lại di chúc. Cũng là ý nguyện của bố cháu: 'Đời tôi để lịch sử xử’. Chỉ có lịch sử về sau mới có thể phán xét đúng, sai. Hiện tại chúng mình đang là người trong cuộc không nên phán xét."
Huy Cận quay qua tôi:
"Thôi được rồi... tôi cũng ý như thế... Tôi cũng biết cái câu ấy chứ... nhưng mà tôi vẫn có ý định của tôi... dựa vào đế quốc Nhật... nhầm lẫn quá trễ. Phan Bội Châu đã lầm mà Nguyễn Tường Tam lầm thì không thể được..."
"Nhưng thưa chú thế nào là lầm cơ chứ? Hoá ra tất cả những người đi khác con đường chú chọn đều lầm hết sao? Vả lại cháu không tin bố cháu dựa vào một thế lực ngoại bang nào. Bố cháu chủ trương Tự Lực, cả văn hoá lẫn chính trị. Người ta cứ nói bố cháu đi theo con đường thân Nhật, có bằng chứng nào không?"
"Các anh không biết, nhưng chúng tôi, chúng tôi biết..."
"Thì cứ giả thiết như thế đi thì cái lầm đó cháu nghĩ sẽ không tai hại cho đất nước bằng con đường của những người tự cho là mình đi đúng đường."
"Thôi... thôi... đó là chuyện khác. Tôi nói ông Nhất Linh cái đã... Tôi nói ông Nhất Linh cái điểm nhầm thứ ba đi đến chỗ chống một phong trào cách mệnh thực sự, chống phong trào Việt Minh, chính phủ độc lập rồi mà còn chống, thì cái đó không thể tha thứ được. Tôi phải nói cái ý của tôi. Còn những người cùng lịch sử có đồng ý, không đồng ý là chuyện khác..."
Huy Cận ngừng lại. Một tay ông quơ qua đặt nhẹ bàn tay lên đùi tôi. Mắt ông nhìn vào tập bản thảo:
"Nhưng mà tôi nói như thế trước khi tôi nói về những kỷ niệm sâu sắc... các bạn có hiểu không đã nào... Đây là trang đầu, trang đầu tôi nói như thế... còn trang sau thì tôi đọc... Tôi viết cái này năm 1986..."
Anh Việt hỏi:
"Tám sáu viết rồi cơ à?"
"Mười lăm năm rồi... Viết xong năm ấy nhưng chưa xuất bản, bởi vì tôi còn om để tôi thêm tư liệu là một với hai nữa là tôi muốn viết cho cái văn nó hay hơn."
Huy Cận cúi xuống tập bản thảo. Tay ông lật qua lật lại từng trang giấy. Sau cùng ông tìm được chỗ bắt đầu. Giọng Huy Cận chùng xuống:
"Đây này... Lần đầu tiên tôi gặp Nhất Linh..."
*
"Lần đầu tiên tôi gặp Nhất Linh là vào dịp Tết Mậu Dần (1938), lúc bài thơ 'Chiều xưa’ của tôi được đăng trên báo
Ngày Nay số Tết; và Tết đó tôi từ Huế ra chơi Hà Nội cùng anh Xuân Diệu. Anh Xuân Diệu giới thiệu tôi với Nhất Linh. Nhất Linh đọc ngay câu thơ đầu của bài 'Chiều xưa’:
'Buồn gieo theo gió ven hồ - Đèo cao quán chật, bến đò lau thưa’. Thì ra Nhất Linh đã chú ý bài thơ của tôi đăng số Tết vừa phát hành. Rồi anh nói: 'Hồn xưa trong một câu thơ lục bát rất mới! Chắc anh đã làm nhiều thơ? Về Huế anh nhớ gửi đều thơ ra báo chúng tôi’ Xong rồi Nhất Linh nói sang chuyện khác, chuyện chợ Tết, chuyện đi mua hoa, chuyện làng quê còn giữ được không khí Tết ngày xưa như hồi anh ấy còn đi học. Anh có mời tôi trở lại nhà báo chơi trước khi tôi trở về Huế tiếp tục học ban Tú tài. Tôi đã trở lại toà báo
Ngày Nay ở số 80 đường Quan Thánh Hà Nội, thăm Nhất Linh và Khái Hưng trước khi đáp tàu hỏa về Huế. Câu chuyện thân mật, thân tình, không có gì là khách sáo, không có gì là 'hàn lâm’. Tôi có nhắc qua những truyện tôi đã được đọc của các anh, tôi có nói qua phong trào Thơ Mới, nói sự hâm mộ của thanh niên học sinh ở Huế, ở Trường Quốc học đối với báo
Ngày Nay và sách của nhà xuất bản Đời Nay. Nhất Linh và Khái Hưng không nhấn mạnh vào sự hâm mộ và hoan nghênh ấy của công chúng độc giả. Hai người nói nhiều với tôi về truyền thống nghìn năm văn vật của đất Thăng long, của thành Hà Nội. Qua câu chuyện tôi cảm thấy những tình cảm của quê hương đất nước mà các anh đã diễn tả một cách kín đáo trong các truyện, các bài văn là một tình cảm sâu sắc, nung nấu trong lòng qua nhiều năm tháng..." (trích
Hồi ký song đôi của Huy Cận - tập 2 - trang 253 do nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành, Hà Nội, năm 2002).
"Có khi anh còn rủ tôi về chơi nhà anh ở thị xã Hà Đông vào một dịp Tết. Lúc đó Nhất Linh đang viết truyện dài
Bướm trắng, anh có khoe với tôi là đã viết được gần nửa truyện rồi. Nhất Linh viết truyện trên những quyển vở gạch carô, và viết bằng bút chì vót thật nhọn, chữ viết đều đặn và rất nhỏ. Trên trang bản thảo ít có chỗ chữa, thảng hoặc có thêm câu nào thì móc ra ở ngoài lề như kiểu ta chữa bản mo-rát của nhà in đem tới. Anh khoe với tôi là viết tiểu thuyết như vậy, anh không hề có đề cương trước, có dàn bài trước, hay nói cho đúng hơn là anh có một thứ dàn bài mơ hồ trong tâm trí, một thứ khung của câu truyện. Rồi thì anh xông vào viết truyện, mặc cho nhân vật lôi cuốn anh đi" (Sđd. trang 254).
"... Nhất Linh đã chủ trì phong trào 'nhà ánh sáng’ một cách thực lòng, hào hứng và tin tưởng là mình làm một việc xã hội có ích. Cái sức hấp dẫn của Nhất Linh, cái sức tập hợp của anh với tư cách là giám đốc Tự Lực Văn Đoàn chính là cái lòng tin đó, chính là cái lòng hoài bão của anh đối với tiền đồ văn học nước nhà, tất nhiên là theo quan niệm của anh" (Sđd. trang 255).
"... Nhất Linh lại có một hồi mê học nhạc, đặc biệt là mê thổi kèn clarinét; thường tôi đến tòa soạn báo
Ngày Nay hay gặp anh thổi những bản nhạc theo những điệu hát trong các phim nổi tiếng hồi bấy giờ là bài
Horsay, Nàng Bạch Tuyết và bẩy chàng lùn... Thỉnh thoảng anh cũng thổi một vài bản nhạc cổ điển Âu Tây ngắn như bài
Sêrênát của Sube, bài
Ánh trăng của Bitôven... Lúc Nhất Linh chúm môi thổi clarinét thì vẻ mặt anh trầm lắng, hai mắt say sưa, thật dễ gây cảm tình" (Sđd. trang 256).
"... trong ánh mắt của Nhất Linh tôi cảm thấy vừa có một sự tin yêu đằm thắm, một sự say mê nung nấu, lại vừa có chút gì như là điên, như là ánh sáng thỉnh thoảng chớp lên một niềm điên. Về sau, lúc cuối đời, người ta bảo Nhất Linh có một phần điên trong tâm tưởng. Nếu quả có thế, thì cái hạt nhân điên đã thoảng hiện trong những năm minh mẫn của anh và có lẽ đó cũng là một yếu tố làm nên cái tâm hồn say mê của nhà văn và làm nên sức hấp dẫn của người thủ lãnh của Tự Lực Văn Đoàn" (Sđd. trang 256).
"... Có một Tết Nhất Linh và Thạch Lam đã rủ anh Xuân Diệu và tôi về ăn Tết ở Cẩm Giàng (Hải Dương), nơi bà cụ của hai anh vẫn ở và sinh sống từ ngày ông cụ thân sinh của các anh còn làm quan ở huyện. Đêm giao thừa chúng tôi thức để đi bẻ lộc trong vườn, và sau khi ăn bát chè đậu xanh giữa phút giao thừa thì chúng tôi trải chiếu ngủ trên ổ rơm rất ấm và thỉnh thoảng ngâm thơ Thế Lữ
Thuở ấy đượm màu sương gió biếc - Trời mây huyền ảo đắm hồn thơ - Cây im vin bóng um tùm lá - Sông thẳm nguồn sâu nước đợi chờ... Ấn tượng tổng quát mà Nhất Linh để lại trong tôi ở giai đoạn ấy là một tâm hồn nghệ sĩ say mê, một người đứng đầu một trường phái văn học có hoài bão, một người bạn văn chương có con mắt sành biết khám phá và biết ủng hộ những tài năng. Đó là giai đoạn đẹp trong đời Nhất Linh" (Sđd. trang 257).
"... Có lần Nhất Linh tâm sự với tôi: 'Chắc anh sẽ hỏi tại sao tôi có nhiều con. Có gì đâu? Bà vợ tôi thích đẻ con, vì bà cho biết mỗi lần mang thai thì sức khỏe của bà tốt lên, thấy yên ổn trong người. Thụ thai và mang thai đối với vợ tôi là một hạnh phúc. Đó là một hạnh phúc cụ thể, vừa cơ thể vừa tâm hồn, đó là kinh nghiệm của tôi, hay đúng hơn là kinh nghiệm của vợ tôi’. Nhất Linh nói mấy câu đó với một nụ cười không phải là hóm hỉnh, mà như là một nụ cười tình cảm, tỏ lòng biết ơn đối với người vợ đoan trang và đảm đang của mình. Có lần Nhất Linh cũng nói với tôi: 'Làm vợ một nhà văn nhiều khi cũng phiền, và cũng thiệt, phải hy sinh nhiều. Cứ xem vợ ông Tú Xương thì rõ
: Quanh năm buôn bán ở mom sông - Nuôi đủ năm con với một chồng - Lặn lội thân cò khi quãng vắng - Eo sèo mặt nước lúc đò đông’ (thơ Tú Xương mà Nhất Linh đọc thuộc lòng, với một giọng như là mượn lời thơ trên đây để tỏ lòng biết ơn vợ, mặc dù bà Nhất Linh không đến nỗi vất vả, tần tảo như bà Tú Xương) (Sđd. trang 258).
"... Khái Hưng và Nhất Linh là hai người bạn rất thân mặc dầu tình bạn đó đã được xây dựng lúc hai người đã lớn tuổi, sau khi Nhất Linh đi học ở Pháp về, khi hai người gặp nhau cùng dậy học ở trường Thăng Long, lúc đó Nhất Linh khoảng 26 tuổi và Khái Hưng 36 tuổi. Vì tình bạn đó mà Nhất Linh đã cho đứa con trai của mình tên là Triệu làm con nuôi của vợ chồng Khái Hưng, và em Triệu này lấy họ bố nuôi, thành Trần Triệu. Một kỷ niệm vui nữa của Nhất Linh đối với tôi là khi tập
Lửa thiêng của tôi sắp đem in thì tôi hỏi Nhất Linh muốn tôi tặng bài thơ nào. Nhất Linh lật qua các trang thơ đã đánh máy, dừng lại ở bài "Áo trắng": 'Anh cho tôi bài thơ này’. Tôi hỏi: 'Chắc anh có kỷ niệm gì liên quan đến tình cảm của bài thơ?’- 'Đúng thế, trong đời tôi cũng có một cô áo trắng’. Sau khi đề tặng Nhất Linh, thì có một người khác trong Tự Lực Văn Đoàn cũng muốn tôi tặng bài đó. Thì ra trong đời hầu như ai cũng có một cô áo trắng! Về sau đọc tiểu thuyết của Nhất Linh, tôi có chú ý rằng Nhất Linh đã một vài lần tả chiếc áo trắng của người trong truyện, đặc biệt là trong một đoạn của cuốn
Bướm trắng tác giả đã tả chiếc áo cánh phơi trên dây còn bày ra mùi hương da thịt làm đắm đuối một nhân vật đứng ngắm chiếc áo. Chắc hẳn tác giả đã vận dụng kỷ niệm, đã sống lại kỷ niệm say sưa của mình để viết đoạn văn trên" (Sđd. trang 259).
*
"Có khi anh còn rủ tôi về chơi nhà anh ở thị xã Hà Đông vào một dịp Tết... Lúc đó Nhất Linh đang viết chuyện dài
Bướm trắng..." (Sđd. trang 254).
Huy Cận ngừng đọc, ngón tay ông bấm vào trang bản thảo để đánh dấu rồi ông ngước nhìn chúng tôi nói:
"Năm 1940. Nhất Linh có một căn nhà ở thị xã Hà Đông... Nhà có cô con gái là..."
Huy Cận nhìn chị Thoa:
"Không phải là cô... hay là..."
Anh Việt trả lời:
"Cô con gái là Nguyễn Thị Kim Thư ạ. À, mà cháu nhớ ra căn nhà đó rồi, cháu cứ thắc mắc đó là năm nào?"
"Năm bốn mươi. Tôi đã nói rồi. Tôi về Hà Đông. Ông Nhất Linh có nhà ở ngay thị xã Hà Đông. Mà có cô con gái, không phải cô, cô Thư hả?"
Chị Thoa đáp:
"Vâng, chị Thư ạ..."
"Tức là chị cô? Mất năm nào?"
"Mất năm bẩy mươi sáu. Tai nạn..."
"Như thế cũng là cao tuổi. Cũng trên bẩy mươi rồi hỉ?"
Anh Việt nói:
"Không ạ. Năm bẩy mươi sáu. Chị Thư sinh năm hai mươi sáu. Như vậy chị mất năm chị 49 tuổi."
Huy Cận như nhớ lại một kỷ niệm rất xưa, ông cười, hai mắt ông tít lại:
"Tôi nhớ cái dáng của cô Kim Thư. Mà lúc bấy giờ mình chưa có ý tứ gì về chuyện xây dựng cuộc đời... thì mình thấy cô mình cũng có... cảm tình... mà Huy Cận đến thăm ông Nhất Linh trông thấy cô con gái của Nhất Linh thì cũng có thể thành chuyện... Thế nhưng mình chưa nghĩ đến chuyện gia đình... thành thử để bỏ qua."
Cả ba chúng tôi đều bật lên cười theo ông.
Rồi Huy Cận cúi xuống đọc tiếp...
*
"... đặc biệt trong một đoạn của cuốn
Bướm trắng tác giả đã tả chiếc áo cánh phơi trên dây còn bày ra mùi hương da thịt làm đắm đuối một nhân vật đứng ngắm chiếc áo. Chắc hẳn tác giả đã vận dụng kỷ niệm, đã sống lại kỷ niệm say sưa của mình để viết đoạn văn trên" (Sđd. trang 259).
Huy Cận lại ngừng đọc, ngước mặt nhìn chúng tôi, môi ông nở một nụ cười:
"Tôi chêm câu chuyện này. Kể cho các anh nghe chơi. Có một chuyện mà Nhất Linh rất buồn với tôi... Có một hôm anh Nhất Linh nói với tôi: ‘Anh Cận này... anh có muốn suốt đời không phải lo về cơm áo gạo tiền để mà chuyên làm thơ...’. Tôi nói: ‘Ai chả muốn thế! Thế thì tuyệt quá!’ – ‘Dễ lắm!’ – ‘Dễ là thế nào?’ – ‘Có một điền chủ rất thương yêu anh (có tiếng nói nhỏ của anh Việt: à, Đỗ Đình...) mà hơn thế nữa có cô con gái rất yêu thơ Huy Cận. Cô con gái học Đồng Khánh... rất yêu thơ Huy Cận’ – ‘Thế thì tốt quá nhưng mà làm sao...’ – ‘Thế thì như thế này nhé! Hôm nào chủ nhật anh đến thăm người ta giả vờ như đi nhầm nhà để xem cô con gái thế nào’. Anh cho tôi địa chỉ ở phố Sa-Rông, bây giờ là Lý Nam Đế... à không, Mai Hắc Đế... phố Sa-Rông... Tôi đến đúng số nhà ông Nhất Linh cho, gõ cửa vào làm đúng cái bài của ông Nhất Linh: ‘Xin lỗi cô... có phải đây là nhà của ông ấy... ông kia... không?’ – ‘Xin lỗi ông, rất tiếc là ông đã nhầm số nhà... thôi... nhưng mà nhân tiện ông đã bước qua đây rồi thì mời ông vào nhà uống nước...’
Chúng tôi cùng "À" lên một tiếng. Huy Cận tiếp theo, nhấn vào hai tiếng "nhân tiện":
"Nhân tiện ông đã bước qua đây... Thế là ngồi nói chuyện... rất là đẹp... người đẹp là một chuyện... câu chuyện tỏ ra là người có văn hoá, có thơ văn..."
Tôi thêm:
"Mà lại giầu có..."
"Nghĩa là ông Nhất Linh bố trí cứ y như trong tiểu thuyết ấy... Mà tôi có cảm tưởng hôm đó mình gặp cô ấy đúng như là Đạm Thủy gặp Tố Tâm ở trong buổi đầu... Tố Tâm, Đạm Thủy trong truyện của Hoàng Ngọc Phách ấy mà... Hôm đó về gặp lại anh Nhất Linh. Anh hỏi tôi ‘Thế nào? Được không?’. Tôi trả lời: ‘Rất tốt! Rất đẹp! Người rất đẹp mà câu chuyện cũng rất đẹp. Nhưng mà... không nhận được!’. Anh hỏi tôi tại sao. Tôi nói tôi chưa có cái điều muốn thế... tôi đang có cái việc suy nghĩ riêng của tôi... (Chả là hồi đó mình có cái chí hướng đi làm cách mạng này, chí hướng... nhiều điều này, đâu có thể đi lập gia đình). Nhưng ông Nhất Linh cho biết thêm nếu tôi nhận thì ông bố... cho hẳn một cái đồn điền... Ở trong tiểu thuyết ông hay tả đồn điền lắm..."
"À, Đỗ Đình... đấy!"
"... ông Nhất Linh quen nhiều ông chủ đồn điền lắm... mà dễ hiểu thôi... cái xu hướng... tư tưởng... Cho đồn điền... cho một cái nhà lầu ở Hà Nội... Lại cho cả cái ô tô nữa nhé...Trời ơi... Nhà thơ Huy Cận có đồn điền, nhà lầu, ô tô thì..."
"Thì cũng hết thơ Huy Cận rồi..."
"Khoan... khoan... có thể còn nhưng mà theo kiểu khác... và ô tô và con gái đẹp... nhưng mà Huy Cận từ chối..."
Huy Cận dang mạnh hai tay ra, cười lớn:
"Thế mới gọi là Huy Cận!"
Chúng tôi cùng cười theo ông. Rồi ông nghiêm nét mặt tiếp theo:
"Tôi kể đến đây tôi nói thêm các bạn cái này... Mình không nhận vì chí hướng mình không nhận... mà cũng may mà không nhận chứ nếu không đến cải cách ruộng đất thì... nó chất mình, mình cũng chết!"
Tất cả cùng cười ồ. Huy Cận chúm miệng đưa hai ngón tay lên môi lấy ra cái gì như là một sợi chỉ hay sợi tóc vướng trong mồm, rồi ông nói:
"Không... mấy ông bạn khác của tôi nói không sao đâu... Anh mà có nhận đồn điền, nhà lầu, ô-tô, gái đẹp thì anh cũng không sao đâu... bởi vì lúc bấy giờ anh chỉ việc đi Pháp thôi..."
Huy Cận quay qua tôi. Ông hạ giọng nói tiếp (tôi thoáng thấy trong cặp mắt ti hí của ông lóe lên một tia cười hóm hỉnh):
"... và bây giờ trở về anh trở thành một ‘Việt kiều yêu nước’ rồi..."
Seattle, tháng 3-2005