Thuấn dặn tên lính thân tín:
“Tao đi chơi loanh quanh đây, có gì mày chạy đi gọi”.
“Dạ”. Binh nhất Thiên nhỏ nhẹ trả lời.
Ra khỏi chỗ đóng quân, bước lên mặt đường, đường số 1 đêm ba mươi Tết vắng lặng như một thỏi đá màu đen đắm chìm trong sóng trắng đục.
“9 giờ, còn ba tiếng nữa giao thừa”, Thuấn cho tay vào trong túi áo, bước theo bề ngang của con đường…
Một hai ba, hai mươi bốn bước, xương sống mẹ Việt Nam rộng hai mươi bốn bước, đi ra phía này là tới Hà Nội, đi vô phía này tới Sài Gòn. Thuấn xoay mặt về hướng Nam, xung quanh sương trắng lớp lớp. Những ánh đèn le lói hai bên đường trông ốm yếu như sắp tắt.
Mình đâu có nghĩ cảnh giao thừa đứng trên quốc lộ như thế này… Buồn thật… Làm cái gì bây giờ… Điên à? Ông nói với ai hở ông? Thuấn ép tay vào người cúi đầu đi về phía Nam.
“Ai đó? Đứng lại”.
“Lính Nhảy dù đi du xuân”.
“Đi mô tối rứa?”
“Giao thừa đi chơi”. Trong bóng tối xám đặc lập lòe ánh lửa, Thuấn biết mình đã gần tới cầu, sương dày quá không thấy được thành cầu, dòng sông ở dưới xa chìm hẳn trong khói sương lạnh giá. Thuấn bước tới, đốt điếu thuốc.
“Có dây kẽm gai không?”
“Có, ép về phía trái… Coi chừng, thôi để tui mở cho mà đi”.
Thuấn đứng lại, lạnh quá, gió dưới sông thổi lên mang theo hơi nước ẩm ướt, sợi dây kẽm chắn ngang lối đi, ánh đèn bấm di dần về phía Thuấn. “A, Đại úy đi mô mà khuya khoắt ri? Mới chín giờ đã đi du xuân…” Thuấn tự nhiên thấy lòng vui vẻ. Người lính gặp hồi sáng không giấu vẻ mừng rỡ trong khi luống cuống mở dây kẽm gai.
“Đại úy thiệt là lạ, trời lạnh như cắt mà lại đi chơi, mà chơi chi ở đây… Tôi đứng chờ giờ đổi gác để chui vào mền làm một giấc đã… Bây giờ Đại úy định đi đâu?”
“Chẳng biết… Đi mỗi vòng rồi về, lạnh quá hả?” Thuấn chìa cho người lính điếu thuốc. “Trời lạnh hút thuốc ngon thiệt”, người lính xuýt xoa. Thuấn nhớ điếu thuốc đầu đời, một góc rừng Đà Lạt lạnh buốt, trời tối đen Thuấn với tên bạn cùng phiên gác chia nhau điếu thuốc có mùi bạc hà. Khu rừng đen thẫm trống trải, điếu thuốc lòe lên thấy rõ đường chỉ tay hồng.
“Thuốc này là thuốc gì?”
“Oakland menthe, một bao hai chục đồng”.
“Mày hút một ngày mấy gói?”
“Hai, tao người Đà Lạt mà mày, ở đây không có thuốc chịu không nổi, tao hút Bastos nhưng mấy hôm nay ho nên xài tạm thứ này”.
“Bastos là thuốc lá đen”.
“Ừ”, tên bạn trầm giọng nghiêm trọng.
Thuấn cảm thấy thua sút, hít một hơi thật mạnh, khói bay đầy mồm muốn sặc…
“Thuốc này nhẹ quá”, Thuấn phê bình ra vẻ thành thạo.
“Nhẹ đối với tao, nhưng mày mới tập hút nên hút nó”.
Thuấn muốn cãi lại, thấy khó khăn, trong bóng đêm Thuấn có cảm giác như thằng bạn đang đưa mắt nhìn bàn tay vụng về của mình cầm điếu thuốc. Ngày hôm sau Thuấn bắt đầu hút thuốc, thuốc Mélia vàng… Vậy là bảy năm rồi, mau thật, mình chỉ có nước giỏi bắt chước. Thuấn tì tay vào thành cầu, thanh sắt đẫm sương lạnh cóng. Mặt sông dưới xa lóng lánh theo ánh đèn dưới chân cầu tỏa ra một ánh sáng vàng rực xôn xao, người lính đi đến gần Thuấn, gót giày nhà binh gõ từng tiếng động lạnh buốt trên sàn cầu. Chiếc bóng lầm lì nín lặng.
“Ông gác đến mấy giờ?”
“Dạ mười một giờ”.
“Có buồn không?”
Người lính không trả lời, cười tiếng nhỏ, đốm lửa từ điếu thuốc và đèn ở thành cầu chiếu rõ một chiếc cằm lởm chởm râu…
“Hết gác về cạo râu ăn Tết nghe ông…”
“Dạ, mà tui không có dao cạo, già rồi làm đẹp chi nữa Đại úy?”
Già, Thuấn chợt hỏi, mình đã già chưa nhỉ? Thuấn miết cái cằm lên mu bàn tay, những sợi râu cứng, ngắn, chuyển động gây nên một cảm giác thú vị… “Ấy, nhột em!” Quỳnh Như ưỡn người lên vùng vẫy dưới nụ hôn trên phần ngực. Thuấn luồn tay dưới nách Quỳnh Như kéo hai vai nàng xuống, chiếc cằm miết nhẹ từ cổ theo luống thủng giữa đôi vú… Tiếng thở ngắt khoảng mê đắm, có giọng cười nhỏ dưới nụ hôn. Thuấn đứng thẳng người, nhìn mãi xuống dòng sông bốc khói tưởng như thấy rõ được chiếc bóng mình nở rộng theo cùng mênh mang của lớp sương mù. “Quỳnh Như”, Thuấn gọi một tiếng nhỏ, đột nhiên nỗi nhớ thương như quả đạn bùng nổ trong cơ thể… Tại sao mình rung động? Tại sao mình đứng ngồi phiền muộn, sao hơi thuốc hít vào miệng nặng nề hiu hắt, trong giá rét trống vắng của một đêm trừ tịch trên quốc lộ tối đen, Thuấn thấy nỗi thê lương có hình khối nặng nề hơn bóng đêm, lạnh lẽo hơn gió chạy xôn xao trên mặt sông, luồn qua khối sương mù xoay chuyển ánh đèn vàng giá lạnh.
“Anh có xe gì không?”
“Dạ, tui có cái xe gắn máy”.
“Lát nữa hết gác anh về đâu?”
“Nhà tui ở dưới trường học, tui về đó…”
“Anh cho tôi mượn cái xe, mười một giờ trả lại, nếu không kịp thì tôi mang đến nhà trả cho anh”.
“Đại úy định đi mô?”
“Đi dọc dọc theo đây… Tự nhiên tôi muốn chạy một vòng”.
“Dạ, Đại úy lấy, nếu chút nữa không có tui Đại úy đem xuống chỗ trường học, nhà tui bên trái”.
“Xong, cám ơn anh trước, lát nữa tôi đem trả xông đất nhà anh luôn, số tôi hên ghê lắm, anh sẽ lên hạ sĩ nhất trong năm nay”.
Người lính cười không nói đứng nhìn Thuấn đang nổ máy xe.
Thuấn rú hết gaz, chiếc xe lồng lên, xốc mạnh trên đoạn đường lồi lõm, ánh sáng không đủ rọi xa. Thuấn ghì chặt tay lái, không bớt tốc độ… Gió thổi lạnh hai bên tai, răng nghiến chặt… Thuấn thấy thấp thoáng dưới ánh đèn khối không khí mù mờ chuyển động, xoắn lượn… Trước mặt Thuấn rừng cây thông chập chờn, con đường đỏ ướt sương, những ngọn đồi cỏ chuyển động ào ạt. Chỉ mới năm năm qua. Đêm một giờ sáng từ tỉnh B Thuấn theo xe đò lên Sài Gòn, chiếc xe bật đèn chạy qua Dĩ An, Thủ Đức, Bình Lợi, Bình Hòa… Cô bác cho tiền, cô bác cho tiền… Thuấn xuống xe ở Đakao đi bộ về Tân Định, đồng hồ chỉ hai giờ mười lăm, thành phố Sài Gòn ngủ kỹ, lũ chó hoang chạy vật vờ trên những đống rác, thành phố mệt mỏi như giấc ngủ trưa của con điếm miệt mài. Nhưng Thuấn thì không vậy, Thuấn nhảy chân chim trên lề đường loang nước, Thuấn chạy hân hoan trên Sài Gòn tàn tạ úa bẩn, Thuấn chạy vào đường Trần Quang Khải, rẽ tay mặt, chạy nhanh hơn nữa… Đây rồi, căn nhà Bích Trân kín cửa im lặng. Thuấn nhìn lên, một, hai, ba… Cửa sổ thứ hai là phòng khách, sau phòng khách là phòng ngủ của Bích Trân, có thể nàng ngủ ở phòng khách, trên canapé hay dưới sàn nhà, cuốn truyện úp trên mặt… Bích Trân khi lặng lẽ đau đớn như tuổi già, Bích Trân khi nói em, kể chuyện, khi coi sách, ngây thơ mãi mãi như trẻ con… Thuấn đứng trong bóng tối nhìn lên khung cửa im lặng, nghe đâu từ căn phòng tiếng thở nhẹ nhàng của người thiếu nữ mê thiếp, Bích Trân chuyển mạnh cánh tay ép sát vào ngực, thế nằm co quắp tội nghiệp, thế nằm sửa soạn chống đỡ cơn phong ba. Một giờ, hai giờ, Sài Gòn tỉnh giấc, động cơ xích lô máy vang động từng nhịp rồi tản dần trong không khí ấm mát của đêm còn vướng vất, ngọn đèn vọng úa nhợt nhạt, bầu trời chuyển thành màu xanh thẫm. Cánh cửa cuối cùng chợt mở, người u già bước ra…
“Kìa cậu Thuấn, làm gì sớm thế?”
“U kêu cô Trân hộ tôi…”
“Cậu lên từ bao giờ?”
Thuấn mỉm cười không nói vò vò bao thuốc trong tay… Bích Trân chạy xuống, bước chân cuống quít nhảy vội, làn tóc rối, đôi mắt hốt hoảng…
“Có gì vậy Thuấn? Có gì xảy đến cho anh?”
“Không, anh nhớ em…”
“Anh đến lúc nào?”
“Lâu lắm. Cho anh hôn em, trời chưa sáng, không ai thấy”.
“Coi chừng u già”.
“U già đã vào nhà… Ôm anh…”
Cửa đóng, mái hiên rộng bóng tối đầy khoảng sâu. Thuấn khép chặt hai tay, đầu người thiếu nữ ép vào vai… “Anh đến từ lúc hai giờ, ngồi ở ngưỡng cửa này…”
“Anh kỳ quá!”
“Không, chỉ vì yêu em…”
Bao nhiêu lần như thế, bao nhiêu đêm trong cơn say, Thuấn sờ vào lớp tường đá lạnh tưởng như vuốt ve một bóng hình thân yêu. Năm năm, gã trẻ tuổi nồng nàn ngày xưa đã mất. Tối nay, Thuấn đang sống lại, chiếc xe chạy như một nỗi hân hoan tìm kiếm được hạnh phúc sau thời gian chết cứng. Quỳnh Như, giọng Huế thánh thót trong vắt, tiếng cá đớp mồi dưới bờ sen, cánh sen tàn trên mặt hồ đặc bèo, chiếc giường nệm nồng mùi thiếu nữ, Thuấn duỗi thẳng hai chân, hai ngón chân cái đan chặt vào trong cơn bão ngầm cảm giác thổi lướt qua. Quỳnh Như, giờ tỉnh giấc sau cơn mê phiền muộn. Anh đến cùng em… Thuấn qua một khúc quẹo, đèn lướt một đường vàng trên lũy tre vệ đường. Sắp đến cầu An Hòa, Thuấn nghĩ, tăng thêm một chút tốc độ để đi được lượng khoảng cách tối đa… Có bóng người chạy thấp thoáng trước mặt… Thuấn thắng thật mạnh, chiếc xe chao bên trái lạng thêm một đường bên phải, bánh xe xiết trên đường ngã nghiêng. Thuấn nhảy vào vệ đường, kéo khẩu súng nhanh ra khỏi thắt lưng, lăn xuống đất nằm lên đống lá tre, họng súng hướng về phía hai bóng người đang đứng trong vùng ánh sáng.
“Ai? Đứng lại, nhúc nhích tôi bắn”. Thuấn hét thật lớn, át hẳn tiếng gió và động cơ chiếc xe đang giòn giã nổ…
“Dạ, tui tui…”
“Tiến tới, đưa tay lên khỏi đầu”.
Hai bóng người tiến tới lần lần, Thuấn kéo cơ bẩm khẩu súng, tiếng động lạnh vang như tiếng nổ, hai người giật nẩy, co rút lại…
“Hai anh ở đâu?”
“Dạ tụi em gác cầu, Việt Cộng về, tụi em chạy thoát”.
“Việt Cộng?”
“Dạ tụi nó lấy cầu và đóng đầy trong làng Dốc Sơ, chắc ở Huế cũng có tụi nó… Em còn nghe súng nổ thiệt loạn ở chỗ cửa Chánh Tây…”
“Chắc không?”
“Dạ có, tụi đánh vô cầu nói toàn tiếng Quảng Bình”.
Thuấn nhảy vội lên chiếc xe, gài khẩu súng vào thắt lưng.
“Hai anh chạy về cây số mười bảy đi, ở đó có nhiều lính mình”.
“Dạ, tụi em cũng tính thế”.
Thuấn quay xe về hướng An Lỗ, nhìn lại thành phố Huế, hình như có tiếng nổ khô của lựu đạn chen lẫn trong tiếng pháo… Quỳnh Như, Thuấn rú hết gaz, chiếc xe lao vút đi…
*
Minh đạp cửa ào vào như cơn lốc…
“Gì vậy?” Lạc nhổm dậy, tay còn cầm hộp bia.
“Xong rồi, Việt Cộng đứng đầy đường. Phải kêu bà chị với mấy ông nhỏ dậy…”
“Chạy đi đâu?”
“Vào trong tiền trạm của mình”.
“Ông biết đường?”
“Kêu bà chị dậy đi, nhớ mang theo thức ăn”. Minh nói như ra lệnh, rút khẩu súng colt, lên đạn đặt khóa an toàn dắt vào thắt lưng ở vị thế dễ kéo ra nhất. Minh mở cửa bước ra hành lang, cong người trên lan can nhìn xuống đường, bên kia vườn hoa Nguyễn Hoàng leo lét ánh đèn thấp thoáng đầy những bóng người sau các gốc cây, phố chính người đi vội, hình như họ đang dồn thành từng nhóm. Minh liếc về phía phải, từng tổ tam tam di chuyển yểm trợ nhau dọc theo bờ tường. Minh chạy vào, vợ chồng Lạc và hai đứa con đã sẵn sàng, vợ Lạc tay xách chiếc valy nhỏ…
“Chị bỏ valy lại, mặc thêm áo vào mang chút thức ăn thôi, dưới đường đi không được nữa…”
“Tụi nó?” Lạc hỏi nhỏ. Minh gật đầu, tầng dưới vang tiếng nổ, đạn AK từng nhịp ba viên gọn gàng, tiếng nổ vang dội dọc theo hành lang, có tiếng người van lạy và bước chạy lên cầu thang.
“Chết, làm gì bây giờ mình?” Vợ Lạc bấu chặt tay chồng.
Lạc rút khẩu súng ra khỏi lưng, mũi súng hướng về cửa phòng, đưa mắt nhìn Minh dò hỏi, Minh lắc đầu bước đến khóa cửa phòng…
“Ông kéo cái bàn đến đây cho tôi, chận cứng lại, nhớ khóa chặt hơn”. Lạc làm như cái máy, sự sáng suốt bình thản thường ngày mất hẳn, người vợ cùng hai đứa con như sợi dây trói chặt tay chân cùng phản ứng. Lạc nghe lời Minh không chút phản ứng ngần ngại.
“Ông đứng sát tường, giúp tôi trèo lên cái lỗ này”.
Lạc đứng dạng chân, hai bàn tay bám vào thành cửa sổ. Minh trèo lên hai vai, lần tay theo thành tường.
“Ông nâng tôi lên chút nữa”.
Lạc nhón chân lên, Minh bám được khung cửa trần nhà trổ lên mái, rán đu ngược người lên.
“Bây giờ ông đưa hai cháu lên”. Hai thằng nhỏ được kéo lên trước, xong đến vợ Lạc, khi tất cả ở trong buồng tối, Lạc lấy lại bình tĩnh.
“Bây giờ mình phá mái nhà?”
“Phá nhẹ tay, đừng để ngói rơi xuống, để tôi lên trước định hướng, ông coi chừng cửa phòng mình, đừng để nó biết mình núp trên này”. Lạc gật đầu tỏ vẻ hiểu, khi Minh bắt đầu gỡ từng tấm ngói Lạc thở nhẹ liếc mắt nhìn xuống lỗ hổng, căn phòng vắng, ngọn đèn mờ, chai rượu lăn lóc trên sàn nhà, ngoài hành lang có tiếng chân người chạy, những giọng hét ra lệnh chêm vào những âm thanh của cổ họng bị chặn lại. Tiếng nổ từng phát một gọn ghẽ, khô khan, khi viên đạn đi từ nòng súng xuyên qua mục tiêu, mục tiêu bằng xương bằng thịt ép sát vòng kim loại lạnh băng. Cửa phòng bị tống mạnh, chiếc ghế lung lay, chìa khóa rơi xuống. “Mở cửa, mở cửa”, giọng miền Trung nặng tai, Quảng Bình hay Đồng Hới, tấm cửa bị rung dưới sức ép, một loạt đạn nổ giòn, ống khóa bị bắn tung từng mảnh nhỏ. Lạc nhắm vào bóng đèn, đoàng, bóng tối dày đặc, vừa lúc cửa phòng bị xô tung, chiếc bàn lật ngược đổ sầm trên nền nhà. Loạt đạn từ ngưỡng cửa sáng từng chập, Lạc bắn vào ngưỡng cửa hai viên. “Lùi, lùi, tui bị rồi đồng chí…” Căn phòng tối thâm. Lạc ngửng đầu lên, một luồng gió lạnh băng theo lỗ hổng thổi vào nhà, bầu trời lóng lánh sao. Trèo lên, Minh thò đầu vào lỗ hổng. Minh bò trước, hai đứa bé, Lạc bò sau cùng, thành phố Huế rộn rã tiếng pháo nổ, nhưng tai Lạc nghe rõ tiếng súng, không có viên nào rít trong không khí, viên đạn đã nằm trong một mục tiêu xương thịt nào đó. Trái với sự dự đoán, Lạc bình tĩnh trở lại, cảm giác như sắp sửa xua quân vào khi nghe mục tiêu đã bị phi pháo cày nát. Minh khôn ngoan thận trọng như đang dự trò chơi trốn bắt trong tuổi nhỏ. Chàng nhấn bàn tay trên mỗi khoảng gạch ngói trước khi trườn tới, dãy trường thành trước mặt đen thẫm bề thế gần tới từng tấc một.
“Bây giờ mình phải tìm cách vượt cái hào này”.
“Lội qua?” Lạc hỏi với giọng e dè.
“Chuyện đó thì dễ cho ông với tôi, chỉ lo bà chị với hai thằng nhỏ”.
“Ừ nhỉ”. Lạc đưa tay lên gãi gãi trên mặt.
“Em biết lội, mình và anh Minh đừng ngại”. Vợ Lạc e dè cất tiếng, sự sợ hãi trên đoạn đường mái nhà đầy tiếng súng đã làm người đàn bà cứng lưỡi, bây giờ hạt đất dưới chân làm tĩnh trí. Có luôn mấy đứa nhỏ kia ở đây thì chắc dạ biết mấy, người đàn bà muốn nói với chồng câu nói cùng ý nghĩ.
“Ở Sài Gòn có đánh nhau không mình?” Không ai trả lời câu hỏi.
“Không cần, để tôi đi tìm chiếc xuồng, mấy người hái sen thường hay cột chùm ở đây, hơn nữa trời lạnh lắm”.
“Vậy thì tốt, ông có cần tôi đi cùng không?”
“Không, ông coi chừng đừng động đậy, tránh hết mọi thứ”.
Lạc gật đầu, kéo vợ con thụp xuống, hơi bùn và nước xông lên ẩm ướt. Minh rón rén dò từng bước chân, hào nước mắm nằm sau đám nhà dân chúng, những cột sàn nhà chông chênh đóng rêu trơn, mùi bùn non cống rãnh rác rưởi bốc lên nôn nao. Minh kéo cao cổ áo saut, rút khẩu súng cầm tay, bước chân hẳn xuống bờ hào. Đi thế này tránh người ta trông thấy, nếu bị bắt gặp? Minh nhủ thầm, phải áp đảo ngay, Việt cộng chắc tràn khắp thành phố chắc không thoát được, nhưng mình là người Huế, cởi áo saut này thì ai biết mình là ai? Minh yên dạ, bước tới vững vàng trong bóng đêm…
“Đây nhá, cái thành này chạy quanh khu nội thành, bên trái kia là cửa Thượng Tứ”. Minh chỉ tay về hướng một khối đen nhô cao ở đàng trước xa xa…
“Tôi biết, chắc tụi nó ở đó rồi, ông tính đường nào về tiền trạm mình”.
“Tiền trạm mình ở trong Mang Cá”.
“Mang Cá là gì?”
“Nơi Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1, bây giờ nếu chạy thẳng đường từ cổng thành này là đến, nhưng chắc không nổi… Tụi nó thế nào cũng giữ con đường này”.
“Có thể tụi nó muốn nhào vô Sư đoàn 1”.
“Suya, nên mình phải tìm con đường xa con đường này, cứ men theo mấy con đường nhỏ nhỏ là lọt, ông đi sau có gì thì dọt, chạy mẹ vào nhà dân chúng, thằng dân nào láng cháng là phơ”.
“Sao kinh vậy ông? Toàn người Huế của ông cả đấy”.
“Khỏi bàn, ông thấy tụi trong khách sạn không là người Huế sao?... Chuyện đó tính sau, bây giờ cốt yếu là vào trong tiền trạm, có ăn, có sống, leo tàu bay về Sài Gòn là tốt”.
“Còn gia đình ông nữa”.
Minh không nói. Có một cái gì tàn bạo lạnh cứng trong lòng, trong cơn nguy biến Minh đã khôn khéo phát triển đến tối đa phản ứng tìm sống. Minh đã ích kỷ một cách thản nhiên cứng ngắc. Gia đình? Minh nghĩ đến mẹ và gia đình bên ngoại trong một thoáng hối hận, mẹ và gia đình bên ngoại không có gì với Việt Cộng, họ đứng ngoài cuộc biến động nguy hiểm này, cả nhà ngoại sẽ nấu những nồi cơm thật lớn và các dì mợ trổ tài chế biến những món ăn khô dè xẻn cho đám đông, thịt khô, cá chấy, muối sả, họ sẽ ăn những thức ăn khó khăn đó để đợi chờ biến cố đi qua trong bình yên. Trong khi Minh vượt từng thước đất trên sự sống chết đi về Tiểu đoàn, theo sau một người bạn, bạn lớn tuổi, bạn lính, bạn uống rượu… Minh cùng họ cố về tiền trạm nơi có những người lính thuộc Ban 4 Tiểu đoàn, những người lính không mang súng để vác gạo, bắp su, xách nước mắm từ trực thăng xuống vùng hành quân. Cơn nguy biến ném Minh vào trong một cuộc đấu tranh lạ lùng, cuộc chiến đấu không chiến hữu và không vinh quang. Nhưng Minh phải tới được tiền trạm, Minh phải thắng vì cả cuộc đời cụ thể của Thân Trọng Minh đặt trên cuộc đấu tranh này, nếu Minh thua, một nòng súng AK sẽ dí trước trán. “Lính Dù ngụy hả?” Việt Cộng sẽ hỏi Minh bằng giọng Quảng Bình, Quảng Trị và có thể là giọng Huế… “ĐM, lính Dù ngụy mà… hì hì…” Ngón tay của tên Việt Cộng sẽ co lại, cò súng sẽ co lại, Minh nghe được tiếng chuyển động của lò so hoàn lực chuyển để kéo cho búa đập vào chậu cơ bẩm, bốp, kim hỏa sẽ đâm vào hạt nổ và đoành… Thân Trọng Minh giải thể thao của học sinh miền Trung niên khóa 1957-1958, cây toán học của Trường Võ Bị sẽ bị bắn ngược người ra đàng sau, một phần chất óc phọt ra ngoài, Minh ngã xuống, chân tay giãy giãy, sự sống cuối cùng giãy giụa vùng vẫy trước khi tắt ngúm. Chết, một sự chết toàn thể có kích thước ở tay chân lạnh giá cứng đơ, dòng máu chảy ra đẫm ướt thấm sâu trong đất, chết có mùi hôi ngai ngái… Chết thụ động và vĩnh viễn… Phải sống, phải về tiền trạm. Minh dự phần vào cuộc chiến không huy chương với hết sức mạnh con người.
“Này Minh, tụi mình phải kiếm cái áo quần gì để thay mới nói chuyện thoát”.
“Tôi cũng nghĩ vậy, hơn nữa cái quần tôi ướt nhẹp lạnh không chịu nổi… Mặc cái áo saut này chi bằng kêu Việt Cộng đến túm còn hơn”.
“Lấy áo quần civil ở đâu bây giờ?”
“Vào đại nhà nào vắng người, để tôi đi kiếm”. Minh len lỏi trong khu vườn chuối ở trên mặt thành nên thấy được khu phố chính mờ mờ ánh đèn trong sương. Dưới kia chắc bắt đầu loạn, đã có những anh chết trong khi đang xỏ tay vào áo veston để đợi giao thừa xuất hành… Không hiểu đã giao thừa chưa. Minh thoáng cười với ý nghĩ rời rạc của mình. Khu vườn hết, Minh bắt đầu vào một khoảng sân đất nện cứng, có người đàn bà đang cúi đầu lạy trước mặt một bàn thờ nhỏ.
“Này, bà ngừng cho tôi hỏi một chút”.
Người đàn bà nhìn lên hốt hoảng, những cây hương đang cầm ở tay lã chã rơi xuống. Có nhánh hương rơi trên chân nhưng người đàn bà không để ý, một động tác thật thuần thục, hai bàn tay xòe rông chắp vào nhau, người đàn bà xá hai ba cái liên tiếp, đôi môi nhăn nheo kéo xuống sửa soạn cho tiếng khóc… Ầm, ầm, tiếng nổ ở xa, miệt Gia Hội hay Đông Ba, không biết 105 của ta hay Việt Cộng vừa giật sập mất cái gì? Minh liếc thấy ngọn lửa lóe lên sáng rực trước tiếng nổ. Người đàn bà giật nẩy mình không kìm hãm nổi tiếng khóc đang ứ. “Lạy cậu tha cho tôi”, bà xá thêm mấy cái, đôi mắt không rời khẩu súng. Giữa tiếng nổ và khẩu súng của Minh có liên hệ với nhau… Những căn nhà bên cạnh xôn xao, người ta chạy vội ra sân đứng hướng mặt về phía có tiếng nổ. Minh đẩy người đàn bà vào trong nhà. “Bà vào trong này tôi có chuyện nói”. Bà ta bước líu díu, những cây hương còn hững hờ trên tay xoay từng vòng sáng đỏ theo mỗi bước đi.
“Bà không phải sợ gì hết, ở nhà còn người đàn ông nào không?”
“Dạ có, thằng con trai tôi đi lính ngoài Quảng Trị, cậu thương tình tôi không làm gì nên tội”.
“Nói hoài, tôi bảo bà đừng sợ, bà cho tôi hai bộ đồ civil, áo quần thế nào cũng được, có áo len thì tốt, còn bà cũng nên gói sẵn một gói đi, có gì chạy cho lẹ…”
“Chạy đi mô, vì cái chi mà chạy?”
“Đạn, súng, đánh nhau lớn, ở đây không yên mô”.
“Nhưng có lính tráng đồn trại chi ở đây?” Người đàn bà nhìn lên bàn thờ, ánh nến chiếu vào giấy vàng mã trở nên lóng lánh, rực rỡ khói cây nhang bay là đà quyện vào nhành mai trước khi tan, người đàn bà quay lại nhìn Minh, đôi mắt bớt vẻ sợ hãi phảng phất buồn.
“Tui không đi, ông Việt Minh hay Quốc gia tui không biết, bàn thờ tui dọn rồi, đầu năm không ai bỏ nhà mà đi ”.
“Cậu định trốn đi mô?” Người đàn bà run run hỏi Minh.
“Đi trốn?” Minh khó chịu. Minh không muốn mang tâm trạng này. Minh thấy mình đang làm một công việc to lớn và quan trọng dù trong bóng tối.
“Tôi không trốn đâu hết, tôi đi Mang Cá”. Minh hơi bối rối trước câu nói của mình, ôm bộ áo quần, nương theo bóng tối đi về cuối khu vườn.
Người đàn bà ngồi lại nhìn lên bàn thờ, khói hương bình thản lặng lẽ bay, ánh nến chập chờn ấm áp. Thế giới của người đàn bà trong tối giao thừa là đây… Ngồi im trên chiếc ghế nhìn tàn hương rũ xuống dính vào đốm lửa một cách mong manh, chờ cơn gió yên lặng rơi xuống. Tàn hương lay động yếu ớt như thời gian vô hình chuyển đi giữa hai năm. Người đàn bà đợi hết tàn hương sẽ cúng đến phần đồ ngọt, chè đậu ngự nước trong vắt, hạt đậu vàng xanh nở một đường sung mãn như cành lộc mới… Giặc giã ở đâu cũng mặc, ba bốn lần chạy loạn rồi, loạn lần nào cũng quá lâu, trận Cùa, trận Nam Đông năm 63, 64 gì đó, thằng con thứ nhì bị gãy chân bó bột. Năm nay là Mậu Thân, hai thằng con lại đi biệt mặt không về? Giặc đã phá nhà nhiều lần, giặc đã vào trong nhà, đã làm mẹ con cách xa, đã đẩy tình thương về những chỗ tối tăm vô ích, thương con biết để trong lòng, người đàn bà ngồi như đã ngồi suốt hai mươi năm. Giặc kia chờ chồng, giặc này chờ con, còn tai ương nào để xảy ra? Người đàn bà ngồi chờ tàn nén hương.
“Xong rồi, bây giờ mình cứ tà tà mà đi, dân chúng hình như cũng vừa biết được có biến động, mình kiếm nơi nào đông nhập vào. Ông và bà chị đừng nói gì cả, xứ Huế ít người Bắc, có gì cứ để tôi. Bây giờ mình xuống đường”. Minh chỉ tay xuống con đường nhựa nằm dưới chân thành, ánh đèn vàng ấm soi rõ những lá cây khẽ rung động. Năm người bước chân xuống mặt nhựa.
“Đi ngã nào?” Lạc khẽ hỏi, liếc nhìn những con đường chằng chịt trước mặt.
“Phía này, cứ đi như người thường chạy loạn, đừng trốn tránh gì cả”. Minh cho tay vào trong túi, cúi đầu rảo bước đi trước.
Một loạt đạn vang lên từ đầu đường, những ngọn đèn bị bắn vỡ nổ nghe gọn ghẽ, bóng tối đè lên một phần đường. Minh kéo hai đứa bé, Lạc kéo người vợ nhảy vào vệ đường, ẩn sau một gốc cây. Ba bóng người tiến đến …
“Ai, đi ra”.
“Đi ra”. Minh khẽ nói. Ném mấy gói áo quần dưới cống.
Minh đứng dậy tự nhiên, dẫn hai đứa bé bước ra.
“Các anh là ai? Làm gì?” Giọng Quảng Bình chát chúa, tên Việt Cộng thủ cây AK trước ngực ở thế sẵn sàng, hai tên kia bố trí về hướng chúng vừa đi đến.
“Dạ anh em tôi dạy học, mới đi chùa về”.
“Dạy học lớp mấy?” Tên Việt Cộng nhíu mày ra vẻ suy nghĩ.
“Dạy nhiều lớp, tôi dạy vẽ, tôi là giáo sư hội họa của trường”. Minh chọn thật nhanh một môn học vô thưởng vô phạt, anh tôi là thợ sửa đồng hồ…
Tên Việt Cộng im lặng, mắt vẫn nhìn vào Minh…
“Anh là lính gì mà có súng, súng này lạ quá, lần đầu tiên tôi thấy”. Minh hỏi, giọng hòa hoãn vô tư. Tên Việt Cộng khẽ cười:
“Anh không biết gì cả, bây giờ mấy người tới đằng chỗ trường học để sinh hoạt”. Y chỉ tay về hướng trường Bồ Đề…
“Anh biết đường đi không?”
“Dạ biết”. Minh lễ phép.
“Biết thì đi tới đó liền”. Gã đưa nòng súng lên trời bắn ngọn đèn đường kế tiếp.
Minh giả vờ kêu “Trời ơi!” sau tiếng nổ.
“Dạ thưa ông chúng tôi đi”. Minh dẫn hai đứa con, Lạc rẽ vào con đường trước Pháp đình. Hai tên Việt Cộng tiếp tục đi dọc đường dưới chân thành, họ đi đâu bóng tối đầy đến đó.
“Mình tới trường học đó sao?” Lạc hỏi.
“Đâu được, nhưng như vậy không những tụi nó đóng dọc từ đây đến Mang Cá, tụi nó còn bố trí cả chiều ngang thành nội rồi…”
“Để tôi kiếm xem có đường nào lọt được, thôi mình đi theo đường này thử”. Minh dẫn bốn người đi vào con đường dọc theo hông tòa án.
Một tràng tiếng nổ khô vang lên đều đặn. Minh và Lạc cùng nhìn lên trời, những khối lửa bay song song về phía Mang Cá.
“Tụi nó pháo kích, ít nhất cũng có 4 cây 82”.
“Tao nghe cả hỏa tiễn 122 ly nữa, có thấy khối lửa đỏ rực bay cao nhất không?”
Minh gật đầu đưa mắt nhìn Lạc hỏi ý kiến.
“Như vậy là hơn tiểu đoàn rồi, pháo bốn cây là phải tiểu đoàn trở lên”.
“Có thể là bộ chỉ huy Trung đoàn của tụi nó”.
Một tràng tiếng nổ khác, vợ Lạc xoắn xuýt ngồi bẹp xuống ôm lấy hai đứa con. “Mình! Mình! Làm sao bây giờ?”
“Không gì chị, đó là súng của Việt Cộng ở đây bắn đi”. Minh chợt mỉm cười vì câu nói của mình. Ở đây bắn đi, Minh cùng một phía với Việt Cộng. Một phía, Minh thấy lạ, một chút yên ổn ở vị trí sau súng địch, phân chia bạn thù hóa ra chỉ một giai đoạn, một giai đoạn ngắn và trống, qua khỏi khoảng trống vô hình đó con người được biến dạng như cây gậy lệch đi khi được nhìn qua màn nước. Súng cối và hỏa tiễn Việt Cộng bắn đi tất nhiên có súng cối hoặc 105 của ta phản pháo lại, Minh mong muốn cuộc phản pháo chậm để tìm đường trốn.
“Không xong rồi Minh, tìm phía nào ra khỏi mấy cái ống nhổ này đã, ở gần không được”.
Minh gật đầu, rẽ về phía tay mặt. Ổ súng cối địch chắc đặt ở đường Hàm Nghi phía tay trái.
Người chạy hỗn loạn, người chạy ra khỏi nhà mang những vật dụng thật vô ích trong cơn hốt hoảng. Áo quần tạp nhạp được gói vào trong chăn cũ: ôm trước ngực bằng hai tay chéo lại, một chiếc ly được mang theo. Chiếc ly vô dụng, khôi hài lúng túng chuyển từ tay trái sang tay phải, cuối cùng được ném đi trong la hét thúc giục. “Trời ơi là trời. Súng của ai? Súng của ai? Chạy ngả mô đây?” Người nhào ra từ đường, đường trống trải lạnh cóng, nhìn lên trời đạn bay đỏ lưới. Tiếng nổ nghe thật gần do đạn súng cối départ hay hỏa tiễn được phóng đi. Tiếng nổ, khối dân co rúm người như dưới một dịch động kinh. Dân chúng không phân biệt được tiếng nổ của kích hỏa đập vào hạt nổ để đẩy viên đạn đi xa hay tiếng nổ của đầu nổ khi chạm phải mục tiêu. Người dân sợ bất cứ mọi tiếng nổ và ánh sáng, sợ mảnh gang nứt ra từ quả đạn, sợ viên đạn nhỏ bằng đồng bay vút trong không khí. Tai ương có hình dáng màu đỏ vạch trong trời đêm, tai ương có khoảng cách và tiếng nổ. Dân chúng chạy vào trong nhà, cảm thấy nhà mênh mông và mỏng manh họ nhìn hết vật dụng thân yêu… Chiếc giường vậy cũng được ba mươi năm khi ông nội còn làm Biện ở ngoài Hà Tĩnh, cái đồng hồ quả lắc vàng chóe úa màu đen chậm chạp đưa đẩy trong khối vỏ màu nâu khắc hình trái nho, đồng hồ mua từ năm 1949 sau khi lính rappel đầu tiên kể từ lúc hồi cư cuối năm 1946. Người gia chủ treo lên định mang xuống.
“Ba con Uyên muốn mang cái đồng hồ phải không?”
Người chồng nhìn vợ dò hỏi không trả lời.
“Trời ơi! Cái đồng hồ! Khai sinh giá thú giấy tờ đất cát mình không mang đi định mang gì của nợ đó”.
Người vợ chạy xuống bếp xếp chén dĩa kiểu vào tay nải… “Uyên, Uyên, giúp mẹ mang cái này”. Người mẹ lắc lắc tay nải. Nặng quá không mang nổi. Cô gái chạy quanh chiếc bàn học, cuốn album, nhật ký, tập lưu niệm. Biết mang cái gì, Uyên xé vụn đống thư cột bởi sợi cao su, những lá thư của tình yêu thần thoại, khởi đầu tuổi thanh xuân, bị xé nát, vứt bỏ, nhòa tan trên sàn nhà. Lá thư tình cách đây hai ngày đã làm Uyên bấn loạn, Uyên đã đọc từng chữ, đã cắt từng câu, nghiến ngấu, ve vuốt từng dấu chấm tân kỳ hình ông sao, Uyên nhớ vạch chéo ngang tàng dũng mãnh. “Người ấy” như vậy đã yêu mình lâu lắm? Người ấy theo dõi mình với mối tình cay đắng trong bao ngày tháng qua… Uyên vung tay ném mạnh những cuốn sách ra khỏi chiếc valy con, xếp tấm áo len trắng vừa đan xong để mặc trong Tết này… Cả gia đình náo loạn một cách khó khăn, họ xoay quanh các đồ vật, nằm bẹp xuống sàn nhà sau mỗi tiếng nổ và nhổm dậy tiếp tục cào cấu la hét trên đống vật dụng bỗng chốc trở thành quá thân yêu và cần thiết…
“Chạy không nổi về Mang Cá được, trước mặt bên trái toàn người anh em, tay phải mình lại đụng cái thành, thôi chạy vào nhà bà chị tôi rồi tính sau”. Vợ chồng Lạc cùng gật đầu một lượt theo Minh không ý kiến.
Ngày mồng Hai Tết, Thuấn dẫn đại đội chạy băng qua phi trường Tây Lộc, sắt PSP nhún nhún dưới chân, xóm nhà dân ở xa bốc khói, phòng đợi khách bị trúng đạn B.40 xám đen, cánh cửa bị thổi tung, đại đội bố trí trông về cửa An Hòa đợi lịnh, Thuấn đi vào phòng, có chiếc xe Jeep cháy ở ngưỡng cửa, hai người chết gục ở tay lái, Thuấn đi đến. À pilot L 19, Thuấn đứng sát gần xác chết để nhìn rõ mặt. Có thể là mấy cha pilot hay bay với red marker
[1] , mình có thể biết nó, Thuấn đưa báng súng lật gã phi công chết trên tay lái.
“Thằng cha này lạ, mình không biết”.
Gã phi công bị bốn năm viên đạn ở ngực, một viên vào đầu, hai con mắt mở cứng ngắc, màu từ vết thương trên đầu chảy xuống dính một bên mặt, đóng khô những sợi râu mép.
“Người anh em có bao giờ nghĩ rằng mình chết trên tay lái ô tô không nhỉ?” Thuấn mỉm cười với ý nghĩ mình. Ai làm sao biết được mình chết lúc nào và ở đâu như gã phi công đã ngồi chết trên tay lái. Một anh chàng người Huế cuối năm về quê hương? Không phải, mũi xe hướng về phi cơ chắc anh ta nghe súng nổ nên lái xe Jeep vào đây định vọt đi bằng máy bay, anh ta chết khi còn mặc đồ bay màu xám, huy hiệu con rồng bị một vết cháy, có thể thằng Việt Cộng dí súng thật sát để bắn… Thuấn muốn nghĩ tiếp thêm vài chi tiết về người chết, nhưng trí óc làm việc chỉ đến chừng đó. Thuấn bước vào phòng đợi, gạt máy điện thoại xuống đất. Giờ nay còn có ai gọi, chỉ gọi được Nước Chúa. Thuấn leo lên chiếc bàn gối đầu vào mũ sắt, nhắm mắt lại.
“Khi nào Tiểu đoàn gọi mày đưa máy tao, còn đụng hay không ở đâu cũng mặc, tao ngủ”. Gã lính truyền tin gật đầu không nói, ngồi dựa lưng vào tường sát dưới chân Thuấn. Gã không cởi chiếc máy trước khi nhắm mắt. “Tôi cũng buồn ngủ quá Đại úy…” Thuấn nghe từng tiếng động lịch kịch của chiếc nón sắt mỗi khi gã lính cong chân chạm phải cùng tiếng máy chạy sè sè. Thuấn không ngủ được, nhưng hai mí mắt sưng mọng chụp xuống mở không ra, cảm giác như đôi mắt khô cứng không thuộc về phần điều kiện của mình nữa. Bên trong mí mắt đã dậy, đôi mắt vẫn còn thức, nghe ngóng chờ đợi. Thuấn muốn ngủ, hai đêm, hai ngày căng thẳng và di chuyển tác chiến liên tiếp làm vỡ nát những khóm xương, trùng hết mọi đường gân nhưng đôi mắt vẫn tỉnh táo một cách khó chịu. Trong bóng tối của văn phòng, sau rèm mi Thuấn nghe đôi mắt mình chuyển động ngang dọc. Thuấn xoay người ra phía cửa, ánh nắng làm Thuấn mở mắt, sân bay vắng ngắt rải rác toán lính nằm dài bên kia phi đạo… Gã phi công chết vẫn mở mắt nhìn bầu trời xám đục. Thuấn ngồi nhỏm dậy. “Tốt, sống đến bữa này là tốt”. Hình như Thuấn nói như thế.
“Dậy mày”. Thuấn đá vào chân gã lính truyền tin. Dậy để xin lệnh kéo vào trong kia bố trí, ở đây trống quá, tao lại đói nữa, suốt giao thừa đến bây giờ không có một bữa ăn. Thuấn cầm máy truyền tin liên lạc với Tiểu đoàn trưởng. Gã lính truyền tin vẫn gục đầu ngủ kỹ, Thuấn ném ông liên hợp xuống đất sau tiếng chửi thề…
“Gì Đại úy?” Gã lính giật mình lồm cồm bò dậy.
“Trên Tiểu đoàn bắt mình chiếm cửa An Hòa!
“Lệnh đâu kỳ vậy? Cửa đó tụi Tiểu đoàn hơn 2 giữ rồi mà”.
“Mất lại rồi, mày kêu mấy ông Trung đội trưởng lại đây”.
Ba Trung đội trưởng từ ba góc phi đạo đi đến, Thiếu úy Chí Trung đội trưởng Trung đội 3, tướng người vốn to lớn, thứ xương to, mập thịt nặng nề bề thế nhưng chỉ qua hai ngày không ngủ, Chí hốc hác trông thấy, râu mọc loạn xạ vàng úa trên khuôn mặt ố bẩn, Thuấn hỏi đùa Chí:
“Sao ông to con mà yếu vậy?”
“Đâu biết, tôi không ngủ là không đứng nổi”.
Thuấn nhìn các Trung đội trưởng một vòng trước khi nói, sáu cặp mắt mệt mỏi cố chú ý vào lời Thuấn, những sợi gân máu ửng đỏ nổi bật trên tròng mắt màu trắng.
“Đây, Tiểu đoàn bắt mình chiếm cái cửa An Hòa…”
“C… Chiếm làm gì mấy cái cửa, giữ Bộ Tư lệnh và mấy chỗ trọng yếu đủ chết rồi, còn bày đặt tấn công”, Trung đội trưởng Trung đội 1 rú lên.
“Biết vậy, nhưng không hiểu lệnh từ đâu xuống, Tiểu đoàn bắt phải thế”.
“Đánh thì không ngán nhưng cho tôi ngủ một giấc rồi muốn gì cũng được”. Thiếu úy Chí nói sau cái ngáp.
Thuấn nhún vai không nói, có một cái gì bất toàn trước khi ra lệnh. Thuấn phân vân. Chiếm cửa thành làm gì? Thuấn cũng muốn hỏi như thế, một đống súng lấy được hôm qua đã bị vất lại trên đường tiến quân, đánh giặc không lấy súng thì đánh làm gì? Thói quen quân đội dạy cho Thuấn: Muốn được gọi là thắng phải lấy được súng của địch, cây súng làm nên anh hùng, xác định khả năng chỉ huy, sự can đảm giúp người sĩ quan bước lên đầy đủ với lời khen, huy chương và cấp bậc. Bây giờ đánh giặc không để lấy súng, Thuấn lạ, lạ hơn nữa trước khi ra lệnh Thuấn vẫn thấy bên cạnh nỗi bâng khuâng có niềm nôn nao thúc giục…
“Ông 1 (Trung đội 1) đi theo con đường này tiến trước, ông 2 và 3 rút ra sau theo hình nấc thang, có gì để mình rút về đây lại… Tụi nó không đông nhưng bị bắt buộc ở lại đó nên mình phải cẩn thận, con cháu cụ Hồ “tapi” chuyến này, phe ta còn đánh dài dài nên các ông phải giữ vốn”.
“Có gì yểm trợ không?”
“Không”. Thuấn xếp bản đồ cho vào túi quần. Thôi các ông đi, tôi theo thằng 3…” Trung đội 1 báo cáo đến cổng thành hai mươi thước, Thuấn ra lệnh bố trí lại xong dẫn hai gã hiệu thính viên len lỏi theo các khu vườn lên đến cuối Trung đội 1. Thuấn bảo viên Trung đội trưởng:
“Bây giờ cho hai thằng khinh binh chạy lên thử, nhớ bảo tụi nó tránh xa cái cổng, lỡ có gì còn chạy về”.
Hai gã khinh binh bỏ sắc xuống cúi mình đi ra khỏi khu vườn, sửa soạn chạy qua con đường để vào chân thành. Vừa đến được nửa đường thì súng nổ dài dài dọc trên thượng thành, AK, thượng liên, B40, đồng loạt như một bánh pháo được châm ngòi một lúc. Hai khinh binh thoáng khựng lại, xong lủi hẳn vào chân thành… Thuấn phóng người xuống sau một luống đất, hai gã hiệu thính viên chậm chạp theo sau.
“ĐM… Nằm đâu cũng được, gì mà phải theo sát sau”.
“Không theo Đại úy lỡ máy gọi làm răng…” Gã hiệu thính viên người Quảng cằn nhằn.
“Đến nước này mà mày còn lý luận. Theo tao để chết … Tụi nó nổ dữ quá”. Gã mang máy cười, nụ cười trống rỗng lạ lùng làm Thuấn muốn cười theo.
“Đưa máy tao nói chuyện với Tiểu đoàn”.
Vẫn nằm yên sau luống đất, Thuấn báo cáo tình hình với Tiểu đoàn trưởng:
“Trình Đích Thân (danh hiệu truyền tin) lên không được, tụi nó đầy ở trên đó, thành dày cả thước, M79 bắn vào chỉ trầy được mỗi viên đá. Tụi tôi thử cả trái phải nhưng vô hiệu”.
“Thôi được, nằm đấy, nhớ nằm ra xa một chút để tôi hỏi lệnh Lima Delta (Lữ đoàn)”.
Thuấn bỏ máy xuống, nói với một binh sĩ nằm gần nhất:
“Mày bò lên kêu ông Thiếu úy xuống gặp tao”.
Viên Thiếu úy lụp xụp chạy đến.
“Gì Đại úy?”
“De, lui phía sau khoảng hai cái vườn cho chắc, tụi nó trên cao thấy mình dưới này, nằm một lát nữa ăn súng cối bây giờ”.
“Vâng, nhưng để tôi kéo hai thằng em về đã”.
“Sao?”
“Thằng Hồng với thằng Toàn “đi” rồi!!”
“ĐM… Mới thấy nó tới được dưới chân thành có can gì đâu?”
“Dạ, khi Đại úy ra sau này, tôi ra dấu tụi nó trở về, chưa kịp bắn che, thằng Hồng đã dọt lui, thằng Toàn nhảy ra đỡ bị luôn…”
“Có chắc chết hay bị thương?”
“Chết, thằng Trung đội phó chạy lên xem rồi…”
“Sao ông cho nó chạy lên làm gì, thằng cha này gan lắm, chết đi nữa thì tức hộc máu ra đây, Trung sĩ Thái phải không?”
“Dạ, Trung sĩ Thái”.
Thuấn nhỏm người dậy chạy lại đầu khu vườn, bên kia đường sát chân thành Trung sĩ Thái đang đứng sát vách vào tường, mũi súng hướng lên cao, hàm râu quai nón lâu ngày không cạo làm mặt Thái trở nên xanh xao, xác hai khinh binh nằm cong trên mặt đường cách chân thành khoảng ngắn.
“Bắn hết cỡ lên nóc thành”. Thuấn bảo với viên Trung đội trưởng. Súng nổ, vụn gạch và đất trên nóc thành bay mờ mịt.
“Thái, Thái”. Thuấn đứng dậy hét lớn, vung tay ngoắc liên hồi. Trung sĩ Thái hiểu ý, rời khỏi bực thành, nhảy đến hai xác chết. Thái kéo hai cái xác về thật nhanh, chân của người chết nảy lên mặt đường từng nhịp. Trung sĩ Thái chạy hết con đường bỗng đảo người một vòng, hai xác chết ở hai tay rơi xuống. Thái gượng dậy chạy vào khu vườn Trung đội 1 đang bố trí.
“Kêu thằng 2 lên”. Thuấn đá vào một người lính nằm kế. “Mày chạy xuống báo ông Trung đội trưởng Trung đội 2 đem cả Trung đội lên trên này, ông Chuẩn úy đến gặp tao. Máy, máy…” Không có tiếng trả lời. “Toản đâu?” Gã mang máy tên Toản lật đật từ dưới chạy lên.
“Em đây Đại úy”.
“Sao mày trốn mất tiêu vậy? Sợ chết hả?”
“Đâu có, Đại úy bảo em nằm lại đừng đi theo”.
“C… Lý luận nữa”. Thuấn cầm máy liên lạc với Tiểu đoàn xin cho lệnh tấn công.
“Ông điên hả? Vừa rồi ông bảo đánh không được, giờ này ông xin đánh lên. Lima Delta bảo nằm đó tránh xa xa. Thằng Tiểu đoàn 9 có đến chỗ Thượng Tứ mà không được, cũng kẹt rồi…” Giọng Tiểu đoàn trưởng vang vang trong máy đầy ngạc nhiên và mệt mỏi…
Thuấn trả chiếc ống nghe lại cho Toản, ngẩng đầu lên.
“Đại úy gọi tôi?” Chuẩn úy Trung đội trưởng Trung đội 2 vừa đến, giọng thoáng chút lo lắng.
“Thôi, không cần nữa, lui hết, về sân bay lại, ông dẫn đi trước”.
Khi Đại đội về đến sân bay,Thuấn đi tưởng vào trạm hàng không… Trời vừa chiều sương dày, mưa phùn mù mịt, gió rét… Đưa tay lên xoa xoa ở mặt đất, theo nước mưa dính nhớp ở tay, Thuấn đi qua xác người phi công. “Như vậy ông chết được ba ngày rồi đó hả? Gia đình ông có ai biết không? Cha mẹ, vợ hay người yêu đang ở Sài Gòn, Nha Trang hay Đà Nẵng, họ có nhớ đến ông hay đang tìm đường sống dưới cơn mưa đạn trong một thành phố khác?” Thuấn đứng ở cửa phòng đợi nhìn xác người chết ngửa mặt lên trời lất phất mưa phùn.
“Đại úy cho em mượn hộp quẹt nấu cơm”. Binh nhất Thiên rụt rè hỏi Thuấn.
“Mày thì khi nào cũng chỉ lo nấu ăn”. Giọng Thuấn pha chút giễu cợt, Thiên không nói, bóp hai tay vào nhau, hai chân run run vì lạnh, nửa vì bối rối. Thuấn nhìn gã lính thân tín chợt thấy lòng trầm xuống, hai ngày hai đêm sát cận kề cái chết và tột cùng khốn khổ, đêm giao thừa chạy bộ từ cây số 17 về đến An Hòa, ngoại ô xứ Huế, gần 20 cây số dồn lên trên đôi chân không cảm giác, không phải chân người đang sai khiến bước tới nhưng chỉ có những bắp thịt chuyển động đẩy đưa thân thể về phía trước, trận đánh ác liệt ở làng Đốc sơ… Hai ngày Thuấn men dọc theo sợi dây vô hình giữa cái sống và cái chết, không thức ăn, nước uống ở trên sông đào, nước tanh mùi máu và hơi người chết. Thuấn nhai vội mấy trái chuối lấy từ bàn thờ bị trúng đạn, nải chuối đã bị cháy sém nám khói đen, người chủ nhà chết trong động tác sửa soạn cho thế quỳ trước bàn thờ… Thuấn sống trong cảnh chết, ăn thức ăn có mùi vị ma quái và thiêng liêng, thức ăn để dành cho tổ tiên trong những ngày Tết. Thuấn không để ý, tất cả năng lực dồn lại để luôn luôn tỉnh táo, để lắng nghe súng cối địch, dặn dò các Trung đội trưởng nhớ phân tán binh sĩ tránh B40, Thuấn nhắn nhủ mình phải sống để ra lệnh rõ ràng, nếu cần la hét chưởi bới các Trung đội trưởng, bảy mươi hai binh sĩ còn lại đang trông chờ Thuấn, họ chỉ có thể đứng và bắn thật chính xác vào một bóng đen đang di chuyển, khôn khéo tránh né một tràng đạn AK, nếu còn nghe giọng ra lệnh, hay chiếc bóng của Thuấn chạy len lỏi qua những thân cây phủ sương dày đặc. Hai ngày nay Thuấn đã sống quên bản thân mình, tất cả giác quan, sức mạnh và phản ứng dựng đứng trên độ căng tối đa của năng lực… Binh nhất Thiên luôn luôn theo Thuấn trong mọi giờ khắc của hai ngày qua. Thuấn ngồi, Thiên khép nép ngồi cách một khoảng, đang ở Trung đội 2 Thuấn chạy vọt lên Trung đội 1, bao giờ cũng vậy, sau hai gã mang truyền tin có bóng dáng lềnh khềnh chậm chạp của Thiên với chiếc ba lô căng cứng vật dụng.
“Mấy hôm nay Đại úy không ăn cơm”. Thiên đánh hai tay vào nhau để giảm bớt vẻ ân cần của câu nói.
Thuấn nhìn chiếc má hóp của Thiên nôn nao như trước một ân huệ không trả được. Binh nhất Thiên vốn người cao lớn, ăn khoẻ, có thể ăn không cần thức ăn một hơi mười chén cơm lớn… Mấy hôm nay Thuấn không ăn cơm, Thiên không dám nấu, Thiên sợ phải ăn một mình trong khi ông thầy bận la hét chỉ huy. Thiên nhịn ăn người hốc hác thấy rõ… “Đại úy ăn trái chuối, Đại úy ăn bánh tét”. Thiên lần mò tìm kiếm trong ngõ ngách của những nơi đi qua để tìm thức ăn cho Thuấn, quên hẳn nhu cầu cho chính thân mình, một cơ thể yên lành, khoẻ mạnh và bình thường. Thuấn thấy nét trũng trên má Thiên, vòng thâm quanh đôi mắt… “ ĐM…” mày ốm nhóm, Thiên ơi”.
“Dạ”. Binh nhất Thiên cười, Thuấn cười theo. Hai thầy trò cười thật vô nghĩa, có một niềm hoan lạc thật ấm áp len lỏi trong hơi lạnh của buổi tối đang nặng nề vây bủa.
“Mày định nấu cơm, nhưng có gì để nấu?”
“Em còn giữ gạo và đồ nấu ăn”.
“Tối hôm kia mày không ném đi?”
“Không, có ăn cơm vẫn hơn Đại úy, hơn nữa cái soong này còn mới, em mua trong tháng rồi…”
“Mày vác nguyên ba lô chạy từ ngoài Quảng Điền vào?!”
“Dạ… Đại úy cho em mượn hộp quẹt”.
“Tao không có, mày kiếm đâu đó, ra chỗ thằng người chết biết đâu kiếm được cái Zippo”.
Thiên bước đến chỗ gã phi công, lưng người lính rộng phẳng, cong xuống di động chậm chạp, tưởng thấy được một khối nặng của chiếc sắc đựng quần áo, soong chảo và thức ăn… Hơn hai mươi cây số chạy bộ với khối nặng ba mươi ký trên lưng. Thuấn thấy cay ở mắt, trong nguy nan và cái chết, binh nhất Thiên vẫn không quên bổn phận, một bổn phận tầm thường để luôn luôn sửa soạn nồi nấu cơm. Thế giới của Thiên bề bộn với bốn hộp thiếc được dán nhãn: mỡ, đường, cà phê và tiêu ớt. Chung quanh dây lưng đạn có những túi nhỏ đựng kim chỉ, dăm hột nút, thuốc lọc nước. Thiên quanh quẩn đề phòng mỗi một động tác của Thuấn, nghĩa vụ và bổn phận của Thiên khép cứng chặt chẽ xung quanh người chỉ huy… Bao nhiêu lâu Thuấn chỉ cảm thấy lờ mờ công việc săn sóc chu đáo đó, giữa Thuấn và người lính không còn phân cách, Thuấn coi Thiên như một phần của thân thể, một cái bóng khít khao… “Hết cả thuốc rồi”, Thuấn lẩm bẩm trong miệng trong khi vò bao thuốc … “Dạ, thuốc đây Đại úy”. Thiên chìa một gói thuốc mới… “Chán quá Thiên ơi”. “Dạ”. “Thầy trò mình chuyến này cực quá”. “Dạ, dạ…” “Mày lên trước kéo tao lên sau”. “Dạ…” binh nhất Thiên dạ suốt ngày, trong rừng sâu, trong chái bếp, trên đoạn đường Tam Quan – Bồng Sơn. Quốc lộ số 1 bị đời xáo nát bấy, đường xe lửa lật sang một bên. Thuấn nhặt từng viên đá cuội ném hai bên vệ đường. “Thuở nhỏ tao hay đứng ở đường rầy xe lửa nhìn về phương Nam và tưởng đi miết sẽ đến Sài Gòn”. “Dạ”. “Mày đi xe lửa chưa?” “Dạ, chưa thấy xe lửa chạy, chỉ thấy nó ở nhà ga”. “Vậy thì làm sao mày biết cái thú vị của đi xe lửa được”. “Dạ…”
Thiên sát Thuấn mỗi bước nhỏ, dưới lằn đạn trong mưa dày của xứ Huế, trong hơi nóng bốc lên hừng hực từ núi đá ở Pleiku. Bao nhiêu năm như thế đã trôi qua, tối nay Thuấn thấy chiếc lưng của người lạ ở ngoài mình, một người khác thật lạ, thật xa, một người không chút tương quan tinh thần hay thể xác, người đó bao nhiêu năm gần gũi đến độ nhập vào cùng Thuấn qua một thứ nghĩa vụ do nhà binh xác định… Không có nó chắc mình đói cả trăm lần, nó mắc nợ gì với mình rồi, hình như nó chỉ xa mình một lần khi đọc kinh vào buổi tối trong một ngày… Thuấn đưa tay lên xoa mặt, những sớ thịt rung động trước luồng nước mắt xúc động vô hình như đang đầm đìa trên má. “Có hộp quẹt không Thiên?”
“Dạ có, cái bật lửa bằng vàng, mình có nên lấy cái ví của cha này không, Đại úy?”
“Mai mình chôn nó, đem cái ví vào đây xem ở đâu báo cho nhà nó biết”.
Bên bếp lửa đỏ, Thuấn ngồi lật từng tấm ảnh trong ví của viên sĩ quan phi công, tấm ảnh lớn nhất chụp ở Nha Trang, gã sĩ quan mang quần áo trắng của quân trường chụp chung với một cô gái mặc quần jean, áo pull, gió biển thổi tóc cô gái bay bồng bềnh che nửa mặt. Thuấn nghiêng bức ảnh vào lửa… À, ca sĩ Kiều Ly, cô ca sĩ nổi tiếng chịu chơi của hai tỉnh Đà Lạt và Nha Trang. Một vài người trong khóa Thuấn cũng đã lăng nhăng với cô này. “Chủ nhật vừa rồi con Kiều Ly đi chơi với tao suốt cả ngày, nó cho de tụi dưới Nha Trang để lên đây với tao”. Gã tên Thông oang oang khoe với bọn Thuấn trong phạn điếm, trong khi gã khóa đàn anh đang lườm lườm rình rập. “Nói nhỏ mày, tụi niên trưởng phạt chết cha. C… ĐM… đếch ngán, tụi nó ghen với tao…” Thông cười thật khoái trá. Thuấn đưa bức ảnh cho Thiên trong lúc gã lính mở nắp xem nồi cơm đang chín tới.
“Mày thấy cô này đẹp không Thiên?”
“Không, lùn với chân to dị hợm”. Thiên phê bình sau khi chớp chớp đôi mắt để quan sát.
“Vậy chứ cô ta nổi tiếng lắm đấy. Ở Đà Lạt thằng nào cũng giành nhau để làm quen cô ta, không phải sinh viên sĩ quan mà mấy cha cấp lớn cũng vậy nữa”.
“Đại úy có quen cô ta không?”
“Không, chỉ biết thôi, cô này bồ thằng bạn tao… Ở Đà Lạt tao chỉ mê cỡi ngựa, cỡi ngựa khoái hơn cỡi đàn bà nhiều… cỡi lâu hơn, oai hơn, cỡi đàn bà cao lắm nửa giờ là ngất ngư, mày biết thượng mã phong không Thiên?”
“Dạ không”. Thiên tắt bớt lửa, đứng dậy sau tiếng cười hì hì, che giấu sự không biết của mình về điều Thuấn hỏi.
Thuấn nhìn lại vào tấm ảnh, cô gái choàng tay qua lưng gã tuổi trẻ, dựa đầu vào ngực, nụ cười say đắm và sung sướng. Em cười và chụp hình như thế này bao nhiêu lần rồi? Em nằm ngửa ngất ngư bao nhiêu đứa? Từ tên sinh viên sĩ quan mới lớn đến gã Trung úy, Đại úy sành sỏi, sành sỏi ở bộ râu mép lún phún, điếu thuốc cắn chặt giữa hai hàm răng, kể một lô vũ nữ hạng sang với những chi tiết về mông, vú, thói quen khi làm tình, em cũng đã nằm dưới bao anh Tá đầu hói, bụng bự, em chống hai chân, lắc lư chiếc mông, mông em lớn, chân em lớn, tựa vào thật chắc chắn, xoay xở vững chãi dễ dàng… Em bây giờ ở đâu? Sài Gòn, Đà Lạt hay Nha Trang? Em có nhớ đến gã phi công đã cùng em chụp chung một tấm ảnh hạnh phúc, em có nhớ nụ cười mãn nguyện và vòng tay âu yếm vòng quanh một thân thể chắc nịch mà giờ đây đang nám đen nằm ngửa trên chiếc Jeep bốc khói. Em có nhớ khuôn mặt gã trẻ tuổi đã cùng em qua một đoạn đời hoan lạc, khuôn mặt đó đã tím bầm, thủng lỗ, chảy máu tanh tao bốc mùi trong cơn mưa buốt cóng của xứ Huế.
“Đại úy, ăn cơm, Đại úy?”
“Ừ”. Thuấn ném tấm ảnh vào lửa. “Mày có biết đường Âm Hồn không Thiên?”
“Dạ nó ở phía trên kia, gần hồ Tĩnh Tâm… Đại úy có ai quen ở đó?”
“Không, tao quen làm gì!” Thuấn nghĩ đến Quỳnh Như như một kỷ niệm đã khuất. Chỉ mới hai ngày hai đêm. Thuấn gõ gõ chiếc đũa vào miệng chén… Hỏa châu từ Mang Cá bắn lên váng đục trong sương mù.
“Khi chiều sao Đại úy đòi tấn công lên cái thành làm gì?”
“Thấy thương Hồng và thằng Toàn của Trung đội 1 chết tao nổi sùng, thêm Trung sĩ Thái ở đâu chạy lên lãnh một phát trúng luôn”.
“Tiểu đoàn không cho Đại đội mình lên”.
“Tao điên thôi chứ ông Tiểu đoàn trưởng điên nữa sao? Lên lúc ấy giờ này đâu ngồi đây được, lên là kẹt luôn, về hết nổi”.
“May quá, Tiểu đoàn cho phép Đại úy thì giờ này khổ rồi, lần sau đời đời đừng xin như vậy nữa”.
Lần sau, Thuấn mỉm cười, lần sau đâu có nữa. Đúng như thế, Thuấn cũng lạ với thái độ của mình lúc ban chiều. Hai người chết nằm cong queo, hàm râu đỏ úa bụi của Trung sĩ Thái, hai tay hai người chết, bước chân xiêu vẹo trống trải, loạt đạn cày trên mặt nhựa, người hạ sĩ quan lảo đảo. Tất cả sự kiện gợi nên cảm giác bị săn đuổi thua kém. Không phải vì hai binh sĩ chết, Thuấn đã mất thật nhiều thuộc hạ, Thuấn mất những người rực rỡ, thân ái hơn binh Toàn, binh Hồng như khi mất Thiếu úy Phương trên tay… Trái mìn nổ Phương ngã vào Thuấn áo quần bị xé nát, máu chảy ra từ những lỗ thủng đẫm ướt lồng ngực khoẻ mạnh phơn phớt lông tơ. Phương hai mươi tuổi vừa ra trường được sáu tháng, Phương gọi Thuấn bằng anh thay vì cấp bậc, Phương để râu để trở nên người lớn, Phương tập uống rượu đế ngâm nước đá… Phương sống hồn nhiên và chết tức tưởi. Thuấn mang Phương trên tay chạy bay xuống đồi, cỏ gai cắt đứt mặt, máu và nước mắt Thuấn đẫm ướt vành môi. “Anh Thuấn, Thuấn…” Phương thều thào chỉ vào ngực nơi dòng máu đang chảy, mặt thất sắc, mắt đứng tròng và Phương chết tội nghiệp. Nhưng lúc ấy chỉ có phẫn nộ bề mặt để hét lớn qua máy thúc giục Đại đội tiến lên, tên Việt Cộng bị bắt trói giật hai khuỷu tay được đẩy tới trước mặt chỉ gây cho Thuấn cảm giác chán ngán. Tên Việt Cộng khoảng 15 tuổi, xanh mét, run rẩy dưới cơn sợ không gợi cho Thuấn cảm giác về vóc dáng kẻ thù đúng cỡ. Nhưng chiều hôm nay, khi nhìn hàm răng của trung sĩ Thái trong cơn lao đao, bộ râu mệt mỏi ngang tàng của người hạ sĩ quan xoáy trước mặt Thuấn như tấm bia trụt khỏi tầm đạn đạo… Thuấn nổi giận vì mất hai người lính, nổi giận vì người hạ sĩ quan đã làm một hành động dũng cảm, nhưng tất cả thất bại chỉ vì Thuấn, tình cảm hỗn độn này thúc giục Thuấn nôn nao… Mình vẫn còn háo thắng. Thuấn có cảm giác như vừa trông thấy đàng sau lưng binh nhất Thiên, có những lạ lùng bỗng từ đâu hiển hiện như ánh sáng đột chiếu trong bóng đêm.
[1]Máy bay quan sát của Sư đoàn Dù Việt Nam.