© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
23.8.2007
Trần Khốt
Tiếu lâm chính trị (Việt Nam, năm 1980)
 1   2   3   4 
 
Mục lục

Lời “rào đầu”
  1. Mách nước Diêm Vương
  2. Nhất thế giới
  3. Nhất trí 100%
  4. Toà nhà không hố xí
  5. Ăn qua loa
  6. Hàng xuất khẩu đặc biệt
  7. Đồng chí Sáu La Mã
  8. Bà con Lênin ở Việt Nam
  9. Chùm chuyện Phạm Tuân bay vào vũ trụ
    1. Dễ biết quá
    2. Chỉ riêng Việt Nam
    3. Đồng hương trên vũ trụ
    4. Đỏ tay và đỏ má
  10. Câu hỏi định mệnh
  11. Lên nhanh nhất và xuống nhanh nhất
  12. Bộ ta có nhà máy gì?
  13. Lệnh anh Ba
  14. Vấn đề đầu tiên
  15. Lý lịch vào khối SEV
  16. Kít chê Đặng ngu
  17. Phần Việt Nam...
  18. Họ “Tôn Thất”
  19. Cả ngày xếp hàng
  20. Bạn học anh Ba
  21. Tin vào Đảng...
  22. Một phần ba
  23. “Bảng đỏ, sao vàng”
  24. Chỉ cần ném...
  25. Ai được dân thích nhiều hơn?
  26. Ba thủ lợn
  27. Chuyện lương...
  28. Đầy tớ nhân dân
  29. Đưa hình đi đâu?
  30. Quái vật Thái Bình Dương
  31. Nhại thơ, hoạ thơ Tố Hữu
  32. “Ngang” như... Nguyễn Tuân
  33. Bãi lầy đo tội
  34. Tranh, tượng biết nói
  35. Ba con vẹt
  36. Người mới
  37. Quốc ca mới
  38. Dọn nhà
  39. Có anh Ba... Lăm
  40. Mong sống lâu
  41. Lẫn
  42. Không có ba cây...
  43. Hoài Thanh mất tích
  44. Ngọc Hoàng cũng khóc
  45. Lại chuyện Ngọc Hoàng cũng khóc
  46. Theo lời các cụ
  47. Môn thi đấu mới
  48. Tin kỳ cục trên trần
  49. Địch sao nổi!
  50. Bốn tấm hình
  51. Con trai anh Năm
  52. Rùa ngựa, ngựa rùa
  53. Ám chỉ ai?
  54. Xứng đáng là tổng bí thư
Phụ lục
  1. Vè “tiêu cực” và dăm chuyện đặt vè
    1. Báo Đảng sợ... vè “tiêu cực”
    2. Vè chợ búa
    3. Vè lương tháng
    4. Vè giáo dục
    5. Vè làng văn
    6. Vè Phạm Tuân

  2. Vài chuyện tiếu lâm Sài Gòn trước năm 1975
    1. Cầu Thượng đế phù hộ
    2. Dân chúng đỡ khổ
    3. Ông bầu
    4. Tranh khoả thân
    5. Dọn nhà

  3. Vài chuyện tiếu lâm chính trị Trung Quốc, Liên Xô, Đức

    TRUNG QUỐC
    Mao Chủ tịch nói...

    LIÊN XÔ
    1. Chùm chuyện tiếu lâm thời Khơrútsốp
      1. Khơ chết ngất
      2. Khơ sợ “tệ sùng bái cá nhân Khơrútsốp”
      3. Bội thu và thất thu
      4. Xêđenban mặc áo mưa
      5. Quỷ sứ cũng phải sợ

    2. Chùm chuyện tiếu lâm thời Brrzhnev
      1. Dân say bét nhè
      2. Đồ dối trá
      3. Chưa tỉnh hôn mê
      4. Không sợ chuyện tiếu lâm
      5. Người kế nhiệm

    ĐỨC
    Chùm chuyện tiếu lâm thời Hítle


*


Lời “rào” đầu

Tiếu lâm nói chung và tiếu lâm chính trị nói riêng là thể loại văn học dân gian truyền miệng tồn tại lâu đời ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam ta. Tuy nhiên, trong cuốn sách “mini” này, người sưu tầm (nói cho đúng hơn: người nghe và ghi) chỉ dám “khoanh vùng” mảng tiếu lâm chính trị năm 1980. Có hai lý do khiến tôi làm như vậy. Thứ nhất, đó là năm ở ta rộ lên nhiều chuyện tiếu lâm chính trị (hệ quả hiển nhiên của thời kỳ trì trệ trước khi cả nước bước vào vận hội Đổi mới). Thứ hai, đó cũng là năm tôi gặp “hoạ”, có tới mấy tháng phải nằm bẹp tại Bệnh viện Trưng Vương và Viện Điều dưỡng (Tp. Hồ Chí Minh). Thế nhưng, trong “hoạ” lại có... “phúc”. Đúng mấy tháng dài nằm viện ấy, tôi được dịp làm quen với nhiều cán bộ mọi miền. Và điều đáng nói là chính họ đã kể cho tôi cùng đám bạn chung cảnh ngộ nghe đủ thứ chuyện tiếu lâm, mà đa phần là tiếu lâm chính trị. Giữa lúc ngay cả bệnh nhân cán bộ cũng phải chia sẻ tình trạng thiếu thuốc, thiếu ăn với bà con dân thường thì những mẩu chuyện tiếu lâm cùng những câu vè mà bọn tôi rỉ rả kể cho nhau nghe quả là liều thuốc và món ăn tinh thần vô giá.

Gần ba chục năm trôi qua, vậy mà tôi vẫn nhớ như in người kể chuyện tiếu lâm nhiều nhất, hóm hỉnh nhất (và cũng là người tôi thân thiết nhất) ở Khoa Nội cán bộ [1] hồi ấy là bác Lương Nhân, hoạ sĩ đa tài của Đoàn Cải lương Nam bộ. Chiều chiều, khi cơm nước xong xuôi, tôi cùng số bệnh nhân túc tắc đi lại được thường mời bác Lương Nhân ra vườn hoa để nghe bác kể chuyện. Bác kể chuyện cười nhưng chính bác lại không hề nhếch mép cười, có chăng chỉ “diễn” thêm bằng cặp mắt ranh mãnh và cái miệng móm xọm. Cách kể “tỉnh khô” ấy càng khiến bọn tôi cảm thấy tức cười hơn. Bởi vậy nên mới có chuyện một bệnh nhân, tên Ẩn, không ít lần phải chắp tay lạy bác Lương Nhân khi vừa thấy bác lò dò đến bên giường mình: “Con van bác! Bác mà kể tiếu lâm lúc này là con phải kêu cấp cứu đó!”. Anh Ẩn không nói giỡn. Những người mắc bệnh hen suyễn như anh, tôi và cả bác Lương Nhân nữa, hễ cười nhiều là lập tức lên cơn khó thở. Mà bác Lương Nhân đã kể thì đố ai nín được cười…

Chính bác Lương Nhân là người bảo tôi nên ghi lại chuyện tiếu lâm. Bác rủ rỉ: “Chú em là nhà báo, chú nên ghi lại mọi chuyện tiếu lâm truyền miệng để lớp con cháu đời sau biết rõ ông cha chúng đã sống và cười trong gian khó như thế nào. Chú em cứ mạnh dạn ghi đi, nghe gì ghi nấy thôi mà…” Tôi gãi tai, vờ thoái thác: “Nhiều chuyện đụng chạm ghê gớm, con hãi lắm bác ơi! Chỉ nghe thôi đã hãi rồi, bây giờ lại ghi ra giấy trắng mực đen, tang chứng - vật chứng rành rành, con ủ tờ là cái chắc!”. Bác Lương Nhân cũng vờ quắc mắt, nạt: “Sao hèn vậy mầy! Nếu người xưa ai cũng sợ ở tù như mầy, thời nay đâu còn được đọc Sử ký Tư Mã Thiên, Truyện Trạng Quỳnh, Thơ Hồ Xuân Hương…? Nội chuyện ông Trạng Quỳnh nhà ta cùng nhiều vị sĩ phu khác dám lỡm và chửi thẳng đám vua quan đồi bại, bây giờ đọc lại vẫn thấy ‘đã’ và vẫn thấy... thời sự! Mầy ghi đi. Qua [2] sẽ vắt óc nhớ lại mọi chuyện, rồi kể lai rai cho mầy ghi. Ghi sao cho hay là việc của mầy”. Nghe bùi tai nhưng, thú thật, tôi vẫn... hãi. Như đọc được ý nghĩ của gã nhà báo gầy quắt, bác Lương Nhân chậm rãi nói tiếp: “Qua chỉ bảo mầy ghi thôi mà. Đăng báo hoặc ra sách tiếu lâm chính trị lúc này thì quả là nằm mơ giữa ban ngày! Thế nhưng vài chục năm nữa, biết đâu…”

Tôi “chịu đèn” và từ hôm ấy, bắt đầu hí húi ghi ghi chép chép những chuyện tiếu lâm mà bác Lương Nhân và vài bệnh nhân khác đã kể “lai rai”. Chỉ sau một thời gian ngắn, cuốn sổ tay đóng bằng giấy in báo vàng khè đã dày đặc những con chữ nhỏ xíu. Ở ngay trang đầu, tôi nắn nót ba hàng chữ:

Tiếu lâm chính trị
Tài liệu tham khảo
(Mật – Không phổ biến)

Chưa thật yên tâm, tôi còn viết thêm lời “rào trước” với ngôn từ quen thuộc của cán bộ tuyên huấn thời ấy:

“Gần đây, nghe nhiều chuyện ‘tiếu lâm chính trị’, cảm thấy đau lòng. Ai là tác giả thứ chuyện độc hại này? Trước hết, đó là những phần tử bất mãn trong hàng ngũ cán bộ ta, đặc biệt là đám tự xưng ‘sĩ phu Bắc Hà’ (hầu hết chuyện tiếu lâm chính trị và vè đều có xuất xứ Hà Nội). Kế đến, là bọn tâm lý chiến đế quốc và bành trướng. Tôi đã phát hiện một số chuyện được ‘chế’ từ mấy tập truyện cười xuất bản ở Sài Gòn trước ngày giải phóng hoặc ‘cóp’ chuyện tiếu lâm nước ngoài (xem phần Phụ lục).

Nghe nói Ban Tuyên huấn Trung ương đang cho người sưu tầm tiếu lâm chính trị để nghiên cứu. Từng là cán bộ tuyên huấn, tôi thấy mình cần tham gia cuộc sưu tầm bổ ích ấy. Việc này lại càng thuận lợi hơn khi bệnh tật đang buộc tôi phải tạm ngưng công tác chuyên môn…

Bệnh viện Trưng Vương, tháng 4-1980”

Giờ đây, một ngày đầu tháng 3-2007, tôi lại cầm trên tay cuốn sổ đã ố vàng nhưng vẫn còn rõ ràng mọi chữ ghi trong đó. Phải nói ngay rằng suốt 27 năm qua, tôi mới chỉ cho đúng ba người đọc cuốn Tiếu lâm chính trị này. Một trong ba người ấy, bà bạn học N.P.M., cán bộ tuyên huấn cấp cao, đã giúp tôi chuyển bản chép tay gần hai chục chuyện tiếu lâm tiêu biểu (và gai góc nhất) cho mấy vị cần nghiên cứu. Như vậy, tôi đã giữ đúng lời hứa nêu trong lời “rào trước” kể trên. Chỉ tiếc rằng trong số ba người tôi tận tay đưa đọc cuốn Tiếu lâm chính trị, lại không có bác Lương Nhân, vì bác đã qua đời ngay tại Bệnh viện Trưng Vương trước khi tôi kịp hoàn tất cuốn sách. Dẫu thế, cho đến tận nay, tôi vẫn nhớ câu bác nói khi ấy: “Đăng báo hoặc ra sách tiếu lâm chính trị lúc này thì quả là nằm mơ giữa ban ngày. Thế nhưng vài chục năm nữa, biết đâu…”

Thưa bác Lương Nhân, bây giờ cái “vài chục năm nữa” ấy đã qua rồi. Và không còn là chuyện “nằm mơ giữa ban ngày” nữa khi mới đây thôi, bốn vị hào kiệt Nhân văn-Giai phẩm là Hoàng Cầm, Trần Dần, Phùng Quán và Lê Đạt đã được tặng Giải thưởng Nhà nước… Cũng không phải là chuyện “nằm mơ giữa ban ngày” nữa khi từ tháng 6.2006, ngay tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ở giữa thủ đô, đã có cuộc triển lãm hi hữu mà đến tận nay vẫn còn mở cửa: “Hà Nội thời bao cấp, 1976-1986”. Nhiều hiện vật sống động và… nhếch nhác của cả một thời khốc liệt đã được trưng bày, đi ngược lại với quan niệm của người xưa và không ít người nay: “Tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”. Dám “phô ra” giữa thanh thiên bạch nhật cái “xấu xa” của một thời chưa xa, các vị làm bảo tàng ấy hẳn là có “tư duy mới” và có dũng khí... “mó dái ngựa”. Có lẽ họ thầm hiểu rằng việc phô ra cái “xấu xa” trong quá khứ cũng chính là cách tô đậm thêm cái “tốt đẹp” của thời hiện tại, cho dù cái tốt đẹp này đang cần nhiều chăm bẵm... Thế nhưng đông đảo người xem, đặc biệt là lớp người xem đứng tuổi như tôi, vẫn cảm thấy ở triển lãm ấy còn thiêu thiếu một cái gì đó. Và theo tôi, cái “thiêu thiếu” ấy chính là vô số chuyện tiếu lâm chính trị gai góc, vô số câu vè chua cay từng “nở rộ” suốt cả thời bao cấp, cái thời mà đời sống hầu hết dân chúng được một “vè sĩ” khái quát thật tài tình: Ăn như nhà tu, ở như nhà tù, nói như lãnh tụ. Tiếu lâm chính trị và vè cũng chính là thứ “hiện vật” cần được “phô ra” tại triển lãm ấy. Vâng, nếu tôi là người đứng ra tổ chức triển lãm, tôi sẽ không ngần ngại dành hẳn một gian để bù đắp cái “thiêu thiếu” mà người xem đã tinh tế cảm nhận. Có thể, tại gian triển lãm đó, tôi sẽ mời một số danh hài “diễn” lại một số chuyện tiếu lâm đặc sắc, như các nghệ sĩ Tiệp Khắc, Hungari từng làm hồi cuối năm 1989 mà tôi đã được chứng kiến tận mắt, và cũng như các nghệ sĩ Việt Nam ta từng diễn trong tiết mục “Thư giãn” của VTV3 mỗi chiều chủ nhật… Có thể, tôi sẽ tặng người xem những trang giấy A4 in sẵn dăm chuyện tiếu lâm và vài câu vè nổi tiếng… Có thể, với người xem sẵn tiền, tôi sẽ mời họ mua mấy cái CD ghi lại một số chuyện tiếu lâm và câu vè chọn lọc… Có thể, ngay tại gian triển lãm, tôi sẽ cho phát qua hệ thống loa (âm thanh nổi) nội dung các CD ấy để mọi người cùng nghe, cùng cười... Có thể… Có thể... Có thể... Chẳng biết đó có phải lại là “nằm mơ giữa ban ngày” hay không, nhưng rõ ràng tôi đang chuẩn bị cho giấc mơ ấy trở thành hiện thực bằng việc “phô ra” cuốn Tiếu lâm chính trị (Việt Nam, năm 1980).

Trong cuốn sách mỏng này, ngoài phần chính là 58 chuyện tiếu lâm chính trị được chọn lọc và chú thích kỹ lưỡng, còn có thêm phần Phụ lục (22 chuyện) gồm “Vè ‘tiêu cực’ và dăm chuyện đặt vè”, “Vài chuyện tiếu lâm Sài Gòn trước năm 1975” và “Vài chuyện tiếu lâm chính trị Trung Quốc, Liên Xô, Đức”.

Điều cần lưu ý là phần lớn chuyện tiếu lâm chính trị mà tôi ghi được trong năm 1980 (năm có nhiều lễ kỷ niệm lớn và nhiều sự kiện quan trọng) đều mang tính thời sự rất cao. Chẳng hạn, khi vừa hay tin Phạm Tuân “quá giang lên vũ trụ” [3] , lập tức các “sĩ phu dân gian” cho ra lò loạt tiếu lâm và vè “ăn theo”. Tuy nhiên, cũng có một số chuyện và vè “phát sinh” từ trước năm 1980 (tỷ như chuyện “Toà nhà không hố xí”), nhưng tới năm 1980 bà con ta vẫn hay kể lại và tôi vẫn cứ ghi. Tôi còn ghi thêm đôi ba chuyện nghe được trong năm 1981...

Tôi cũng xin thưa rằng ngoại trừ một số chuyện tiếu lâm “chế” hoặc “cóp” như tôi từng phát hiện và đưa vào phần Phụ lục, hầu hết số còn lại đều thấm đẫm chất thâm thuý - đặc trưng của dòng văn học dân gian truyền miệng có “sức chảy” ghê gớm, băng qua mọi “ghềnh thác” cường quyền. Đương nhiên, số chuyện tiếu lâm chính trị và vè tôi đã “nghe và ghi” vỏn vẹn trong năm 1980 mới chỉ chụp “cắt lớp” được một “tầng mỏng” của dòng văn học tuy dân dã song cũng rất mực uyên thâm ấy...

Kể chuyện tiếu lâm tài tình như bác Lương Nhân đã khó, ghi lại cho hay lời kể “tỉnh khô” đó cũng khó chẳng kém. Dù tôi đã hết sức cố gắng nhưng nếu có chuyện nào ghi chưa thật “đã” thì kính mong quý vị “sĩ phu dân gian” ngày xưa cùng quý vị bạn đọc ngày nay rộng lòng châm chước.

Chuyện tiếu lâm thường có dị bản, mỗi người nghe lại hay “thêm mắm thêm muối” khi kể lại cho người khác, thế nên tình trạng “tam sao thất bản” khó tránh khỏi. Có khi một chuyện, tôi lại được nghe mấy người kể, mỗi người lại kể một khác, nên tôi phải chọn những tình tiết “đắt” nhất để ghi lại... Trong nhiều chuyện, cái thực và cái hư đan xen lẫn lộn, song tôi vẫn ghi cả hai để bạn đọc “rộng đường dư luận”. Quả là tôi vẫn chưa quên lời bác Lương Nhân: “... nghe gì ghi nấy thôi mà...” Viết đến đây, tôi lại sực nhớ đến câu chuyện bi hài liên quan đến một bậc trưởng lão trong làng văn Việt Nam - cụ Nguyễn Công Hoan. Số là tác giả Bước đường cùng đã bị “cạo” khi vừa đăng trên báo Văn nghệ mấy bài đầu rút từ cuốn hồi ký chưa công bố, với tựa đề: Nhớ gì ghi nấy. Vậy mà chính cái tựa đề hiền khô ấy lại bị hạch tội ngay giữa thời “chống xét lại”. Một vị lãnh đạo tuyên huấn đã đăng đàn phê phán, đại ý: “Phải viết có lập trường giai cấp, theo đúng đường lối của Đảng, chứ không thể viết theo kiểu ‘nhớ gì ghi nấy’ sặc mùi khách quan tư sản...” Dẫu vậy, Trần Khốt này vẫn bảo vệ “lập trường” nghe gì ghi nấy khi “phô ra” cuốn Tiếu lâm chính trị (Việt Nam, năm 1980) này...

Lời “rào” đầu đã khá dài, song tôi vẫn thấy mình cần “rào” thêm đoạn cuối:

Vì muốn ghi lại trung thực những chuyện tiếu lâm lưu truyền rộng rãi trong dân gian thời bao cấp, tôi đã giữ nguyên tên hoặc bí danh một số vị lãnh đạo thời đó, đồng thời không né tránh tên Đảng (viết hoa), cho dù việc liều lĩnh ghi trên giấy trắng mực đen như vậy có thể bị khép vào tội “phạm huý” và “phạm thượng”. Nhưng biết làm sao được khi dân gian đã lưu truyền như thế và ở nhiều nước người ta cũng “phạm huý”, “phạm thượng” như thế? Nhân đây, tôi cũng xin thưa thêm chuyện này: Một lãnh tụ nổi tiếng nước ngoài, ông L.I. Brezhnev, cố Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, từng “được” giới “sĩ phu dân gian” Liên Xô và Đông Âu đặt khá nhiều chuyện tiếu lâm chua cay (xem phần Phụ lục). Nhưng điều thật lạ là con người thường bị báo chí phương Tây gọi là “độc tài khét tiếng” ấy lại chưa hề tống đi Sibiri bất kỳ người sáng tác tiếu lâm chính trị nào! Trái lại, những người đặt chuyện hay còn được ông... tặng quà. Chẳng những thế, ông còn đích thân kể chuyện tiếu lâm chế giễu chính mình cho các vị lãnh đạo nước ngoài cùng nghe và cùng cười. Chuyện hi hữu này đã được đăng trên tờ báo của Bộ Công an có rất nhiều người đọc: An ninh Thế giới, ngày 18.12.2006. Dù không dám “nằm mơ giữa ban ngày” nhưng tôi vẫn mong sao các bạn làm công tác an ninh tư tưởng ở ta hôm nay cũng cần tham khảo (và học tập, nên lắm chứ?) cách ứng xử của vị lãnh tụ Xô-viết ngày xưa. Cả thời xưa lẫn thời nay, cả ở trong nước lẫn ngoài nước, việc đặt và kể chuyện tiếu lâm hoặc vè chẳng qua chỉ là cách “xả stress” khá... hiền lành. “Xả” đỡ nguy hơn “nổ” nhiều lắm...

Sài Gòn - Tp. Hồ Chí Minh, đầu Xuân 2007

Trần Khốt



*


1. Mách nước Diêm Vương

Ba cán bộ Việt Nam cỡ lớn nọ khi chết liền bị Diêm Vương sai quỷ sứ điệu đến hỏi tội. Cả ba đều phạm quá nhiều tội với dân, với nước nên Diêm Chúa quyết định trừng trị bằng hình phạt nặng nhất ở chốn âm ty: ném xuống vạc dầu.

Hôm thi hành bản án, quỷ sứ ném cán bộ thứ nhất xuống vạc dầu sôi sùng sục. Nhưng lạ thay, kẻ tử tội vẫn sống nhăn. Ông ta được lôi lên và cán bộ thứ hai bị ném xuống. Kết quả vẫn như vậy: vạc dầu của Diêm Vương bất lực. Đến cán bộ thứ ba cũng thế!

Diêm Vương nổi cơn lôi đình.

Một cận thần của Diêm Vương, vốn từng sống và làm việc lâu năm ở Việt Nam, bèn ghé tai Diêm Vương, tâu nhỏ: “Xin cứ ném cả ba xuống cùng một lúc”.

Diêm Vương y lời.

Kết quả, khi vừa xuống vạc dầu, ba cán bộ Việt Nam nọ đã… cắn nhau chết tươi.


2. Nhất thế giới

Để dư luận thế giới chú ý đến nạn đói đang hoành hành ở nhiều nước thuộc thế giới thứ ba [4] , Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp (FAO) của Liên Hiệp Quốc quyết định mở cuộc thi vẽ lớn với đề tài: cảnh đói khát khủng khiếp nhất.

Nhiều hoạ sĩ nổi tiếng thuộc các nước nghèo sôi nổi tham gia cuộc thi. Họ cố mô tả thật sắc nét tình trạng đói khát cùng cực ở đất nước mình, đặng tranh thủ sự trợ giúp của các nước giàu. Tuy nhiên, lọt vào vòng chung kết chỉ có tranh của hoạ sĩ ba nước : Ấn Độ, Campuchia và Việt Nam. Ba bức tranh này được đưa ra xét kỹ tại một hội đồng giám khảo quy tụ nhiều hoạ sĩ bậc thầy.

Tranh Ấn Độ được xét đầu tiên. Mọi người trầm trồ tán thưởng bức tranh vẽ hai người Ấn gầy giơ xương đang tranh nhau một miếng thịt bò. Chủ tịch Hội đồng Giám khảo nhận xét: “Người Ấn tôn thờ bò. Vậy mà giờ đây, họ chẳng những mổ bò làm thịt, mà còn tranh nhau từng miếng thịt nhỏ. Qua đó đủ biết ở Ấn Độ, tình trạng đói khát ghê gớm đến mực nào!” Bức tranh được toàn thể Hội đồng Giám khảo nhất trí tặng giải ba.

Đến lượt bức tranh Campuchia đưa ra, mọi người rùng mình khi thấy một người Khmer, nom hệt bộ xương, đang ngồi trên đống xương khô (nạn nhân thời Pol Pot), hai tay cầm đầu ống xương cho vào mồm, má hóp lại để cố mút chút tuỷ may ra còn sót lại. Sau một hồi bàn cãi, các vị giám khảo biểu quyết bức tranh thê thảm ấy được giải hai.

Còn bức tranh của Việt Nam ta? Cả phòng ồ lên sửng sốt khi người ta giới thiệu bức tranh. Và không hề bàn cãi một lời, toàn thể Hội đồng Giám khảo nhất trí tặng nó giải nhất. Có ý kiến còn cho rằng nó xứng đáng được trao giải đặc biệt...

Bức tranh Việt Nam ta hết sức giản dị: cái lỗ đít bị mạng nhện chăng đầy.


3. Nhất trí 100 %

Một hôm, sau ngày làm việc cực nhọc ngoài đồng, Trâu ta vừa nằm nhai cỏ, vừa ngẫm nghĩ sự đời. Trâu thấy mình làm lụng chăm chỉ quanh năm suốt tháng, lại không hề kêu ca, đòi hỏi lấy nửa lời, rất xứng đáng với danh hiệu “Lao động tiên tiến”. Nghe nói Đảng đang cần kết nạp những người “Lao động tiên tiến” để tăng cường đội ngũ công nông, Trâu ta bèn quyết định nộp đơn xin vào Đảng.

Đơn của Trâu liền được đưa ra Chi bộ xem xét. Chi bộ nhận thấy đồng chí Trâu tuy làm việc rất đáng được trao danh hiệu “Lao động tiên tiến”, nhưng lại kém thông minh, nên đơn bị bác.

Ngựa thấy Trâu làm đơn xin vào Đảng, liền bắt chước. Trong đơn, Ngựa viết: “So với đồng chí Trâu, tôi chẳng những lao động không thua kém, mà lại thông minh hơn nhiều. Ngoài ra, tôi còn có thể làm vật cưỡi cho các đồng chí lãnh đạo cấp cao dạo chơi...”

Chi bộ cũng xem xét ngay đơn xin vào Đảng của Ngựa. Mấy ưu điểm mà đồng chí Ngựa nêu trong đơn đều được Chi bộ ghi nhận. Nhưng cuối cùng, đơn của Ngựa cũng bị bác với lý do chắc nịch: đồng chí Ngựa có cú đá hậu rất độc, ảnh hưởng nặng nề đến đoàn kết nội bộ.

Thấy đơn của Trâu và Ngựa đều bị Chi bộ bác, Rệp và Muỗi liền làm đơn xin vào Đảng. Đơn của hai đồng chí chuyên hút máu này viết hệt như nhau: “Tôi tuy chẳng phải là Lao động tiên tiến như đồng chí Trâu và đồng chí Ngựa, nhưng bù lại, tôi có cái cơ bản mà hai đồng chí đó không thể có: trong huyết quản của tôi từ bao đời nay đều có dòng máu công nông. Tôi cảm thấy mình hoàn toàn xứng đáng được đứng trong hàng ngũ Đảng của giai cấp công nông...”

Đơn của đồng chí Rệp và đồng chí Muỗi được Chi bộ chấp nhận với sự nhất trí 100%.


4. Toà nhà không hố xí

Tại Hà Nội, một toà nhà bốn tầng mới xây thu hút nhiều người đến tham quan, vì nó được thiết kế khá đẹp. Chỉ có điều rất lạ là suốt cả bốn tầng đều không hề có một hố xí nào. Mọi người xúm lại hỏi ông kiến trúc sư và được ông giải thích như sau:

“Tầng một [5] dành cho nhà trẻ, các cháu đi ị vào bô. Tầng hai dành cho cán bộ cấp thấp, mọi người đi ị ở cơ quan. Tầng ba dành cho cánh văn nghệ sĩ thì ị được bãi nào, họ nhét vào mồm nhau bãi ấy. Còn tầng bốn dành cán bộ cấp cao, mấy vị ấy chỉ quen ị lên đầu thiên hạ. Bởi thế, chúng tôi xây hố xí làm gì cho nó lãng phí?”


5. Ăn qua loa

Trong một lần “xuống cơ sở”, Bộ trưởng Bộ Lương thực-Thực phẩm Hồ Viết Thắng ghé thăm gia đình bác nông dân nọ. Để bày tỏ sự quan tâm của thượng cấp, ông Bộ trưởng ân cần hỏi chủ nhà:

“Bà con ta ở đây lâu nay ăn uống ra sao?”

“Dạ, chúng tôi chỉ ăn uống qua loa thôi ạ.”

“Đề nghị bác cho tôi biết cụ thể ăn qua loa là ăn những món gì để tôi còn về báo cáo lên Trung ương về thành tích cải thiện đời sống nông dân. Bữa ăn của bà con ta có đủ no không? Hằng ngày có thịt, có cá chứ?”

“Thưa Bộ trưởng, tôi đã nói cụ thể lắm rồi mà! Nhiều năm nay, bà con chúng tôi chỉ ăn qua loa thôi...”

Nói đến đây, bác nông dân liền chỉ tay lên... chiếc loa phát thanh công cộng đang đọc oang oang một bài của báo Nhân dân thống kê vô số thành tích vượt bậc về sản xuất lương thực - thực phẩm, cải thiện đời sống nhân dân, v.v...


6. Hàng xuất khẩu đặc biệt

Ông Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã miền núi nọ nhận được công văn “hoả tốc” từ trên tỉnh gửi xuống. Ác một nỗi là công văn lại đánh bằng máy chữ không dấu nên ông bóp óc mãi, cũng chẳng đoán ra. Công văn có đoạn viết:

Thu mua gap 1.000 can long lon rung de xuat khau. Bay ngay nua co xe xuong nhan.

Ba chữ “long lon rung” làm Chủ tịch xã nhà ta đau đầu nhất. Những chữ khác thì ông đoán đại khái rằng trên tỉnh cần thu mua gấp 1.000 cân gì gì đó để xuất khẩu và bảy ngày nữa sẽ có xe xuống nhận. Nhưng thứ hàng cần thu mua gấp là cái gì đây?

Nghĩ cả ngày không ra, đêm ông lại nằm vắt tay lên trán nghĩ tiếp. Ông cứ trằn trọc, khiến cô vợ trẻ nằm bên cũng không ngủ được. Cáu quá, không thèm nghĩ nữa, ông quay ra... nghịch cái thân hình chắc lẳn của cô vợ. Bàn tay ngứa ngáy của ông bắt đầu lục lạo hết bên trên lại bên dưới. Vừa lục lạo tới chỗ đầy “lau lách”, ông Chủ tịch bỗng vỗ đùi vợ đánh “bách”, rồi reo lên như nhà bác học Archimedes thời xưa: “Ồ, có thế mà cũng chẳng nghĩ ra!” Để cô vợ khỏi hỏi han lôi thôi chuyện quốc gia đại sự, ông tiếp tục cùng nàng tận hưởng một trong “tứ khoái” trời cho, rồi sau đó cùng lăn ra... ngáy.

Mờ sáng hôm sau, chỉ kịp rít vài hơi thuốc cho tỉnh ngủ, Chủ tịch xã đã hớt hải chạy qua nhà Chủ tịch Hội Phụ nữ ở bên kia đồi và chìa cho bà ta xem cái công văn “hoả tốc” oái oăm nọ. Ông vừa cười ha hả, vừa cắt nghĩa từng chữ cho bà nghe. Bà Chủ tịch Hội mới ngoài bốn mươi, mặt đỏ rần, nhìn bức công văn nửa tin nửa ngờ. Đoán được ý bà, Chủ tịch xã nghiêm giọng nói:

“Chữ ký của đồng chí Chủ tịch tỉnh đây. Con dấu của Ủy ban Nhân dân tỉnh đây. Bà không nhận ra hả? Công tác này đúng là của mấy bà, chẳng chạy vào đâu được!”

“Nhưng đào đâu ra cả tấn của nợ ấy đây?” - Chủ tịch Hội dấm dẳn hỏi. “Cả xã này chỉ có non ngàn phụ nữ. Mà nhà ông thừa biết cái giống ấy đâu có nhiều nhặn gì...”

Chủ tịch xã cười ngặt nghẽo:

“Mặc xác các bà! Tôi chỉ biết cứ chiểu theo công văn mà làm. Bảy ngày nữa mà mấy bà không gom đủ thì cứ liệu thần hồn. Bà không thấy ba chữ để xuất khẩu đó sao? Báo Nhân dân hôm nọ đăng xã luận hô hào toàn dân thi đua sản xuất nhiều mặt hàng xuất khẩu để thu ngoại tệ, đặng làm giàu cho đất nước. Cái thứ mà mấy bà phải gom đích thị là mặt hàng xuất khẩu đặc biệt của nước nhà đấy...”

“Nhưng mà xuất khẩu cái gì quý giá, chứ ai lại xuất khẩu cái giống khỉ gió ấy?” Mặt bà Chủ tịch Hội lại đỏ như gấc.

“Này, nhà bà không biết thì đừng có ngứa mồm bàn vào chuyện quốc gia đại sự nhá! Tôi nghe người ta bảo chính cái giống ‘khỉ gió’ ấy của mấy bà lại là thứ thuốc cầm máu hiệu nghiệm như thần đấy! Ông Nhà nước thu mua thứ hàng này là chúa khôn. Chẳng mất công cấy trồng gì cả, cũng chẳng mất vốn liếng gì cả, vậy mà,... ha... ha..., thu được ối ngoại tệ. Thôi, bà liệu mà đi vận động chị em. Công tác đặc biệt chứ chẳng phải bỡn đâu! Bà nào gom được nhiều, xã sẽ tặng giấy khen. Ai chống đối, sẽ bị trừng phạt...”

Bảy ngày sau. Một chiếc xe tải đỗ xịch trước trụ sở Ủy ban Nhân dân xã. Ông Chủ tịch, mặt tái mét, chạy ra đón anh cán bộ thu mua của tỉnh.

Thôi chết rồi. Trên tỉnh phái hẳn một xe tải xuống để nhận hàng, vậy mà suốt cả tuần qua, các bà các cô trong Hội Phụ nữ chạy long tóc gáy cũng chỉ mới thu được có... vài lạng. Biết ăn nói làm sao với thượng cấp đây? Chủ tịch xã xun xoe mời cán bộ tỉnh uống trà, hút thuốc, mặt ông ta méo xệch...

Ngồi chưa nóng đít, anh cán bộ đã giục toáy:

“Đồng chí cho người chất hàng lên xe để chúng tôi ngược sớm.”

Chủ tịch xã đờ cả người, gãi đầu gãi tai, miệng lắp bắp:

“Báo cáo đồng... đồng... chí, thứ hàng trên... tỉnh... ra lệnh... thu... thu... mua... gay cho chúng... chúng... tôi quá! Chúng tôi vận... vận... động toàn thể... chị... chị... em trong toàn xã... mà chỉ thu... được... có... có... ngần... này...”

Anh cán bộ tỉnh há hốc mồm khi thấy ông Chủ tịch xã rụt rè lôi từ ngăn kéo bàn làm việc một... gói giấy báo. Mở gói giấy ra, cán bộ nọ vội vàng lấy tay bịt mũi.

Chủ tịch xã cười như mếu và lắp bắp tiếp:

“Đồng... đồng chí thông... cảm cho chị... chị... em. Thật là... khổ, nhiều... chị... em không chờ được... tới... lúc... rụng..., phải lấy... kéo... kéo... cắt... Vậy mà...”

Anh cán bộ thu mua vẫn chẳng hiểu ất giáp gì. Sao Chủ tịch xã lại toàn nói đến chị em, đến cái gì đó rụng, đến kéo cắt? Thứ hàng cần thu mua để xuất khẩu đâu có dính dáng nhiều đến chị em như vậy?

Cảm thấy có chuyện lạ gì đây, anh ta đòi xem lại cái công văn “hoả tốc” mà trên tỉnh vừa gửi xuống tuần trước. Chủ tịch xã vội vàng mở xà cột, lôi ra tờ công văn nhàu nát, nhưng vẫn còn nom rõ ba chữ “long lon rung” được gạch đậm bên dưới bằng bút đỏ.

Cán bộ tỉnh xem kỹ tờ công văn, rồi hỏi Chủ tịch xã:

“Vậy đồng chí hiểu ba chữ mà đồng chí gạch dưới này là thứ hàng gì?”

Giương mục kỉnh, ông Chủ tịch xã bốc một nhúm “hàng xuất khẩu đặc biệt” lên nhòm, rồi hỏi lại:

“Thế cái hàng ấy chẳng phải là... là... lông... của... chị em... rụng... thì là... cái gì?”

Anh cán bộ thu mua trợn trừng mắt:

“Bố giết con rồi, bố ơi là bố! Cái thứ hàng mà con cần thu mua gấp là lông lợn rừng. Lông lợn rừng! 1.000 cân! Để xuất khẩu! Bố hiểu chưa?”

Chủ tịch xã không kịp nghe hết câu, đã lăn ra... chết giấc.

© 2007 talawas



[1]Khoa nội dành cho cán bộ sơ-trung cấp (Các chú thích đều của Trần Khốt)
[2]Cách xưng hô thân mật của người Nam bộ cao tuổi, có thể hiểu là “bác”, “chú”, “tao”...
[3]Thơ Bến Nghé, báo Sài Gòn Giải phóng
[4]Thế giới thứ ba là thế giới các nước nghèo, hai thế giới còn lại là thế giới các nước xã hội chủ nghĩa và thế giới các nước tư bản chủ nghĩa.
[5]Tức tầng trệt, như người Nam thường gọi. Các tầng kế tiếp là lầu một, lầu hai, lầu ba...