Nghịch lý về tự giác bắt buộc (demanded spontaneity)
Câu hỏi cấp bách, về bản chất không có câu trả lời là làm thế nào bản chất yếu đuối và tội lỗi của con người có thể thoả mãn những đòi hỏi của đức tin tuyệt đối hiện diện trong tất cả các tôn giáo, đặc biệt trong Thiên chúa giáo.
Lòng tin cá nhân vào Thượng Đế phải hoàn toàn tới bực nào? Đạo lý thần học Công giáo phân biệt giữa thực hiện điều răn của Thượng Đế vì sợ sẽ bị trừng phạt nếu cãi lại (một cách tin tốt nhưng không giá trị lắm) và theo lời răn của Thượng Đế vì yêu mến Ngài – một cách phục tùng tự giác. Vấn đề phiền não của kẻ tin giữa tính vô thập toàn của người thường và cuộc sống thánh thiện kiểu Imitatio Christi được biểu tả sâu sắc trong
Người cận vệ tôn giáo vĩ đại (Grand Inquisitor) của Dostoyevski. Sau Dostoyevski, ta nghĩ ngay đến Pascal, vì Pascal, hơn những nhà tư tưởng khác, cố trả lời câu hỏi làm thế nào một người không tin có thể tự thân, chính ra, tự giác, đạt tới tình trạng đức tin. Trong suy ngẫm 223 (Pensee 223), ông phát triển đề luận nổi tiếng bằng cách cho rằng một người có thể tự kêu gọi niềm tin của chính mình bằng cách hành xử như đã có đức tin
[1] – như cầu nguyện, dùng nước thánh, đi lễ và theo những nghi lễ hiến mình. Nếu so với những cái có thể đạt được (niềm tin và sự cứu rỗi linh hồn), Pascal nói, những gì phải làm là “quá nhỏ”. “Có gì để mất đâu?” Ông tự hỏi. Nghịch lý về quyết định tin để có được niềm tin đã được Elster phân tích kỹ lưỡng.
[2] Ở đây, ta lại va phải vấn nạn của tự đối chứng . Elster chỉ ra ngay nếu có thể quyết định tin vào p, một người không thể cùng một lúc tin vào p và tin rằng đức tin của mình vào
p xuất phát từ quyết định tin vào
p của chính mình. Nghĩa là, quyết định tin vào
p (nguyên cớ của niềm tin) không thể cùng một lúc là cái cớ tự nó (lý do của quyết định tin). Do vậy, biện luận của Pascal không chứng minh được sự hiện hữu của Thượng Đế, đúng hơn, nhiều lắm chỉ đưa một bằng chứng tin vào Thượng Đế có thể có lợi – nếu người đó có thể tự mình quên quyết định tin của mình. Cách khác, biện luận của Pascal đề cập tới những đòi hỏi của một cá nhân từ chính mình và với hậu quả nghịch lý hắn phải đối mặt.
Tuy vậy hiện giờ, từ đòi hỏi bên ngoài, nguỵ biện không thể che giấu được nữa. Lý thuyết về trao đổi thông tin giữa con người đã gọi kết quả này là nghịch lý về “tự giác/cảm hứng”. Nói đúng hơn, tình huống khó xử khi một cá nhân
B lệ thuộc vào
A, với
A đòi hỏi hành xử nhất định từ
B, nhưng cách hành xử, theo bản chất phải cảm hứng hay tự giác. Chính vì đòi hỏi, nó không thể tự giác hay tự cảm hứng được nữa. Vấn đề đòi hỏi tự cảm hứng dẫn tới nghịch lý kiểu Russell như đã đề cập trong phần nghịch lý về hoàn thiện và vô tận. Một ví dụ điển hình của nghịch lý “hãy tự giác” là điều ước của người vợ tiềm ẩn trong câu hỏi dành cho chồng mình: “Sao anh chẳng bao giờ tặng hoa cho em nữa vậy?” Chỉ còn hai cách cho chàng: Hoặc anh ta sẽ không tặng hoa cho vợ nữa, và điều này sẽ làm nàng buồn, hoặc anh tặng hoa cho nàng – điều này có thể làm phật ý nàng, vì anh đáng lẽ phải tự giác làm những gì đòi hỏi, chứ không phải vì nàng đã đòi anh làm. Nói cách khác, anh ta làm điều đúng vì lý do không đúng.
Vấn đề tự giác bắt buộc là một phần của tất cả những thực tế của lý tưởng. Koestler nói về điều này trong cuốn
Bóng tối giữa ban ngày (Darkness at Noon) của mình:
Đảng không chấp nhận ước vọng tự do của cá nhân – nhưng cùng lúc đòi hỏi quyết tâm tự hy sinh. Đảng không chấp nhận lựa chọn giữa hai đường lối – nhưng cùng lúc đòi hắn lúc nào cũng phải chọn đúng đường lối. Đảng không chấp nhận quyền lựa chọn giữa xấu và tốt – nhưng cùng lúc đảng lên án tội lỗi và phản bội. Cá nhân đứng ngay dưới tấm biển của tuyệt vọng, một bánh xe trong chiếc đồng hồ đã lên giây đến vô tận không thể dừng – và đảng đòi hỏi phải dừng bánh và đổi hướng chạy. Có cái gì đó không ổn trong cách tính; phương trình không thể giải được. [3] Và nạn nhân trong 1984 của Orwell cũng phải được tạo ra tính tự cảm hứng.
Đối với chúng tôi vâng lời một cách tiêu cực hay ngay cả sự quy phục hèn hạ nhất cũng chưa đủ. Cuối cùng, khi anh đầu hàng chúng tôi thì đấy phải là hành động tự nguyện hoàn toàn. Chúng tôi không bao giờ thịt một tên dị giáo vì hắn còn chống đối chúng tôi: khi nó còn chống đối thì chúng tôi chưa thịt […]Chúng tôi cải đạo hắn, giành lấy khối óc của hắn, cải hoá hắn. Chúng tôi sẽ gột rửa hết ác tâm và ngộ nhận của hắn, đưa hắn về phe với mình, mà không phải bề ngoài đâu nhé, thực sự, bằng cả tâm hồn và trí tuệ kia. Chúng tôi biến hắn thành người đằng mình rồi sau mới giết. [4] (bản dịch của Phạm Minh Ngọc, talawas) Một lần nữa, theo cách tư duy của Elster, ta có thể suy ra không chỉ có hai biểu hiện của từ bỏ, thụ động và chủ động, mà còn có hai biểu hiện thụ động và chủ động của sự chấp nhận và sự phục tùng. Một ví dụ về thụ động có thể là thái độ “tự trốn tránh” (inner emigration) được nhiều người áp dụng thời Hitler. Thái độ tự trốn tránh thường mang biểu hiện bề ngoài “làm như thể” (act as if), và những kẻ lý tưởng phát xít tức sùi bọt mép mỗi lần phát hiện trường hợp này. Tinh thần kiểu anh lính vui tính Schwejk từ thời quân đội hoàng gia Áo, và, trong Thế chiến II, gắn liền với “đâm sau lưng chiến sĩ” (Nazi có luật đặc biệt về “đâm sau lưng” để đối phó tinh thần này) của Binh nhì Hirnschal từ Radio London.
Cả hai kiểu phục tùng này, tay trùm Quốc xã về Khai sáng (bằng vũ lực) và Tuyên truyền biết rõ. Trong bài diễn văn ngày 16/9/1935, Goebbels, chơi chữ từ câu nói về dùi cui của Talleyrand, tuyên bố: “Làm chủ được dùi cui cũng tốt, nhưng tốt hơn nữa khi làm chủ con tim!... Chúng ta phải hướng con tim của dân tộc Đức tới mệnh lệnh hành động”.
[5] Nghịch lý về “tự giác”, ông ta biết rất rõ, như Schneider viết:
Ngạc nhiên nhất là cách hắn biến tự nguyện, tương lai và những gì bất khả dự đoán thành đối tượng của mệnh lệnh: “Lệnh treo cờ được thi hành toàn diện trong nửa tiếng tại thành phố và nông thôn,” hắn ra thông lệnh ngày 1/5/1935 sau cuộc bầu cử Saar (liên bang Đức) […] “Dân chúng tập hợp thành những cuộc diễu hành khổng lồ đầy cảm hứng”. [6] Trong khuôn khổ của lý tưởng, chỉ sự phục tùng tự giác được chấp nhận, vì “Ai không theo ta, chính là chống lại ta.” Theo cách này, lý tưởng đã trở thành một thứ tôn giáo (pseudo-religious). Roger Bernheim, ký giả túc trực tại Moscow của tờ
Neue Zürcher Zeitung, miêu tả phần hệ thống tôn giáo của Đảng Cộng sản Nga:
Đảng có thượng đế của mình. Câu nói “Lenin đã sống, đang và sẽ sống mãi” thuộc về chủ trương của người Cộng sản Nga, và cũng thuộc vào lãnh vực tín ngưỡng của mọi công dân Soviet. Đảng cũng có các giáo chủ và linh mục, kinh thánh và những đề mục, và cả những nghi lễ tôn giáo. Các tuyên ngôn của Đảng mang đầy hình thức lễ nghi. Từ “vĩ đại” thuộc về Cách mạng tháng Mười, từ “vinh quang” dành cho Đảng Cộng sản Soviet, về Lenin là từ “thiên tài” […] Nếu phải nói tới sự ủng hộ của nhân dân Soviet với Đảng, sự ủng hộ này phải tuyệt đối, nhiệt thành và vô điều kiện. Công nhân, nông dân và trí thức của nước này “một lòng đoàn kết với Đảng”. [7] Trong cái vũ trụ vô lý của cảm hứng bắt buộc, quyền lực nhà nước đi quá việc cấm đoán những hành động mang tính chống lại xã hội, tự mang cho mình trách nhiệm áp đặt tư tưởng và niềm tin của công dân. Trích dẫn kết luận chính xác của Revel, “trong xã hội toàn trị, nhà nước tự cho mình nhiệm vụ ban phát ý nghĩa cho cuộc sống”
[8] . Vì vậy, tư duy độc lập là phá hoại, và cuộc sống trở thành một thứ địa ngục đặc biệt. Theo tờ báo văn chương ngoài luồng, Samisdat, địa ngục này gồm:
Sự phục tùng toàn diện về tinh thần vượt qua mọi ràng buộc về thể xác hay kinh tế, một đòi hỏi luôn luôn và tự giác tham gia vào cuộc dối trá ai cũng biết. [9] Trò dối trá này tự tạo ra những sự hoa mỹ. Từ hiện tượng khóc vì vui mừng khi thấy bộ mặt thần tượng của Fuhrer (một người, Reck-Malleczowen,
[10] bất cẩn gọi “mặt cứt” không bao giờ trở về từ trại tập trung) là lời kinh đơn điệu kéo dài của bản tụng ca đơn thuần trong một thực tế đặc trưng của mọi lý tưởng, ngay cả hiện tại. Vì chả có gì khác nhau giữa giọng văn to tát và truyền cảm đã thần tượng hoá tình yêu chớm nở giữa một thanh niên từ Hitler-Jugend (tạm dịch: Đoàn Thanh niên Hitler) và thiếu nữ thuộc Deutscher Mädchenbund trong khu rừng xào xạc hoặc trong rừng cờ và biểu ngữ, bên kia là nhóm sinh viên nam nữ trong hành lang đầy hơi ngạt của trường Sorbonne tháng 5/1968, hoặc truyện ngắn Trung Hoa
Vai trò tình yêu (Role of Love) kể về mối tình của tác giả với một thanh niên:
Chúng tôi bắt đầu hỏi nhau “Có thấy đoàn xe tang thủ tướng Chu đi vào đường Changan tới lễ tang thế nào không? Bạn đã đứng ở đâu vậy? Có nghe phần đọc thơ tưởng niệm thủ tướng Chu Ân Lai không? […] Lần đầu tiên nghe về thất bại của Bộ Tứ lúc nào vậy” Càng nói, tôi càng thấy chúng tôi có rất nhiều điểm chung. [11] Lời dối trá rõ rệt trong nghịch lý “cảm hứng bắt buộc” phải được làm cho có vẻ. Vì lý do đó, tuyên truyền và, trên hết, nghệ thuật đã sửa sang để phù hợp với lý tưởng phải được huy động. Ấn tượng bề ngoài phải được tạo nên bằng nghệ thuật để tạo nên một cảm giác mê say nhiệt tâm trong tất cả - và ai không tự cảm thấy thì nên coi lại bản thân thay vì xét lại cái thực tế chính thống. Coi như ta phải phát triển các tình cảm này kiểu Pascal cho tới tự phát, tới lúc đó ta sẽ cảm thấy Hua, người kế vị Mao, như Yu Kuan Lee diễn tả trong thơ mình
Trái tim rộn ràng Làm nghẹn cổ Những giọt lệ sung sướng Làm mờ mắt . Nhưng qua một rừng cờ đỏ Và một biển hoa Tôi thấy, tôi thấy Chủ tịch Hua tại Thiên An Môn Trong bộ quân phục màu xanh. [12] Không phải ai cũng thành công với trò lừa lọc cảm hứng mê say này. Những gì Thomas Brasch bên Tây Đức viết trong tác phẩm hài hước
Tự phê (Self-Criticism) khác hẳn, thật hơn và [mang tính] người hơn:
Tôi nhận rồi. Tôi bị lạc đề. Tôi không đứng lên. Tôi chỉ cậy đất ở ngón chân. Tôi chưa bao giờ nhiệt tình […] Chúa ơi, bọn phản động thối rữa giữa răng tôi. Chúa ơi, ngọn gió. Nó thổi qua những tư tưởng mang tính dân tộc của chúng ta.
[13] Những gì được đề cập tới lúc này chỉ đúng khi quyền lực nằm trong tay kẻ lý tưởng. Trong lúc chờ đợi, nghịch lý “cảm hứng bắt buộc” có nhiệm vụ khác. Nhiệm vụ này xuất phát từ việc cần thiết để tạo ra nhận thức cách mạng. Cách tạo ra này gọi là nâng cao nhận thức. Quá trình dẫn tới hoàn thiện phải có ý thức sâu sắc về thiếu sót của thế giới; dù vậy có vẻ một trong những điểm yếu của con người là khả năng chịu đựng phần lớn thiếu sót. Marx đặt ra từ huyền thoại hoá (mystification) cho “cả việc giai cấp thống trị tạo ra điểm mù, lẫn sự tiếp tục hiện diện của nó. Kẻ đấu tranh cho sự toàn vẹn, vì vậy, phải trước hết xoá bỏ huyền thoại. Đơn thuần và khách quan chỉ ra và phê phán những yếu kém hoàn toàn không đủ. Để hoàn thành mục đích, phẫn nộ có thể không nên lập lại một cách máy móc, mà thật ra phải tự cảm thấy. Chỉ tới lúc đó lời kêu gọi về sự toàn vẹn mới được hưởng ứng nồng nhiệt. Không gì đáng ghét cho mô hình của những kẻ cứu nhân độ thế hơn là ý niệm tự kiềm chế, hoặc phải chấp nhận sự thiếu sót của những gì có thể. Vì vậy, cuộc tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi nóng bỏng càng có dịp xảy ra, nhất là tại những quốc gia có được một nền tự do, an toàn và thừa mứa chưa từng thấy trong lịch sử con người. Cũng vì tình trạng này của thế giới là kết quả của sự tiến bộ vượt bậc của khoa học, khoa học – nhất là trong thời đại này – từng bước đi vào tầm ngắm của kẻ lý tưởng .
Tuyên ngôn về tính khoa học Nếu thực tế không đồng thuận với lý thuyết,
Mặc kệ thực tế.
Hegel, Marcuse trích
Với mức khả tín ngày càng tăng về một thấu hiểu toàn vẹn thực tế bằng quan sát khách quan và thí nghiệm có thể lập lại, khoa học bắt đầu thay thế chỗ trống hệ ý thức tạo ra do sự lụi tàn của những ý tưởng vĩ đại về tôn giáo, đạo lý hay triết lý khoảng trăm năm trở lại. Phải công nhận. có một số đại diện ban đầu về tính cứu rỗi của khoa học, như Bacon và Descartes. Dù vậy, trước đây các dự án chính trị về xã hội không tưởng gắn liền với một mặc khải thần thánh nào đó đã bị loại bỏ, và gần đây, được thế chỗ bởi khoa học.
Ý niệm này rất hấp dẫn trong tính đơn giản và rõ ràng: Ai nắm bắt được nguyên lý phức tạp của tự nhiên, vì tư thế hiện diện hoàn toàn độc lập với tư tưởng, đức tin, thành kiến, hy vọng, giá trị và những thứ khác của con người, có thể sở hữu chân lý vĩnh cửu. Nhà khoa học đảm nhiệm vị trí kẻ đi tìm Thượng Đế, chân lý khách quan thay thế tín ngưỡng dị đoan:
Ta phải tính đến tình trạng hiện tại của vũ trụ như là kết quả của một tình trạng đã qua và nguyên cớ cho những gì sắp đến. Giả dụ, một bộ nhớ có khả năng thấu hiểu mọi tác động tạo nên chuyển động trong thiên nhiên và vị trí tương đối của thực thể tạo ra nó – một bộ nhớ đủ lớn để có thể đưa dữ liệu để phân tích – nó phải bao gồm những chuyển động của những vật thể lớn nhất trong không gian và của nguyên tử nhỏ nhất trong một công thức, đối với nó, mọi thứ phải được chắc chắn và tương lai, cũng như quá khứ phải hiện diện trong tầm mắt. [14] Ngay từ 1840 Laplace dùng những từ trên để phác thảo ý niệm về Tận Thế học thế tục. Tuy vậy, cho công bằng, cần nhấn mạnh ông ta đã quan tâm tới yếu tố không tưởng bằng cách dùng sự thể có điều kiện.
Những nhà tư tưởng sáng giá từ thời Giambattista Vico đã liên tục nhấn mạnh các lý thuyết hoặc giả thuyết khoa học khá lắm chỉ là một hình ảnh, một cách giải thích thế giới, và chính nó không phải thực tế. Chính với ý niệm này mà tập sách được hoàn tất như một đóng góp cho nghiên cứu. Vào thời điểm này, ta chỉ muốn khảo sát kết quả thực tế từ ngộ nhận rằng thế giới có thể (đã) được khoa học giải thích, hoặc nói cách khác, khảo sát những gì xảy ra khi lý tưởng cố dùng khoa học để biện hộ cho những tuyên cáo về chân lý của mình.
Sự chính xác của kết luận khoa học là gì? Nếu tính trong cuộc sống thường nhật, ta có thể chấp nhận chúng có một độ chính xác tương đối. Quan sát một vật thể rơi tự do trong môi trường chân không ở mực nước biển, giả dụ chúng xảy ra dưới những điều kiện giống nhau – đều cho kết quả hoàn toàn giống nhau. Ở đây ta tạm quên một sự thật rằng quan sát không giải thích nguyên cớ của hiện tượng, cũng không xác lập một khả đoán thống kê rằng vào lần thứ 1001 vật thể sẽ xử sự đúng như vậy (thay vì, ví dụ, bay ra khỏi trái đất). Đối chiếu lại một số vấn đề tôi đã phân biệt, có hai phần khác nhau rõ rệt của cái ta gọi là thực tại. Để mở đầu, tính chất của vật thể, ta sẽ gọi đây là thực tế thứ nhất. Và vì vậy, thực tế này bao gồm toàn bộ những “sự thật” từ quan sát hoặc thí nghiệm (cả hai, dĩ nhiên, là sản phẩm của lý thuyết nào đó), nghĩa là, một tổng thể những sự thật được xác lập khách quan khi sự lập lại nhiều lần cùng một thí nghiệm cho ra cùng kết quả dù do ai, ở đâu, lúc nào thí nghiệm được thực hiện (Ta cũng không để ý tới điều này chỉ có thể nếu tất cả những người tham gia xử dụng cùng một hệ thống ngôn ngữ và ý nghĩa. Tháp Babel không xây dựng được vì Thượng Đế ra lệnh cho thiên thần của mình “xuống và làm rối ngôn ngữ của chúng”).
Tới đây ta rất muốn đi tới một nhận định, với lý luận rõ ràng, đã tìm ra chìa khoá dẫn tới cách diễn giải tuyệt đối về thế giới, và với nó, bản hướng dẫn tuyệt đối về thái độ đúng đắn của con người đối với thế giới, nhân loại và ngay sự hiện diện của bản thân. Vì chân lý đã có sẵn cho mọi người có lòng tốt, chỉ bọn điên, lì và phá hoại mới chống lại lý trí.
Cái mà sự tầm thường hoá tai hại này bỏ qua là sự thật rằng thực tế thứ nhất không đề cập tới ý nghĩa của sự tồn tại. Đối với chúng ta, luật sức hút quả đất không dạy ta biết thêm gì ngoài những điều chúng ta đã biết: Té từ trên cao sẽ chết. Ý nghĩa của sự sống (và chết) không từ đó mà ra. Shakespeare không biết một triết gia nào thoát khỏi đau răng. Trong
Tractatus, Wittgenstein viết:
Ta cảm thấy khi tất cả mọi câu hỏi khoa học đã có lời giải, vấn đề cuộc sống vẫn còn nguyên vẹn chưa có lời giải đáp. Tất nhiên chẳng còn câu hỏi nào tồn tại lúc đó, và chính điều này là câu trả lời. [15] Dù vậy thực tế đề cập ở đây (mà lý tưởng đề nghị đưa ra lời giải) không phải thực tế của sự thật khoa học tầng thứ nhất, đúng hơn liên quan tới phần của thực tế mà sự thật thứ nhất được gán nghĩa, thứ bậc và giá trị. Một đứa trẻ bình thường có thể nhận thức được đèn đỏ nhưng không biết đèn đỏ cấm qua đường hoặc nó chỉ nhà thổ. Ý nghĩa này của đèn đỏ chả dính dáng gì tới bước sóng hay đại loại; đúng hơn, [nó chỉ là] chuẩn mực con người quy định mọi hiện hữu như ký hiệu – và rõ rệt hơn - mọi từ, chẳng liên hệ gì tới sự vật mà nó mang tên (ngoại trừ từ tượng thanh [onomatopoetic]). Như Bateson và Jackson đã nói: “chả có gì thật sự là năm trong số 5, chả có gì thật sự là bàn trong từ bàn cả”,
[16] vì vậy, cập nhật cách biểu tả của Shakespeare, “Không có gì xấu hay tốt, nhưng ý nghĩ của ta làm nó thế.” Phần của thực tế bao gồm một tập hợp ý nghĩa, thứ tự và giá trị được gọi thực tế thứ nhì. Khi ý kiến khác nhau, vẫn có lý phần thực tế thứ nhất tham khảo ý kiến của ai sát với sự thật cụ thể nhất và ai sai, về thực tế thứ nhì, chỉ cãi vã vô ích về “chân lý” khoa học hoặc tuyên bố đã tìm ra “chân lý”. Ta sẽ lấy một trong nhiều ví dụ. Không có cách giải quyết “khoa học”, “khách quan” nào cho mâu thuẫn giữa các nước Arabs và Israel, cũng không có giải quyết nào kiểu đó cho sự bất hoà giữa hai cá nhân trong một mối quan hệ. Các mối quan hệ không phải lãnh vực của thực tế thứ nhất và các đặc tính thật sự của nó có thể quyết định bằng khoa học. Thay vào đó, chúng là sản phẩm tuyệt đối của cá nhân trong mối quan hệ, và vì vậy từ chối mọi quan sát khách quan. Như vậy niềm tin thơ ngây vào lý lẽ dựa trên kiến thức khoa học không còn là quyền lực tuyệt đối. Cùng lúc, hy vọng vào “con người với bản chất tốt đẹp” (Rousseau) và bản chất tốt đẹp của hắn phát triển từ tuân thủ tự giác và hợp lý các hệ thống giá trị được khoa học minh xác, và với hắn, ước mơ và khát vọng cá nhân song hành với xã hội, chỉ là ảo tưởng và thất vọng.
Đây chính là cây thánh giá của những xã hội không tưởng khoa học về một xã hội khoẻ mạnh, hiền hoà, hiến dâng: tuyên bố về tính khoa học của lý tưởng, một tuyên bố phát xuất từ mù mờ giữa thực tế thứ nhất và nhì. Khi điều này xảy ra, sẽ tạo ra một thực tế mà kết quả không cần thiết giống với thế giới bắt buộc của một lý tưởng “phi khoa học” khác. Trong tâm lý học cổ điển, có một sự ngộ nhận thơ ngây rằng tồn tại một thực tế thật mà người bình thường (các nhà tâm lý, hơn ai hết) biết rõ hơn kẻ điên. Khi nguyên tắc của cứu rỗi nhân loại dựa trên khoa học áp dụng cho xã hội, xuất hiện một niềm tin - như Anderson và Radnitzki đã sâu sắc chỉ ra trong một câu trả lời
[17] - vào sự thu hẹp giữa cái là và cái phải là, một hy vọng thực hiện ước mơ hàng thế kỷ của nhân loại về một thế giới trong đó sự thật tuyệt đối song hành với ước mơ và nguyện vọng của con người.
Khi một lý thuyết khoa học cuối cùng được bọn ăn bám chính trị vào nhà nước để xác nhận tính chính thống, làm tăng lời biện hộ cho sự tồn tại của chính quyền, bức màn sắt của nguỵ biện được hạ xuống. Huyền thoại của thế kỷ 20 (thuyết chủng tộc đưa luận chứng cho việc hàng triệu người bị xem như vô dụng và trừ khử) của Alfred Rosenberg hoặc thuyết di truyền đặc điểm tiếp thu (theory of genetic transmission of acquired characteristics) (dẫn đến cái chết của những đồng sự đã lên tiếng phản đối, và làm tê liệt ngành di truyền học hàng mấy thập kỷ) của Trofim Denisovitch Lysenko là các ví dụ sáng ngời – càng tuyệt vời hơn nếu ta biết ngay trong thời của họ, những “lý thuyết” này đã là phi lý. Trong thế giới của những kẻ lý tưởng khoa học, không có chỗ cho nghiên cứu sâu hơn, cho bắt bẻ những ngộ nhận từ trước hoặc nghi ngờ những gì có sẵn. Những chuyện bình thường trong khoa học tự do trở thành bội phản và phản động khi những kẻ cầm quyền tưởng tượng đang nắm sự thật tuyệt đối.
Thật vậy, thường thì thực tế cuộc sống mới là phản động vì đã đi ngược lại lý tưởng. Những kẻ lý tưởng lúc đó thường phải làm một bước nhảy, khốn nạn cho những ai không thích ứng kịp. Sự thật hôm qua thành phản động ngày hôm nay. Những ai đã bị ám hại được phục sinh thành thiên tài.
Thoái hoá (Enantiodromy) Nhưng nơi nguy hiểm, giải thoát cũng đâm chồi
(Hölderlin)
Từ thời Heraclitus, nhà tư tưởng lớn về đổi thay, chúng ta hiểu thoái hoá là quá trình chuyển tiếp qua phía ngược lại của vấn đề. Mẩu tư tưởng 45 đọc “Thay đổi ngược lại là sự phù hợp hoà hoãn với đối lập.” Sau Heraclitus, nhiều nhà tư tưởng qua nhiều thế kỷ đã miêu tả và cố giải thích hiện tượng này và biến dạng của nó. Theo cách suy nghĩ cổ điển một chiều kiểu suy diễn, những tiến triển kiểu này hoàn toàn vô lý và không có lời giải thích. Có vẻ chỉ có tư duy hiện đại với ý niệm về hệ thống và đặc thù mới có thể đưa ra một tiếp cận thiết thực mang tính khái niệm. Những công trình của nhà khoa học đoạt giải Nobel, Ilya Prigogine – rất khó đọc cho độc giả không có kiến thức về sinh vật, vật lý và hoá học – rất đáng được để ý. Trong cuốn
Từ hiện hữu đến hình thành (From Being to Becoming)
[18] về những hệ thống tự huỷ như một phương thức diễn giải về thoái hoá, Prigogine chỉ ra các chức năng củng cố và làm lỏng của những hệ thống này cũng có thể áp dụng cho các hệ thống xã hội. Hoàn toàn nhấn mạnh, ấn tượng chúng ta có được là có thể nhận thấy thoái hoá gần như chắc chắn khi một trạng thái hoặc định hướng nào đó trở thành cực đoan. Điều này có thể áp dụng được trong những thực tế do lý tưởng tạo ra. Vì ở đó – như ta đã chứng minh – mọi thứ đi ngược lại đều coi như không hiện diện và làm cho không hiện diện. Ngay cả như vậy, lý tưởng tự mắc vào phản đề ngầm của chủ động từ bỏ. Như Elster đã nói trong bản phân tích về vô thần (tr. 184), đức tin âm tính của một kẻ vô thần vẫn gắn liền với Thượng Đế, chắc chắn như là kẻ có đức tin (còn hơn thế nếu kẻ tin không muốn cải đạo); vì “sự bất lực của vô thần hiển hiện đúng vì nó muốn đạt một vấn đề không thể: Xác lập một tình trạng thụ động từ bỏ bằng chủ động từ bỏ.”
Nếu vấn đề này chỉ diễn ra trong đầu kẻ lý tưởng, nhân loại chỉ nhún vai hay cười. Nhưng một khi thoái hoá như là một đặc thù trong xây dựng thực tế lý tưởng được đưa vào thực tế thay vì tưởng tượng, cái nhún vai hoàn toàn không đủ. Nhân vật Shigalov trong tiểu thuyết
Quỷ ám (The Possessed) của Dostoyevsky là một ví dụ như vậy. Shigalov là tác giả của một hệ thống xã hội không tưởng mà qua nó “kiểu mẫu hiện tại của xã hội sẽ được giải phóng.” Như ta đoán, hệ thống này rất phức tạp. Hắn ta sẵn sàng giới thiệu bản tóm tắt cho đồng chí của hắn, nhưng cảnh báo từ đầu rằng sẽ kéo dài khoảng mười buổi tối, mỗi buổi cho một chương. (Tiếng cười đâu đó) Tôi phải thêm, dù vậy, hệ thống của tôi chưa hoàn hảo. (Lại có tiếng cười) Dữ liệu của chính mình làm tôi bối rối, và kết luận mâu thuẫn trực tiếp với ý tưởng ban đầu của chính tôi. Bắt đầu với tự do vô hạn, tôi đi tới toàn trị vô hạn. Tôi sẽ thêm, tuy vậy, không còn cách nào khác cho một công thức xã hội ngoài của tôi. (Tiếng cười càng lớn)
Dù nhân vật Shigalov chỉ là tưởng tượng, vấn đề của hắn thì không; thật ra, đó là thực tế tàn khốc của nhiều nước khi chủ nghĩa Shigalovism lên ngôi. Càng chủ động từ bỏ, những thứ bị từ bỏ càng đổ xuống người tạo ra. Freud đề cập tới sự trở lại của trí nhớ bị ẩn giấu; với Jung mọi cực đoan về tâm lý “tàng ẩn phản đề của chính nó, hoặc có mối quan hệ mật thiết” [25]. Lenin tưởng đã “triệt tiêu bệnh quan liêu,” nhận thức thoái hoá khá cay cú. Heinz Abosh tư duy về điều này như sau:
Một nền quan liêu mới, lớn hơn với quyền lực tuyệt đối hơn xuất hiện từ đổ vỡ của bộ máy cũ. Những năm cuối đời, Lenin lúc nào cũng than phiền về hình thái phát triển bệnh hoạn này; ông không còn hoan nghênh “huỷ bỏ” hệ thống quan liêu, chỉ tiếc những thành quả khả quan của nó. Trong một thư mật năm 1922, ông xác nhận đất nước Soviet “đã bị chế độ của Nga hoàng chiếm lấy, và được phủ một lớp sơn Soviet mỏng”[1].
Không phải kẻ lý tưởng nào cũng bi quan về đổ vỡ của lý tưởng. Mấy kẻ khủng bố xuất hiện sau nhiều năm trong bóng tối có vẻ muốn chứng minh lòng hối hận của mình bằng ngây thơ và chân thật rằng con người là lầm lỗi. Chủ tịch nước Cambodia Khieu Samphan với luận án Sorbonne của mình đã tạo ra tiền đề và biện hộ về lý tưởng cho Khmer Đỏ trong việc tàn sát 250,000 người và làm 1 triệu người khác chết dần trong khổ sai và đói khát, giải thích với
Liên hiệp Báo chí Quốc tế (United Press International) ngày 20/8/1980,
Bây giờ chúng tôi đã nhận thức không thể có cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời đại này. Mục đích chúng tôi muốn thực hiện khi còn sống là sự tồn vong của Cambodia […] Mọi người vẫn còn sợ nhưng chúng tôi muốn nói rằng chúng tôi theo chủ nghĩa dân tộc trước khi là cộng sản và chúng tôi nhận ra không thể thực hiện ước vọng của chủ nghĩa xã hội.
Sự đổ vỡ của lý tưởng không chắc dẫn đến cảm nhận đầy đủ về những ngộ nhận chết người trong ý thức hệ lý tưởng, chỉ dẫn đến ngộ nhận mới. Vì cùng lắm ta chỉ biết những gì thực tế không là. Hay như Von Glaserfield chỉ rõ trong đóng góp của mình (tr. 39):
Nghĩa là thế giới “thật” tự hiển hiện ngay tại nơi lý lẽ đổ vỡ. Và vì ta có thể tả rõ và giải thích sự đổ vỡ bằng chính ý niệm ta đã dùng để xây nên những hệ thống thất bại, ta không thể nào nhận thức được lý do chính dẫn đến thất bại.
Rất khó để nhận thức sự thật về thoái hoá rằng phần tối của lý tưởng khi đưa ra thực tế không thể đổ lỗi cho “tai nạn nghề nghiệp”, cho sự bất tài của cấp dưới hoặc cho phá hoại của kẻ thù nào đó trong hoặc ngoài Stolzenberg cho ta một lý do khi chỉ ra (tr. 265) rằng ta chỉ có thể thoát ra cái bẫy của một tư tưởng tuyệt đối bằng cách không coi tư tưởng này là sự thật – tồn tại độc lập và dẫn tới một số kết luận cụ thể - và, thật ra, chất vấn chính tư tưởng tuyệt đối này.
Duverger đưa ra chính vấn đề này trong cuốn
Những người trồng cam ở hồ Balaton của mình:
Nhưng nếu Marx đã không bị phản bội? Ông không mong các chế độ thậm tệ nhận rằng [chúng] theo tư tưởng của ông. Chúng có lẽ làm ông kinh hãi. Nhưng nếu chúng không phải là quái thai, một lầm lạc hay phản bội đối với hệ thống tư tưởng của ông? Nếu chúng cho ta thấy lý luận tiềm tàng trong hệ thống tư tưởng của ông, đẩy tới kết quả cuối cùng? [19] Và xuyên suốt cuốn sách, Duverger khéo léo chỉ ra những vi phạm chính là hậu quả xuất phát từ bản chất của lý tưởng .
Ngày hôm nay, nhóm “tân triết học” của Pháp đang nói rõ những gì Solzhenitsyn đã từng nói, và vì vậy – cách đây chưa đầy 10 năm – ông ta bị kết án bôi bác sự thật. Bernard-Henri Levy, trong cuốn
Dã man mang bộ mặt người (Barbarism with Human Face)
[20] của mình, viết, “không có sâu trong quả táo, tội lỗi sau này mới xảy ra, mà đúng hơn, con sâu là quả táo và tội lỗi là Marx.” Andre Glucksman đi tới cùng kết luận trong
Bậc thầy tư duy (Master Thinkers)
[21] : Không có trại cải tạo của Nga nếu không có Marxism. Và Monique Hirshhorn tóm lược sự phát triển này với những lời sau:
Sau khi tỉnh giấc khỏi sự kiên định cứng đầu, các triết gia mới đang khám phá ra sự thật đơn giản đến không ng . Mối liên quan giữa Gulag và Marx quá rõ ràng. Không phải một thiếu sót có thể giải thích được bằng thói quan liêu, phản bội của Stalin hay sai lầm của Lenin. Thật ra, đây là hậu quả lý luận trực tiếp và không thể tránh được của những nguyên tắc Marxism. Xã hội phi giai cấp không phải là một tầm nhìn khai sáng, mà đúng hơn, cái tên khác của kinh hoàng. [22] Một trong những hậu quả của tư duy suy diễn đơn giải là sự thoái hoá – mặc cho tất cả minh chứng lịch sử ngược lại – hoàn toàn không hiện hữu trong tư duy của những kẻ lý tưởng và tiên tri, vì vậy họ hoàn toàn không ngờ. Tệ hại hơn, những kẻ suy nghĩ hai chiều đã áp đặt tư tưởng của chính họ vào con người, đạo lý và luật pháp. Người tốt nào không muốn đứng sau những từ hấp dẫn như xã hội phi giai cấp, tự do, bình đẳng, bác ái và những thứ đại loại? Đối với đa số, khi tỉnh giấc thì đã quá muộn – ngoài tay vệ sĩ tôn giáo vĩ đại (của Dostoyevsky), hắn đã biết [từ trước]. Bất kể lý tưởng là gì và ở đâu, kết quả cũng thế. Bất kể sự công bằng do Marxist hay tư bản tạo ra, đều dẫn tới những hậu quả đặc thù. Cố gắng quân bằng hoá sự đa dạng tự nhiên của con người đều dẫn tới hậu quả không thể tránh được của mất cân bằng nghiêm trọng do toàn trị. Tương tự, tự do bị xoá bỏ có thể do chú trọng vô giới hạn và quá lo lắng bảo vệ tự do.
Cái một kẻ lý tưởng không thể chấp nhận trong cuộc tìm kiếm sự hoàn hảo, ngay cả lúc hắn nhận ra, là một chân lý từ cổ xưa được khám phá đi khám phá lại, càng lúc càng có lý trong những thập niên gần đây, và áp dụng cho rất nhiều ngành. Chân lý đó là: Các hệ thống phức tạp – xã hội loài người, lấy ví dụ - mang bản chất năng động, nghĩa là tự điều chỉnh, và mọi thứ đi ngược lại khuôn mẫu tự nó sẽ dẫn tới điều chỉnh các vấn đề nguy hiểm cho hệ thống hoặc hạn chế xu hướng phát triển tự nhiên. Nhưng mọi thứ đang phát triển, vì vậy, không thể nào hoàn toàn – và thực tế lý tưởng không thể chấp nhận điều này. Trong những hệ thống phức tạp, đổi thay và tiến hoá từ các phần tử mới đầu tưởng là sai lạc và bệnh hoạn; nhưng nếu không có chúng, hệ thống sẽ nhũn hoá thành một thứ bất lực vô vọng. Chính vì vậy, kẻ thù tưởng là rành rành phải được xem như con cừu đen đối lập hoặc cái xấu cần thiết hơn là những gì phải trừ khử.
Các nhà tư tưởng theo trường phái kiến tạo (constructivism) sẽ cố gắng đưa tới lời giải thích rõ ràng hơn về vấn đề phức tạp này và về thứ lý luận – tuy không thể giải thích theo kiểu lẽ thường – tự khẳng định và chuyển hoá một cách ngược ngạo. Phần bạt sẽ bàn tới nhiều hơn về sự thăng trầm của trường phái kiến tạo. Trong khi chờ đợi, câu nói của Winston Churchill cho ta một tia hy vọng:
Dân chủ là một kiểu nhà nước tồi, nhưng tôi không biết một hình thức nhà nước nào tốt hơn.
Bản tiếng Việt © 2008 talawas
[1]Ovid, trong cuốn
Nghệ thuật của Tình yêu (Art of Love), cũng nói tương tự như vậy về tình yêu “Tự thuyết phục bạn rằng bạn yêu [khi bạn có những] khát khao tạm thời. Vậy hãy tin… Một người yêu thương đúng đắn là người đã tự khuyên chính mình tìm vào cảm xúc này.”
[2]Elster, Jon. Ulysses and the Sirens:
Studies in Rationality and Irrationality. Cambridge University Press, London, 1979, p. 47-54
[3]Jones, Jim. Quoted in
San Francisco Chronicle, 15. 3. 1979, 5
[4]Orwell, George.
1984. Harcourt, Brace, New York, 1949, p. 258
[5]Goebbels, Joseph, Schneider trích dẫn [52, p. 126]
[6]Schneider, Wolf. Op . cit . p.128.
[7]Bernheim, Roger. Der “kirchliche” Aspekt der sowjetischen KP.
Neue Zürcher Zeitung, 16. 8. 1970, 3
[8]Revel, Jean-Francois.
La Tentation totalitaire. Laffont, Paris, 1976, p. 320. Trong xã hội toàn trị, nhà nước khoác lấy nhiệm vụ mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Và Revel thêm, “Mặt khác, nhà nước tự do thường tạo điều kiện để tập thể không bao giờ áp đặt cách sống hoặc ý thích lên cá nhân.
[9]Solzhenitsyn, Alexander, et al.
Stimmen aus dem Untergrund. Zur geistigen Situation in der USSR. Luchterland, Darmstadt, 1975.
[10]Reck-Malleczewen, Fritz P.
Tagebuch eines Verzweifelten. Goverts, Stuttgart, 1966
[11]Mader-Bogorad, Yvonne. Literatur als Zerrspiegel der Wirklichkeit.
Neue Zürcher Zeitung, 5./6. 5. 1975, p. 70
[12]Yu Kuan-Lee Trích dẫn trong
Neue Zürcher Zeitung, 12./13.3 1977, p. 5.
[13]Brasch, Thomas. Selbstkritik. Trong Kargo: 32.
Versuch auf einem untergehenden Schiff aus der eigenen Haut zu kommen. Suhrkamp Taschenbuch 541, Frankfurt am Main, 1979, pp. 160-161.
[14]Laplace, Pierre Simon de.
A Philosophical Essay on Probability (Frederick Truscott và Fredereck L. Emory dịch). Dover, New York, 1951, p. 4
[15]Wittgenstein, Ludwig.
Tractatus Logico-Philosophicus. Humanities Press, New York, 1951, p. 186
[16]Bateson, Gregory và Jackson, Don D. Một số trạng thái khác nhau của cơ cấu mầm bệnh. Trong
Disorders of Communication, Vol. 42 (David McK. Rioch, ed). Research Publications, Association for Research in Nervous and Mental Disease, Williams và Wilkins, Baltimore, 1964, pp. 270-283
[17]Anderson, Gunnar, và Radnitzky, Gerard. Finalisierung der Wissenschaft im doppelten Sinn.
Neue Zürcher Zeitung, 19. /20.8. 1978, 33.
[18]Prigogine, Ilya.
From Being to Becoming. W.H. Freeman, San Francisco, 1980.
[19]Duverger, Maurice.
Les Orangiers du Lac Balaton. Le Seuil, Paris, 1980, p. 9
[20]Kevy, Bernard-Henry.
Barbarism with a Human Face (George Holoch dịch). Harper and Row. New York, 1979
[21]Glucksman, Andre.
The Master Thinkers (Brian Pierce dịch). Harper and Row, New York, 1977.
[22]Hirshhorn, Monique. Les Nouceaux Philosophes: L’Écume et la vague. Stanford French Review 2, 1978, 301-313