© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
3.9.2008
Aleksandr I. Solzhenitsyn
Tầng đầu địa ngục
Hải Triều dịch
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12 
 
8. Năm thứ năm sống trong lao tù

Họ để hết tâm trí vào cuộc nói chuyện tay đôi ấy đến nỗi họ không còn nghe thấy những tiếng động trong phòng hoặc tiếng nhạc phát ra từ chiếc radio ở góc phòng đằng kia. Một lẫn nữa Nerzhin xoay cái ghế anh ngồi để quay lưng vào phòng nhìn ra cửa sổ. Rubin cũng ngồi nghiêng, tay khoác lên thành ghế, bộ râu đặt trên cánh tay anh.

Nerzhin nói bằng một giọng nồng ấm, chân thành, như người nói ra những ý tưởng đã được suy nghĩ rất chín trong một thời gian rất lâu:

“Khi tôi còn tự do, tôi thường đọc những quyển sách trong đó có những người hiểu biết viết về ý nghĩa của cuộc sống và bản thể của hạnh phúc. Khi đó tôi chẳng hiểu gì nhiều về những vấn đề được viết trong những quyển sách dày đó. Tôi nghĩ: những người hiểu biết phải suy nghĩ. Suy nghĩ là nghề của họ. Nhưng còn ý nghĩa của cuộc sống? Chúng ta sống – đó là ý nghĩa cuộc sống. Còn hạnh phúc? Hạnh phúc là khi nào mọi việc xảy ra như ý mình mong muốn, ai cũng hiểu như thế. Xin cảm tạ Thượng đế đã sinh ra nhà tù. Nhà tù giúp cho tôi cơ hội và điều kiện để suy nghĩ. Để có thể hiểu được bản thể của hạnh phúc, ta cần phải phân tích tình trạng no đủ, thừa thãi, chán mứa trước. Hãy nhớ lại Lubyanka. Hãy nhớ lại những tô súp loãng không có lấy được một giọt mỡ ở đó. Anh có thể nói được rằng anh ăn thứ súp đó được không? Không, anh hòa mình với nó. Anh đưa nó vào cơ thể như một thứ bánh thánh, như hạt mè của những vị tịch cốc tu tiên. Anh đưa nó vào miệng anh chậm chạp, từng tí một, anh thận trọng khi cho nó vào miệng, thành kính như anh đang làm một hoạt động có tính cách thiêng liêng, anh ăn và nghĩ đến ăn và nó thấm trong cơ thể anh như một thứ nước hồi sinh. Anh run rẩy vì mùi vị ngọt đậm của những hạt lúa mì trôi trong chất nước sền sệt đó. Thế rồi, gần như không được ăn uông gì cả, anh tiếp tục sống sáu tháng, mười hai tháng. Anh có thể so sánh việc ăn ngấu ăn nghiến, ăn mà không biết là đang ăn, không cảm thấy mùi vị, một miếng bít tết lớn với tô súp ấy?”

Rubin không thể ngồi im để nghe người khác nói lâu được. Trong bất cứ cuộc nói chuyện nào, anh cũng là người hướng dẫn, đưa ra những đề tài mới, những nhận xét chưa được phát biểu. Giờ đây anh cũng nóng nảy tìm cách cắt ngang nhưng Nerzhin nắm lấy ngực áo anh và lắc mạnh bắt anh phải nghe:

“Vì vậy, nhờ sống ở trong tù, nhờ những đồng chí khốn nạn của chúng ta, chúng ta được biết thế nào là no đủ. No đủ không được quyết định trên sự kiện ăn nhiều chừng nào mà là ở trên việc ta ăn như thế nào. Hạnh phúc cũng thế. Lev, hạnh phúc không căn cứ trên việc chúng ta được hưởng những gì ở cuộc đời, mà là nằm ở thái độ của chúng ta đối với việc hưởng thụ những tiện nghi đó. Kinh của Đạo lão có câu: “Kẻ nào biết đủ bao giờ cũng hài lòng” [1] .

Rubin nở nụ cười mỉa mai:

“Anh trở thành chuyên viên chiết trung rồi đó. Anh nhổ những sợi lông bóng bẩy ở khắp nơi.”

Nerzhin lắc đầu. Tóc anh xõa xuống trán. Anh đang say sưa nói. Trong lúc này, trông anh giống một thiếu niên mười tám tuổi.

“Đừng lộn xộn trật tự, Lev. Tôi không phải là kẻ chuyên đi thu nhặt những tư tưởng rải rác ở khắp nơi để đúc kết lại thành của riêng tôi đâu. Tôi đi đến những kết luận không căn cứ trên những quyển sách triết học tôi đã đọc mà là căn cứ trên những chuyện về những người sống thực mà tôi gặp trong những nhà tù. Trong thế giới triết học, tất cả mọi địa hạt đều đã có người khai thác, khám phá. Tuy vậy, tôi vẫn có những phát kiến mới của riêng tôi. Đừng ngắt lời, nghe tôi nói đã. Tôi sắp cho anh một tỉ dụ. Nếu trong một nhà tù – như nhà tù đặc biệt này chẳng hạn – có một sự lạ xảy ra như là một ngày chủ nhật tự do, một ngày chủ nhật không phải làm việc. Trong ngày đó tâm hồn chúng ta sẽ không bị đông đặc như đá. Và dù rằng đời sống bên ngoài của tôi không có gì thay đổi nhiều, nghĩa là tôi vẫn bị quản thúc như mọi ngày, gông cùm ngục tù cũng nới lỏng được đôi chút trên cổ tôi, tôi có thể nói chuyện được thỏa thích với một người bạn nào đó, đọc một trang sách lương thiện, và tôi có thể thả hồn tôi trên làn sóng tư tưởng. Tôi đã không được sống thực sự là sống trong nhiều năm nhưng tôi đã quên mất tình trạng đó. Tôi ngằm ngửa trên giường, mắt nhìn lên trần. Trần phòng rất gần tôi, nó trơ trụi, nó long lở – và tôi run rẩy vì cuộc sống bên trong tôi. Tôi sẽ ngủ đi trong sung sướng, hoan lạc. Dám chắc không một ông Quốc trưởng, một Tổng trưởng nào có thể ngủ ngon và hài lòng như tôi trong ngày chủ nhật ấy của tôi.”

Rubin lại cười. Nụ cười này không mỉa mai, chế nhạo nữa. Đó là nụ cười bao dung trong đó có ý chấp nhận của một người đàn ông đối với người bạn ít tuổi hơn mình:

“Kinh Vệ đà nói gì về vấn đề này?” [2]

Rubin hỏi, môi anh trề ra như người đang vui.

“Tôi không biết gì về kinh Vệ đà” – Nerzhin trả lời bằng một giọng quả quyết – “Nhưng tôi biết có một triết thuyết Ấn Độ nói rằng: “Với những ai hiểu biết, hạnh phúc của nhân loại là đau khổ”.

Rubin nói trong bộ râu:

“Tôi chắc anh đã sắp sẵn tất cả những câu anh vừa nói. Phải anh nghe được câu đó từ Sologdin không?”

“Có thể. Không tưởng? Duy tâm? Đúng? Sai? Anh còn đợi gì nữa mà không dán nhãn hiệu? Anh râu dê. Nghe cho kỹ này – hạnh phúc vì chiến thắng, hạnh phúc vì ước ao mà được, địa phương vì thành công và vì no đủ – tất cả đều là khổ não. Đó là sự tiêu diệt của linh hồn, một thứ đau khổ tinh thần không bao giờ ngừng. Đó không phải là những triết gia Ấn Độ cổ xưa đã nghĩ ra điều ấy, đó là do tôi, do chính tôi, Gleb Nerzhin, một tù nhân chịu gông cùm trong năm thứ năm, người mà tinh thần đã vượt lên đến tình trạng thấy rằng những cái gì xấu đã bắt đầu trở thành tốt. Và tôi nắm vững quan niệm là người đời không biết rõ họ muốn thích cái gì, không biết họ mong ước gì. Họ tiêu pha đời sống của họ trong việc tranh chiếm một số những của cải vô giá trị và họ chết mà hoàn toàn không hay biết gì về đời sống tinh thần phong phú của họ. Khi Lev Tolstoy mơ đến chuyện được ở tù, đó là lúc ông lý luận như một người thực sự hiểu biết và tinh thần ông đang mạnh mẽ vô kể.”

Rubin cười thành tiếng. Anh vẫn cười thành tiếng mỗi khi anh không chấp nhận một quan niệm nào của đối tượng trong cuộc thảo luận.

“Thôi đi, chú nhỏ” – Rubin nói – “đó là cái tinh thần còn non, chưa trưởng thành ở trong chú nói lên những câu đó. Chú cho những kinh nghiệm riêng của chú đúng hơn kinh nghiệm chung của cả nhân loại? Chú đã bị lệch lạc vì đời sống ở trong tù và chú nhìn xã hội qua cảnh tù đày. Đâu có phải chỉ vì cuộc đời của chúng ta tan nát, vì số mệnh của chúng ta không may mà loài người phải thay đổi quan niệm về cuộc sống?”

“Anh mới là người kém trưởng thành. Đáng lẽ ra anh phải học được nhiều sự thật ở trong tù, trong lúc anh có thể nhìn thẳng vào đời sống và học thẳng được ở đó…”

“Anh nói đời sống nào? Đây là tù, đây đâu phải là sống?”

Nerzhin vẫn nồng nàn với ý nghĩ:

“… anh đã tự tay buộc cái khăn bịt mắt lên che kín hai mắt anh, tự đút nút lỗ tai anh, anh chọn một thái độ và anh cho đó là thông minh? Theo anh, thông minh là việc không cần biết gì thêm, không cần học hỏi nữa?”

“Thông minh là khách quan.”

“Anh… - Anh mà khách quan à?”

Rubin nghiêm giọng đáp:

“Phải. Khách quan tuyệt đối.”

“Chưa bao giờ tôi gặp một người nào thiếu khách quan như anh.”

“Anh hãy nhấc đầu anh ra khỏi cát. Hãy nhìn sự kiện theo kiến trúc lịch sử của chúng. Đáng lẽ ra tôi không nên nói những lời của chính tôi như những bằng chứng, nhưng:

Cuộc sống của con bọ nước chỉ có một ngày.
Cuộc sống của cây từng dài một trăm năm.

Luật thiên nhiên – anh có hiểu nghĩa danh từ đó không? Những điều luật thiên nhiên không sao có thể tránh được. Tất cả những gì có ở đời đều đi theo một con đường nhất định. Thật là vô ích khi chúng ta nghĩ rằng ta có thể ở lại được nếu ta hoài nghi.”

“Lev… Đừng bao giờ anh nghĩ rằng hoài nghi là một việc dễ. Với tôi, hoài nghi có thể là một chiếc quán bên đường để tôi có thể vào nghỉ khi trời dông bão. Nhưng hoài nghi là một cách để giết tinh thần con người ra khỏi những ràng buộc của giáo điều. Chỉ cần làm việc đó, ta đã thấy nó có giá trị đáng kể rồi.”

“Giáo điều? Anh thật là bậy. Tôi mà lại là người tin giáo điều hay sao?”

Đôi mắt mở lớn của Rubin nặng những hờn trách:

“Tôi cũng là một tù nhân cùng loại với anh. Tôi cũng bị bắt năm 1945: Tôi cũng sống bốn năm trên mặt trận, một mảnh đạn trọng pháo nằm ở mạng sườn và năm năm ở tù. Vì vậy tôi nhìn cuộc đời cũng giống hệt anh. Cái gì phải có là phải có. Quốc gia không thể tồn tại được nếu không có một hệ thống trừng phạt có tổ chức.”

“Tôi không chịu. Tôi không chấp nhận điều ấy.”

“Tất nhiên. Vì anh hoài nghi. Nhưng thái độ hoài nghi của anh cũng không đúng. Tại sao anh lại xúc động dữ vậy? Người hoài nghi đâu có bao giờ xúc động? Người hoài nghi không bao giờ đưa ra những quyết đoán. Người hoài nghi bất cứ trong trường hợp nào cũng thản nhiên.”

“Anh nói đúng…”

Nerzhin nói bằng một giọng buồn rầu, thê thảm như người tuyệt vọng:

“Tôi muốn có những tư tưởng thoát tục, nhưng thực tế vẫn giữ tôi lại…”

“Thoát tục? Vậy mà hồi ở Dzhezkagan, anh nổi điên lên vì nơi đó thiếu nước uống…”

“Lẽ ra anh phải sống ở đấy suốt đời anh mới phải. Anh là người duy nhất trong cả bọn nghĩ rằng người cày làm đúng, rằng những việc hắn làm đều rất thường và cần thiết. Nếu anh sống ở Dzhezkazan, anh sẽ thay đổi ý kiến ngay lập tức…”

“Anh phải nghe tôi…”

Bây giờ đến lượt Rubin nắm lấy tay áo Nerzhin.

“Ông ấy là người vĩ đại nhất. Rồi sẽ có ngày anh thấy, sẽ có ngày anh hiểu. Ông ấy là Robespierre và Napoleon nhập lại làm một của cuộc cách mạng của chúng ta. Ông ấy khôn ngoan, thực sự khôn ngoan. Ông ấy nhìn xa, thấy rộng hơn tầm mắt của chúng ta rất nhiều…”

“Anh chỉ nên tin những gì mắt anh nhìn thấy được…”

Nerzhin ngắt lời:

“Anh cũng nghe tôi… Hồi tôi còn là một chú bé, tôi đọc những cuốn sách hắn viết khi tôi đọc Lenin. Tuy ham đọc lắm nhưng tôi không sao có thể đọc hết được những gì hắn viết. Sau bút pháp của Lenin: sáng sủa, rõ rệt, nồng nàn, đi thẳng vào trái tim người đọc, bút pháp của hắn như một đống bùn. Tư tưởng nào của hắn cũng thô tục và ngu ngốc – Hắn còn tỏ ra hắn không biết hắn cần nhấn mạnh những gì, phớt qua những gì, những gì là quan trọng và những gì là phụ thuộc…”

Rubin tỏ vẻ nghi ngờ:

“Anh biết được những điều ấy khi anh còn là một chú bé?”

“Tôi biết như thế khi tôi đã học khá cao. Khi còn nhỏ, tôi mới chỉ hoang mang không hiểu. Anh không tin tôi ư? Những người thẩm vấn và làm bản tội trạng của tôi cũng không tin như anh. Thái độ kiêu căng phách lối, những luận điệu kẻ cả, bề trên trong những lời tuyên bố của hắn làm tôi điên lên vì khó chịu. Hắn có vẻ thực sự nghĩ rằng hắn thông minh hơn tất cả những người Nga khác.”

“Và sự thật đúng như thế.”

“… và hắn tin rằng hắn làm cho chúng ta sung sướng bằng cách cho chúng ta chiêm ngưỡng hắn, thán phục hắn.”

Trong cơn nồng nhiệt của cuộc tranh luận, hai người bạn trở thành quên đề phòng. Những lời họ nói lúc này có thể lọt vào tai Simochka, người ngồi gần họ nhất và cũng là người đang lắng tai nghe họ nói gì với nhau. Thỉnh thoảng Simochka lại liếc nhìn Nerzhin, đôi mắt biểu lộ sự hờn trách. Nàng hờn dỗi vì nàng thấy rõ rằng không những là Nerzhin không tỏ vẻ gì là lợi dụng sự có mặt của nàng ở cạnh chàng đêm nay, chàng còn không cả nhìn nàng, chàng như không hề biết là đêm nay có nàng ở trong phòng này.

Rubin nói bằng cái giong của người muốn kết thúc cuộc tranh luận:

“Anh lầm – anh lầm vì anh mò mẫm trong những vấn đề mà anh hoàn toàn không biết rõ. Anh là một nhà toán học, anh không hiểu biết gì về lịch sử và triết học. Sao anh dám đưa ra những lời buộc tội nặng đến như thế?”

“Nghe đây… Những huyền thoại về những người khám phá ra tiểu hòa tử và cân được Beta Sirius mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy nó nhưng con nít đến nỗi không biết giải quyết những vấn đề thường ngày của cuộc sống đã trở thành những chuyện lẩm cẩm không làm cho ai tin. Chúng tôi không còn cách nào khác. Nếu sử gia các anh không chịu tự hạn chế trong phạm vi lịch sử, còn có gì sót lại để cho chúng tôi, những nhà toán học, những chuyên viên, làm nữa? Tôi thấy những người lãnh những giải thưởng, những người được hưởng quy chế lương bổng dành cho học giả… Những người đó không viết sử, họ chỉ quỳ gối, khom lưng ở một chỗ nào đó. Vì vậy chúng tôi, những nhà trí thức khoa học, chúng tôi bắt buộc phải nghiên cứu lịch sử.”

“Ồ… Sao anh nói có vẻ thê thảm quá…”

Trên mặt bàn không người ngồi của thiếu tá kỹ sư Roitman, máy điện thoại reo chuông. Simochka đứng dây đi tới nhấc máy trả lời.

“Gleb Vikentich…”

Simochka gọi về phía Nerzhin nhưng đang mải tranh luận với Rubin, chàng này không nghe tiếng.

Simochka gọi lớn hơn:

“Gleb Vikentich…!”

“Có tôi…”

Nerzhin quay lại nhìn.

“Anh không nghe tiếng gì ư? Có điện thoại.”

Simochka nghiêm khắc nói. Nàng đứng sau bàn của nàng, đôi lông mày nhíu lại, hai tay khoanh trước ngực, chiếc khăn choàng kéo sát xuống trên vai nàng:

“Anton Nikolayevich cần gặp anh trong văn phòng của ổng.”

“Vậy ạ?”

Trên khuôn mặt Nerzhin những nét nồng nhiệt của cuộc tranh luận đã biến đi, những nếp nhăn đã trở lại:

“Cám ơn Serafima Vitalyevna. Anh nghe gì không, Lev? Yakonov muốn gặp tôi. Không biết là chuyện gì đây.”

Việc ông giám đốc Viện gọi một tù nhân lên văn phòng mình vào lúc mười giờ đêm thứ bảy là một sự kiện kỳ lạ. Mặc dù Simochka cố gắng giữ vẻ bình thản của một viên chức, ánh mắt nàng, ngay cả Nerzhin cũng nhận thấy, vẫn có vẻ lo âu.

Thế rồi, như giữa họ chưa từng bao giờ xảy ra tranh luận và bất đồng ý kiến hết, Rubin nhìn bạn bằng đôi mắt đầy những quản ngại. Khi đôi mắt của Rubin không sáng lên vì tranh luận sôi nổi, chúng trở lại dịu hiền như mắt đàn bà.

“Tôi không hào hứng khi thấy thiên hạ để ý đến mình” – Rubin nói – “Người xưa có câu: “Đừng dại dột mà làm nhà cạnh cung điện của ông Hoàng”.

“Nhưng chúng mình có gì đáng được để ý đâu? Công việc của chúng mình chỉ là một việc phụ ở đây: nghiên cứu tiếng nói.”

“Vậy mà Anton vẫn để ý đến mình… Rất có thể mình sẽ bị khiển trách về việc tập Hồi ký của Stanisvsky và quyển Diễn văn của luật sư…”

Rubin cười và nói tiếp:

“Cũng có thể là vì bản báo cáo anh vừa gửi lên không được rõ ràng…”

Nerzhin lắc đầu:

“Chắc không phải vì báo cáo đâu. Báo cáo mình gửi lên đã lâu rồi, êm ru không nghe thấy thiên hạ phàn nàn gì hết. Nếu không thấy tôi trở lại nữa, anh…”

“Đừng có vớ vẩn…”

“Vớ vẩn là thế nào? Đời là như thế. Chuyện thường xảy ra."

Nerzhin cúi xuống như để thu xếp lại những giấy tờ trên bàn, anh nổinh và nhanh với bạn:

"… đốt hết những cái đó đi giùm tôi."

Nerzhin khóa ngăn kéo bàn và đưa chìa khóa cho Rubin. Rồi anh đi ra khỏi phòng với dáng điệu khoan thai của một người tù đã sống đến năm thứ năm trong tù, người tù không bao giờ vội vã vì luôn luôn chỉ chờ đợi những gì bất hạnh hơn xảy đến.


9. Hai nhà toán học

Nerzhin đi lên thang lầu lớn, rộng, trải thảm đỏ, dưới những cây đèn bằng đồng và trần nhà bằng thạch cao đắp vòng cung. Vào giờ khuya này, thang lầu vắng tanh. Anh cố gắng trấn tĩnh để bước đi với một vẻ thản nhiên khi anh đi ngang người sĩ quan trực ở phòng gác bên ngoài và tới gõ lên cánh cửa văn phòng của ông giám đốc Viện Nghiên cứu khoa học Mavrino: Đại tá kỹ sư Bộ An ninh quốc gia Anton Nikolayevich Yakonov.

Văn phòng rộng thênh thang, trên sàn có trải thảm, bàn ghế bằng gỗ quí đánh bóng. Ở giữa phòng là một chiếc bàn hội dài trải khăn xanh. Ở trong góc phòng xa tít kia mới là bàn làm việc của Yakonov. Nerzhin từng vài lần đặt chân vào phòng này, nhưng anh chỉ đến đây với nhiều người khác để dự những phiên họp nghe chỉ thị, đây là lần thứ nhất anh một mình tới đây.

Đại tá kỹ sư Yakonov đã ngoài năm mươi nhưng trông vẫn còn trẻ và tráng kiện. Y cao lớn, khuôn mặt y thoa phớt một làn phấn sau khi y cạo râu. Y không mang kiếng trắng mà chỉ dùng một chiếc pince-nez bằng vàng. Y có cái vẻ vạm vỡ của một vương tử Obolensky hay Dolgorukov. Những cử chỉ kiểu cách, quan dạng làm cho ý nổi bật lên giữa những viên chức khác trong Bộ An ninh.

"Mời ngồi, Gleb Vikentich…"

Yakonov nói lớn và thừa thãi. Y ngồi dựa lưng trên chiếc ghế bành da quá lớn sau mặt bàn rộng, một tay mân mê cây viết chỉ đỏ thật lớn trên bàn.

Việc gọi tên riêng và tên thánh của Nerzhin chứng tỏ sự lễ độ và thiện chí của Yakonov, nhưng thực ra y không cần phải cố gắng chút nào để có thể nhớ được tên riêng của những nhà khoa học bị tù ở đây, bởi vì dưới mặt tấm kiếng trên bàn y có nằm một bản danh sách ghi tên riêng của tất cả những tù nhân. (Những ai không biết y có bản danh sách này để ngạc nhiên về khả năng nhớ được tên riêng cả trăm người của Yakonov) Nerzhin cúi đầu chào lại y và không đứng nghiêm chào, anh lặng lẽ ngồi xuống chiếc bàn nhỏ gần đó, đôi mắt anh chăm chú nhìn Yakonov, chờ đợi ý nói. Giọng nói của Yakonov có những âm thanh trầm bổng như giọng một kép hát sân khấu. Người ta không hiểu sao con người có vẻ quý phái này lại không uốn lưỡi chữ “r” như kiểu nói những nhà quý phái thời xưa.

Yakonov lên giọng:

"Gleb Vikentich… Trước đây nửa tiếng đồng hồ, tôi có dịp nói đến anh. Tôi nghĩ đến những nguyên nhân đã đưa anh tới Phòng Âm thính, tới làm việc với Roitman?"

Yakonov cố tình nói đến tên Roitman với một vẻ khinh mạn không cần che giấu. Y không cần cả gọi Roitman là thiếu tá trước mặt một tù nhân. Tình trạng ác cảm hổ tương giữa viên giám đốc viện và viên phụ tá giám đốc đã đi đến điểm không cần phải che giấu nữa.

Nerzhin cảm thấy thần kinh mình căng thẳng. Linh tính cho anh biết cuộc hội kiến đêm nay đã mở đầu bất lợi cho anh. Trước đây nhiều ngày, anh đã thấy nét mỉa mai này hiện trên vành môi Yakonov khi y nói với anh rằng mặc dù anh vẫn chăm chỉ làm việc, y biết anh coi thường những kết quả thâu lượm được ở Phòng Nghiên cứu số bảy. Phòng Nghiên cứu này là niềm kiêu hãnh của Yakonov, y đặt tất cả lòng tin của y vào đấy.

Nhưng sự làm việc ở đó lại không tiến triển như ý muốn của Yakonov.

"…Tất nhiên là tôi phải nhận rằng kết quả cuộc nghiên cứu của anh về tiếng nói rất có giá trị…"

Nerzhin nghĩ thầm: “Hắn chế nhạo mình”.

"… Và tôi rất buồn khi thấy bản báo cáo của anh không được công bố cho cả thế giới khoa học được biết, làm anh mất cơ hội trở thành một George Fetcher của Nga Xô Viết…"

Nerzhin nghĩ thầm: “Hắn nhạo mình quá sỗ sàng…”.

"Tuy vậy, tôi vẫn nghĩ cách làm sao cho anh có cơ hội làm những việc hợp với khả năng của anh hơn, để cho có lợi hơn. Chắc anh biết tôi là người rất kính trọng những khoa học trừu tượng nhưng tôi cũng là một người rất thực tế…"

Đại tá kỹ sư Yakonov tuy giữ một địa vị cao trong y không quá ở gần Lãnh tụ đến nỗi phải che giấu sự thông minh của y hoặc luyện thành thói quen không có ý kiến riêng.

"Tôi muốn thành thật hỏi anh… hiện anh đang làm gì ở Phòng Âm thính?"

Yakonov không thể nào đặt với Nerzhin một câu hỏi tàn nhẫn hơn. Y không thể có thì giờ xét kỹ đến tất cả mọi trường hợp, để ý đến riêng từng tù nhân. Nếu y chịu xét đến tình trạng của Nerzhin. Y đã có trả lời từ lâu.

"Anh mất thì giờ với việc nghiên cứu vớ vẩn ấy làm chi? Anh là một nhà toán học, một người xuất thân đại học. Quay lại nhìn coi…"

Nerzhin quay lại nhìn và anh vội đứng dậy. Trong phòng còn một người thứ ba nữa. Một người đàn ông trông có vẻ rất thường bận bộ y phục thường dân màu đen đứng lên từ chiếc ghế dài và đi đến gần Nerzhin. Khung kiếng mắt tròn của ông này sáng lấp lánh. Dưới vầng ánh sáng rọi xuống từ bóng đèn điện trên trần. Nerzhin nhận ra giáo sư Pyotr Trofimovich Verenyov. Trước chiến tranh, giáo sư Verenyov dạy ở trường đại học anh học. Tuy vậy, theo thói quen của cuộc sống trong nhà tù, Nerzhin vẫn đứng yên, không nói, không làm một cử chỉ. Anh đoán rằng giáo sư Verenyov cũng là một tù nhân và anh có thể làm hại ông bằng những câu nói vội vã. Verenyov mỉm cười, nhưng ông cũng có vẻ bối rối.

Yakonov nói bằng một giọng vừa trấn an vừa khuyến khích:

"Thật hay… những nhà toán học có khả năng tự chế ngự hơn người thật. Suốt đời tôi, tôi vẫn nghĩ là những nhà toán học đều ở trong một đạo giáo bí mật nào đó và tôi vẫn ân hận vì không có dịp khám phá sự bí mật ấy. Xin nhị vị cứ tự nhiên. Hãy bắt tay nhau và coi đây là một nơi riêng của quý vị. Tôi sẽ vắng mặt ở đây vào khoảng nửa giờ để nhị vị nhắc lại với nhau những kỷ niệm xưa và để giáo sư Verenyov nói với anh Nerzhin về công tác mà cả ba chúng ta cùng phải làm."

Yakonov đứng lên từ chiếc ghế da. Cặp cầu vai nền bạc và xanh trên hai vai áo y càng làm cho khổ người vạm vỡ của ý thêm to lớn – Y đi nhanh và nhẹ nhàng ra cửa phòng. Khi Verenyov và Nerzhin đến gần hơn để bắt tay nhau, họ chỉ còn có hai người ở trong phòng.

Người đàn ông xanh xao này, người mang đôi mắt kiếng trắng phản chiếu ánh đèn sáng lấp lánh, với tù nhân Nerzhin, như một bóng ma trở về từ một thế giới đã bị quên lãng. Giữa thế giới xưa cũ đó với thế giới đêm nay có những khu rừng ở bên hồ Hmen, những ngọn đồi và những thung lũng ở vùng Orel, những trang trại trù mật ở Ba Lan, những mái nhà ngói trong những thị trấn nước Đức. Trong khoảng thời gian chín năm chia đôi hai thế giới ấy có những xà lim nhà tù trơ trọi sáng rực ánh đèn điện đến chói lòa hai mắt, những “thùng gỗ” của khám đường Bolshây Lubyanka, những trại giam tạm trú sặc mùi hôi thối, tanh tưởi, những toa xe chở tù Stolopyn chật ních, có những cơn gió cắt da trên những cánh đồng cỏ bao la. Tất cả những cái đó làm cho Nerzhin không sao có thể trở lại được là anh sinh viên đứng viết một phương trình đại số trên bảng đen.

Và Nerzhin cảm thấy bối rối nhiều hơn là vui.

Hai người cùng đốt thuốc lá và cùng ngồi xuống mặt bàn nhỏ ngăn cách họ.

Đây không phải là lần thứ nhất Verenyov gặp lại một sinh viên cũ của ông từng học ông ở Đại học Mạc Tư Khoa. Nhưng cuộc gặp gỡ đêm nay có những yếu tố đặc biệt làm cho ông cũng cảm thấy bối rối: sự cô lập của Viện Nghiên cứu khoa học nằm ở ngoại ô Mạc Tư Khoa, nơi bí mật bao trùm, nơi có hàng rào dây thép gai bao quanh và người học trò cũ ít nói bật bộ y phục xanh đậm này thay vì bận y phục thường dân.

Sự bất ngờ xảy ra là Nerzhin, người trẻ nhất trong hai người, người thất bại không có danh vị học giả lại là người đặt những câu hỏi. Những nếp nhăn quanh miệng anh hằn sâu hơn, hiện rõ. Và người đàn ông nhiều tuổi hơn trả lời từng câu hỏi, như ông ngượng ngùng vì cuộc sống vộ sự của một nhà khoa học không có gì xuất sắc lắm: cuộc di tản trong thời chiến, cuộc di tản lần thứ nhất, ba năm làm việc với K., một luận án về toán học trắc đồ. Và Nerzhin trở thành lơ đãng đến độ gần như vô lễ, quên không hỏi rõ hơn về luận án khô khan của môn học cằn cỗi mà ngày xưa anh từng học này. Bỗng nhiên, anh cảm thấy thương hại Verenyov. Vào thế kỷ hai mươi tư may ra luận án của Verenyov có thể có ích cho vài người, còn bây giờ thì vô phương.

Tôi không còn gì để nói với mặt trời và trái đất
Tôi chỉ nhìn thấy sự đau khổ của con người.

Bằng cách nào Verenyov vào tổ chức này? Tại sao ông lại bỏ đại học? Tôi được biệt phái đến đây. Ông có thể từ chối được không? Được, có thể từ chối được nhưng lương bổng ở đây gấp đôi. Ông có con không? Bốn đứa.

Vì một nguyên nhân nào đó họ kiểm lại danh sách những sinh viên cùng khóa với Nerzhin, những người cũng như Nerzhin, thi ra trường cùng một ngày với ngày chiến tranh bắt đầu. Những người xuất sắc nhất đều đã chết trên mặt trận hoặc bị tiếng đạn, tiếng bom làm cho ngớ ngẩn. Họ là những người luôn luôn đi trước, những người không bao giờ dừng lại để nhìn mình xem mình ra sao. Và những người thời đó không ai thèm để ý, những kẻ thời đó không đáng gì cả nay đã hoàn tất được việc học cao hơn được đã giữ những chân giảng sư quan trọng ở những Viện Khoa học lớn. Còn người làm cho chúng ta sung sướng và kiêu hãnh, anh Dmitri Dmitrich Goryainov-Shakhovsky bây giờ ra sao?

Goryainov-Shakhovsky! Con người thấp nhỏ, bê bối trong tuổi già, người suốt đời mang vết phấn trắng trên tay áo, người bỏ túi chiếc khăn lau bảng vì tưởng rằng đó là ta khăn mùi soa. Ông là một huyền thoại sống của trường đại học, một huyền thoại được xây dựng bằng không biết bao nhiêu chuyện khôi hài về “nhà thông thái hay đãng trí” điển hình. Ông là linh hồn của đại học đường Warsaw. Một nửa thế kỷ làm việc cho khoa học làm ông nhận được những điện văn ca ngợi gửi đến từ Milwaukee, Captown, Yokohama. Để rồi ông bị thanh trừng trong cuộc phát động gọi là “trẻ trung hóa hàng ngũ”. Ông đi về Mạc Tư Khoa và trở lại với mệnh lệnh của Kalinin: “Đừng động đến ông già này”. Người ta đồn rằng trước đây ông già của Kalinin là tá điền của ông thân sinh ra giáo sư Goryainov-Shakhovsky.

Và không đúng đến ông thật. Họ để mặc ông muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm. Ông có thể viết một luận án về khoa học thiên nhiên trong đó ông đưa ra những bằng cứ chứng minh bằng toán học về sự có mặt của Chúa. Hoặc trong những cuộc giảng thuyết của ông về Newton, nhân vật mà ông thích nói đến nhứt, ông có thể sỉ mũi trong chòm râu vàng võ của ông và nói:

“Có người vừa đưa lên tôi câu hỏi như sau: Marx viết rằng Newton là một nhà duy vật. Sao giáo sư lại nói rằng Newton duy tâm? Tôi trả lời: Marx lầm. Newton tin ở Chúa, như tất cả những nhà khoa học lớn khác.”

Ghi chép những lời ông nói trong những buổi thuyết giảng ấy là một việc làm khủng khiếp. Cả đến những tốc ký viên cũng phát điên vì không sao ghi chép kịp. Vì hai chân ông yêu nên ông ngồi ngay trước bảng đen, quay lưng vào cử tọa, tay phải ông cầm phấn viết lên bảng trong khi cùng một lúc tay trái ông cầm khăn tay đi. Không ai có thể hiểu được tư tưởng của ông trong khi nghe ông giảng nhưng khi Nerzhin, cộng tác với một số bạn học, thành công trong việc ghi lại được trọn vẹn những lời ông nói và họ đọc, họ nghiền ngẫm những tư tưởng ấy suốt một đêm dài, họ xúc động đến nghẹn ngào khi họ thấy lấp lánh ánh sao của thiên đường.

Có chuyện gì đã xảy đến với ông? Khi thành phố R. bị oanh tạc nặng, ông già bị tiếng bom làm cho ngớ ngẩn. Ông được di tản đến Kirghizia trong tình trạng chết dở. Sau đó ông đã trở lại nhưng ông không còn dạy đại học nữa, ông dạy ở Viện Sư phạm. Vậy là ông vẫn còn sống ư? Còn sống. Hay thật. Thời gian qua, đã qua, và sẽ qua…

Vì sao anh lại bị bắt?

Nerzhin cười nhẹ:

"Còn vì sao nữa? Vì tư tưởng của tôi. Ở Nhật Bản, họ có một đạo luật cho phép người ta có thể kết tội một người chỉ vì những ý nghĩ chưa từng được nói ra của người này…"

"Ở Nhật Bản thì nói làm chi? Ở đây chúng ta đâu có luật nào như thế?"

"Có chứ. Chúng ta có. Đó là Điều 68, Khoản 10."

Nerzhin chỉ nghe loáng thoáng những lời giải thích của Verenyov về mục đích của Yakonov khi y cho hai người gặp nhau. Verenyov được đặc phái tới Mavrino để xúc tiến và hệ thống hóa cuộc nghiên cứu ám số ở đây. Họ cần thêm nhiều nhà toán học và Verenyov mừng rỡ khi biết rằng ngay ở đây có sẵn một nhà toán học từng là học trò của ông, người sinh viên mà ngày xưa ông cho là có một tương lai tươi sáng.

Nerzhin lơ đãng đặt những câu hỏi liên can đến cuộc nghiên cứu và giáo sư Verenyov, hào hứng và hoạt bát khi nói đến những vấn đề toán học, trình bày những việc phải làm và ông nói đến cả những cuộc thí nghiệm nào cần phải làm, những công thức nào phải kiểm soát lại. Nhưng trong lúc ấy Nerzhin nghĩ đến những tờ giấy nhỏ anh viết đầy những dòng li ti, những ý tưởng anh đã ghi lại với sự thanh thản của tâm hồn sau chiếc bàn dàn cảnh của anh, dưới những tia mắt canh gác chan chứa tình ái của Simochka, với những tiếng thì thầm đầy khuyến khích của Rubin. Những tờ giấy nhỏ đó là những ghi chép đầu tiên trong ba mươi lăm năm làm người của anh.

Tất nhiên anh sẽ vui và dễ chịu nếu anh trước trưởng thành trong địa hạt chuyên môn của anh. Tại sao, người ta có thể hỏi, anh lại tự đưa đầu anh vào hàm răng mở rộng và nhọn hoắt của thời gian xưa cũ khi mà ngay cả những sử gia cũng bỏ trốn đến những nơi an toàn hơn? Sức mạnh gì đã thúc đẩy anh xét đoán hành động và giá trị của Người Khổng Lồ quyền uy ghê gớm đó, chỉ một cái chớp mắt của người đó cũng đủ làm cho đầu Nerzhin lìa khỏi cổ.

Và anh, anh có nên đầu hàng trước những cánh tay dài như vòi bạch tuộc của Ám số – để làm việc mười bốn giờ một ngày, không một ngày nghỉ, đầu óc đầy nặng những lý thuyết về xác suất, lý thuyết về đại số, lý thuyết về lầm lẫn, một bộ óc chết, một linh hồn khô héo? Anh sẽ còn lại những gì để suy nghĩ? Sẽ còn những gì để anh học hỏi về cuộc đời?

Vẫn còn Viện Nghiên cứu Mavrino. Đây không hẳn là một nhà tù thuần túy. Ở đây có thịt trong bữa trưa, có bơ trong bữa ắn sáng. Ở đây hai tay không bị rã rời vì mỏi, những ngón tay không đông cứng vì lạnh, không phải nằm ngủ trên những tấm ván, thân thể chết cứng như khúc gỗ. Ở đây anh được nằm trên giường có nệm đàng hoàng, nằm ngủ với cảm giác thoải mái.

Nhưng tại sao phải sống suốt cả một đời dài? Sống chỉ để mà sống? Sống chỉ là việc giữ cho thân thể khỏi chết? Nếu sống chỉ có thế thôi và không còn gì khác cả, chúng ta cần sống để làm gì?

Sự khôn ngoan thúc giục: “Chịu đi” nhưng trái tim nói: “Satan, đem những thứ đó đi khỏi mặt ta”.

"Ông có biết đóng giày không?"

"Anh nói chi?"

"Tôi hỏi: Ông có thể dạy tôi thuật đóng giày không?"

"Xin lỗi, tôi không hiểu."

"Ông sống trong một cái vỏ. Còn tôi, sau khi sống hết hạn tù của tôi ở đây, tôi sẽ đi tới những miền rừng núi xa, tôi sẽ sống ẩn dật suốt đời. Tôi không biết cách làm việc bằng hai tay, làm sao tôi có thể sống? Ở những nơi tôi sẽ đến sống đầy loài báo rừng. Ở đây tôi sẽ không cần đến lý thuyết, công chức, đến toán học…"

"Nerzhin, anh nói gì vậy? Là một chuyên viên ám số, nếu công tác đạt thành quả tốt, anh sẽ được trả tự do trước hạn kỳ, án tích sẽ có thể xóa bỏ trong hồ sơ lý lịch của anh, anh sẽ có một căn nhà ở Mạc Tư Khoa."

"Họ sẽ xóa án tích trong hồ sơ lý lịch của tôi?"

Nerzhin giận dữ kêu lên, đôi mắt anh cau lại:

"Tại sao ông lại nghĩ rằng tôi mong họ ban cho tôi món quà nhỏ đó? “Vì anh làm việc tốt nên chúng tôi trả lại tự do cho anh, chúng tôi tha tội cho anh.” Không… Không thể như thế được…"

Những ngón tay Nerzhin gõ mạnh xuống mặt chiếc bàn nhỏ:

"Ông đi ngược… Họ phải nhận trước rằng họ không đúng, họ không có quyền bắt người khác vào tù chỉ vì người khác vào tù chỉ vì người khác không nghĩ như họ. Đến lúc đó chúng tôi sẽ xét xem chúng tôi có tha thứ cho họ hay không?"

Cánh cửa mở và viên chức chính quyền vạm vỡ với chiếc prince-nez vàng trên sống mũi bước vào.

"Sao? Nhị vị toán học gia? Các vị đã đi đến thỏa thuận rồi chứ?"

Nerzhin không đứng lên, anh nhìn thẳng vào mặt Yakonov khi anh nói:

"Ông có quyền quyết định. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng công việc tôi đang làm ở Phòng Âm thính hãy còn dở dang."

Vài phút sau đó trong phòng chỉ còn có một mình Yakonov đứng sau cái bàn lớn. Chỉ những ai biết rõ Yakonov mới biết rằng lúc đó y đang cáu giận. Y lẩm bẩm: “Đồ ngu. Có dịp tốt để khá hơn mà không biết. Cho mi chết…”

Cầm cây viết chì đỏ y viết lên quyển sổ trên bàn:

“Nerzhin sẽ phải đi”.


10. Toà lâu đài huyền diệu

Trong nhiều năm – trong thời gian chiến tranh và sau đó – Yakonov ngồi vững với địa vị kỹ sư trưởng Sở Tiếp liệu đặc biệt. Y mang với một vẻ trang trọng đáng kính đôi cầu vai nền bạc viền xanh ở giữa có ba ngôi sao mà sự hiểu biết của y đã đem lại cho y. Chức vụ của y đặc biệt đến nỗi y có thể hoạt động trên một địa bàn rất rộng: đôi khi đọc một báo cáo đầy những danh từ khoa học trước những nhân viên cao cấp trong guồng máy nhà nước, đôi khi thảo luận một cách thông minh với một ngôn ngữ đầy những danh từ chuyên môn với những kỹ sư về những phát minh mới nhất. Nhìn chung, y tự tạo cho y cái uy tín là một nhà chuyên môn nhưng không phải lãnh trách nhiệm về bất cứ một chuyện gì, và mỗi tháng y được lãnh vài ngàn đồng ruble. Yakonov chủ tọa cuộc lễ khai sinh ra tất cả những phòng chuyên môn, những cuộc phát động thực hiện kế hoạch, y biến mất trong giai đoạn khó khăn của kế hoạch để rồi lại xuất hiện trước quan tài của những kẻ thất bại hoặc để choàng vòng hoa chiến thắng lên đầu những kẻ thành công.

Anton Nikolayevich Yakonov không còn đủ trẻ và đủ tự tin để mơ tưởng đến chuyện có ngày đoạt được huy chương Sao vàng hoặc giải Stalin, hoặc mỗi khi có dịp là vồ lẫy người dự án lớn, quan trọng do Tổng thống hay do chính Thủ lãnh tối cao đưa ra. Y đã có đủ kinh nghiệm và tuổi đời để khôn ngoan lẩn tránh hệ thống rắc rối, phức tạp những xúc động, sợ hãi, âu lo do tham vọng thái quá gây ra.

Với những quan điểm đó về cuộc đời, y sống an nhàn, đầy đủ, sung sướng cho đến tháng Giêng năm 1948. Trong tháng Giêng ấy có một kẻ nào đó đề nghị với Cha chung của dân tộc Nga La Tư ý kiến chế tạo một dàn máy điện thoại đặc biệt chỉ để dành riêng cho Lãnh Tụ Tối Cao dùng mà thôi. Dàn máy điện thoại đó sẽ được chế tạo sao cho không một kẻ nào có thể hiểu được Lãnh tụ nói gì, dù cho máy có bị cắm lén nghe trộm. Với ngón tay thần thánh, ngón tay vàng vì khói thuốc lá, vị Cha hiền dân tộc chỉ lên tấm bản đồ. Ngón tay đặt đúng lên Mavrino. Lúc ấy Mavrino là một xưởng chế tạo máy truyền thanh xách tay cho cảnh sát dùng. Câu nói lịch sử của Người trong dịp này là “Ta cần những máy truyền thanh này để làm gì? Để bắt kẻ trộm à? Ai thèm để ý đến bọn ăn trộm?”

Người ra thời hạn: ngày mùng một tháng Giêng 1949. Người suy nghĩ rồi nói: “Thôi được. Cho đến mùng một tháng Năm”.

Công tác này được đặt vào hàng ưu tiên số một và quan trọng số một. Thời hạn của công tác quá chặt chẽ, quá gấp rút. Ở Bộ An ninh, người ta thảo luận lỹ và người ta lựa Yakonov để trao cho việc đích thân đốc xuất công tác này. Yakonov cố gắng một cách vô ích để trình bày rằng y đã phụ trách quá nhiều việc và y không thể nào làm tròn được hai việc cùng một lúc. Nhưng Foma Guryanovich Oskolupov, giám đốc Nha Kế hoạch Bộ An ninh, thượng cấp trực tiếp của Yakonov, chiếu cặp mắt xanh như mắt mèo nhìn thẳng vào mắt Yakonov – và Yakonov nhớ lại vết đen trên hồ sơ an ninh của y. Chính y cũng đã từng phải ở tù sáu năm. Vì vậy, y ngậm miệng lại không dám nói gì nữa.

Từ đó – đã gần hai năm trời trôi qua – văn phòng trưởng Phòng Kỹ sư ở Tổng bộ An ninh vẫn để trống không có ai ngồi. Trưởng Phòng Kỹ sư Yakonov sống suốt ngày đêm ở Viện Nghiên cứu Mavrino nằm ở ngoài thành Mạc Tư Khoa, nơi có một tầng tháp hình lục lăng nổi cao trên mái tòa giáo đường xưa cũ.

Thoạt đầu, việc một mình có toàn quyền quyết định mọi việc là một lạc thú, Yakonov cảm thấy khoái lạc trong việc đóng cánh cửa chiếc xe hơi Pobeda dành riêng cho y di chuyển với cử chỉ mệt mỏi. Y khoan khoái ngồi trong chiếc xe êm đưa y tới Mavrino, đi ngang người binh sĩ chào nghiêm với cây súng trên tay ở vọng gác ngoài cổng để vào tòa nhà chung quanh có dây thép gai. Cuộc sống thật dễ chịu trong mùa xuân, khi cảnh vật đều trẻ trung và tươi mởn, đi bộ dưới những hàng cây để từng sống cả trăm năm bao quanh Mavrino với một đám thiếu tá, đại úy tùy tùng. Trong thời gian đầu, những vị thượng cấp của Yakonov không ai đòi hỏi gì ở Mavrino – Yakonov chỉ có việc đều đặn gửi về Tổng bộ một lô những chương trình kế hoạch, sơ đồ và lời hứa sẽ làm trọn những “bổn phận đối với chế độ”. Và vật dụng đủ thứ được tới tấp đổ xuống Viện Nghiên cứu khoa học Mavrino: những bộ phận máy radio do Nga Xô chết tạo và những bộ phận do ngoại quốc chế tạo, máy điện, dụng cụ nghiên cứu, bàn ghế, tủ, tủ sắt, một tủ sách gồm ba mươi ngàn quyển sách chuyên khoa kỹ thuật, những tù nhân chuyên viên được lấy ra từ những trại tập trung, những sĩ quan mật vụ ưu tú nhất được phái đến, những viên chức lưu trữ hồ sơ được biệt phái tới làm việc và sau cùng, một đại đội binh sĩ phòng vệ đặc biệt kéo đến. Cũng trong thời gian đầu, Yakonov phải cho sửa lại tòa nhà, làm thêm phòng, chuyển những căn phòng trong nhà y thành phòng thí nghiệm và văn phòng, xây hầm đặt máy điện. Cho đến khi những hàng cây để nở hoa vàng và tỏa ngát hương thơm, tiếng nói buồn rầu của những tù binh Đức được gửi đến làm lao công vang lên trong vườn tòa nhà.

Những tên Phát xít lười biếng đang sống nằm tù thứ tư sau chiến tranh ấy không muốn làm bất cứ một việc gì. Trước mắt những người Nga, cảnh bọn tù binh Đức chuyển những viên gạch từ trên những chiếc xe vận tải xuống là một cảnh chướng mắt chịu không nổi: chúng xếp hàng một từ xe vào đến chỗ xếp gạch, chúng chuyền tay nhau từng viên gạch chậm chạp, cẩn thận, như đó là những khối vàng nén. Chúng cố tình làm chậm như thế và chúng chỉ chuyển hết số gạch trên một chiếc xe xuống là hết ngày. Trong lúc những công nhân đặt máy thông hơi, máy sưởi ở cửa sổ và lát ván lại những căn phòng trong nhà, bọn tù binh Đức đi lang thang khắp nhà, chúng vào cả những căn phòng tối mật và đứng nhìn những thùng đồ ghi chữ Đức và chữ Anh. Bất cứ một chú học sinh người Đức nào cũng có thể đoán biết phòng thí nghiệm gì được lập lên ở đó. Rubin đã ghi tất cả những chi tiết này trong một bản báo cáo gửi đến đại tá kỹ sư Yakonov, báo cáo này ghi nhận đúng nhưng cũng rất phiền cho hai sĩ quan phụ trách an ninh ở đây – Shikin và Myshkin – (bọn tù nhân gọi hai nhân vật này bằng cái tên chung là Shishkin và Myshkin) – bởi vì lúc đó, người ta chẳng còn sửa chữa gì được nữa. Họ không thể gửi báo cáo đó lên thượng cấp vì sự sơ xuất đó là lỗi của họ. Và đến lúc đó bọn tù binh Đức đã được trở về Đức quốc. Yakonov rùng mình kinh sợ khi nghĩ rằng nếu trong bọn tù binh ấy có tên nào trốn sang Tây Đức, tên đó sẽ có thể kể lại vị trí Viện Nghiên cứu này với bọn gián điệp đế quốc tư bản. Sau đó, những biện pháp bảo vệ bí mật đến tối đa được áp dụng ở Mavrino: tù nhân làm việc ở phòng thí nghiệm này không được đặt chân sang phòng thí nghiệm khác, các tù nhân không được tiết lộ những công tác nghiên cứu với nhau, trừ khi nào được ban giám đốc cho phép. Việc Yakonov được cử đi điều Viện Nghiên cứu khoa học Mavrino cũng được giữ kín ở Tổng bộ An ninh. Ở trong Bộ, hỏi đến đại tá kỹ sư Yakonov đều được yêu cầu ghi tên, cấp bậc và lý do cần gặp lên giấy và sẽ được trả lời sau. Nếu cần phải gặp những người này, bao giờ Yakonov cũng về Bộ để gặp. Y không tiếp bất cứ ai ở Mavrino.

Khi bọn tù bình Đức được gửi về nước, họ đưa tới Mavrino đám tù khác để làm lao công. Đám tù này giống hệt những tù nhân làm việc chuyên môn trong việc trừ điểm quần áo của họ dơ dáy hơn, rách rưới hơn và họ không được quyền ăn bánh mì trắng. Đám tù Nga này làm việc khác hẳn bọn tù binh Đức: họ vừa làm việc vừa chửi rủa tục tĩu những viên gạch bay tới tấp từ trên xe vận tải xuống sân và kết quả là gần như không còn viên gạch nào lành lặn hoàn toàn. Với tiếng: “Một… hai… ba…” bọ tù Nga quăng tấm mui xe bằng vải bạt chùm lên xe và chúng chui và đó để đi về nhà giam, trên đường đi chúng đùa giỡn với những nữ tù nhân. Buổi sáng chúng được đưa đến làm việc, buổi chiều đưa trả về nhà giam.

Và tòa lâu đài huyền diệu đó, nằm riêng rẽ ở một khu ngoài thành phố, một khu tuy không thấy có gì khác lạ nhưng bọn thường dân không dám tới gần, được thay đổi gần như toàn diện: lâu đài có một bồn chứa nước, một hệ thống đốt rác tối tân, một nhà máy điện riêng, những căn phòng cửa sắt được sưởi ấm vào mùa đông và những bồn hoa tươi trong vườn cỏ.

Cũng trong thời gian đó, Viện Nghiên cứu khoa học được ưu đãi đặc biệt này mỗi ngày một phát triển lớn hơn, đông nhân viên hơn. Viện tiếp nhận cả một Viện Nghiên cứu khác với toàn thể nhân viên của viện này. Đó là Viện Nghiên cứu được trao cho thiếu tá kỹ sư Roitman chỉ huy. Viện này cũng được lập lên để nghiên cứu về điện thoại và truyền tin. Thiếu tá kỹ sư Roitman trở thành vị phụ tá của đại tá kỹ sư Yakonov. Người khai sinh và bảo vệ Viện Nghiên cứu bị sáp nhập này là đại tá Yakov Ivannovich Mamurin, nguyên Trưởng Sở Liên lạc đặc biệt và nguyên là một viên chức cao cấp, quan trọng của chính phủ Xô Viết. Trước đó ít lâu, đại tá Mamurin đã biến mất trong trường hợp bi thảm như sau này.

Số là có một lần vị lãnh đạo Nguyên liệu tiến bộ nói chuyện bằng điện thoại với một người ở tỉnh Yenan và Lãnh Tụ bất mãn vì đường dây rè rè khó nghe, khó nói quá. Người bèn gọi Beria tới và nói bằng tiếng địa phương Georgian: “Lavrety… Anh để cho thằng ngu nào giữ Sở Liên lạc đặc biệt vậy? Tống cổ nó đi”.

Và như thế là Mamurin bị tống đi. Bị tống đi có nghĩa là đi tù. Họ giam Mamurin vào nhà tù Lubyanka. Họ tống y đi nhưng họ không biết sau đó phải giải quyết tình trạng của y ra làm sao, phải đối xử với y như thế nào. Họ không có chỉ thị phải làm về vụ Mamurin, không có lệnh phải xử tù Mamurin và nếu xử tù thì cho tù bao nhiêu năm. Nếu Mamurin không phải là anh em đồng chí của họ, họ đã xử y “một phần tư thế kỷ và năm năm khóa mõm”, nghĩa là tù khổ sai hai mươi lăm năm và năm năm mất quyền công dân, và tống y đi Norilsk. Nhưng họ bị ám ảnh bỏi lời nguyền: “Hôm nay tôi, mai đến bạn”, những người bạn đồng nghiệp cũ của Mamurin ngấm ngầm ủng hộ y. Khi họ biết chắc rằng Stalin đã quên Mamurin, họ dàn xếp cho Mamurin đến sống ở Viện Nghiên cứu khoa học Mavrino.

Vì vậy, trong một đêm mùa hạ năm 1948, họ đưa một tù nhân mới đến Mavrino. Tất cả mọi sự kiện liên can đến tù nhân này đều khác thường: Y được đưa tới trên một chiếc xe hơi du lịch chứ không phải trên một chiếc xe Maria Đen như tất cả những tù nhân khác. Y được viên quản đốc nhà tù đích thân đi đón về, và y được mời ăn bữa đầu tiên trong nhà tù ở trong văn phòng của viên quản đốc, bàn ăn của y đêm đó có trải khăn trắng đàng hoàng.

Những tù nhân có trước trong nhà tù này nghe biết – trên nguyên thể, họ không được nghe, thấy biét gì hết nhưng trên thực tế, họ vẫn nghe, vẫn thấy và vẫn biết hết mọi chuyện – tù nhân mới đến này nói rằng y không thích ăn xúc xích và viên quản đốc lễ phép mời y chịu khó ăn nhiều cho khỏe. Một tù nhân bị đau trên đường đi tới phòng khám bệnh nghe lỏm được những lời trao đổi này. Anh trở về kể sự lạ ấy với các bạn và đám tù nhân bán tán xôn xao một lúc về sự lạ ấy. Họ đi đến kết luận là dù sao đi nữa, kẻ mới đến cũng chỉ là một anh tù. Sau đó, họ ngủ.

Những sử gia của Nhà tù đặc biệt Mavrino không bao giờ xác định được rằng đêm đầu tiên ấy kể mới đến ngủ ở đâu. Sáng sớm hôm sau, ở một khu mà các tù nhân bị cấm không được đặt chân đến, một tù nhân chuyên viên thợ tiện, tình cờ chạm trán với một kẻ mới đến trong đêm qua.

"Ê bạn…" - người tù thợ tiện hỏi vội với ngón tay thô chọc mạnh vào ngực kẻ mới tới – "Bạn từ đâu đến? Bị vồ ở đâu? Vì sao? Ngồi đây, hút thuốc không?"

Nhưng kẻ mới đến lùi xa người tù thợ tiện với vẻ kinh hãi khinh mạng hiện rõ trên mặt. Người tù thợ tiện trợn mắt nhìn cái đầu hói và đôi mắt trắng của kẻ mới đến, anh giận dữ nói:

"Đồ phách chó. Để rồi khi anh vào ở chung với chúng tôi anh có chịu nói chuyện với chúng tôi hay không."

Nhưng “Phách chó” không bị nhốt vào phòng ngủ chung với tù nhân. Bên cạnh hành lang đưa tới những phòng thí nghiệm, ở tầng thứ ba, ban quản đốc làm được cho y một căn phòng nhỏ, trước đây phòng này được dùng làm phòng tối rửa hình, họ khiêng vào đó một cái giường, một cái bàn, một cái tủ, một chậu cây cảnh và một cái bếp điện. Họ gỡ những tám ván ra khỏi khung cửa sổ, cửa sổ này không mở ra ngoài trời mà là nhìn ra một cầu thang nhỏ. Vì vậy ngay cả những buổi trưa trời nắng nhất, ánh sáng cũng không lọt được tới khung cửa sổ căn phòng nhỏ này. Cửa sổ còn có chắn song sắt. Những chấn song này có thể gỡ ra được nhưng ban quản đốc nhà thù, sau nhiều do dự, quyết định để nguyên. Những người có quyền ở đây cũng không ai hiểu rõ về tình trạng rắc rối bao quanh tù nhân này và họ cũng không biết phải xử sự làm sao cho đúng.

Từ đó, tù nhân mới tới được đặt tên là “Người mặt nạ sắt”. Trong một thời gian rất lâu sau đó không ai biết tên y là gì. không ai có thể nói chuyện được với y. Qua khung cửa sổ, những tù nhân đi lại trên cầu thang nhỏ trông thấy y ngồi cúi đầu trong căn phòng cô đơn, hoặc đi vất vưởng như bóng một cô hồn dưới hàng cây đề trong những giờ tù nhân bị cấm ra khỏi phòng giam. Mặt nạ sắt cũng gầy gò, xanh xao như bất cứ một tù nhân nào sau hai năm bị giam cầm nhưng việc y từ chối không chịu ăn xúc xích cho người ta biết rằng không phải y gầy xanh vì thiếu ăn hay vì bị thẩm vấn.

Lại qua một thời gian rất lâu sau nữa, khi Mặt nạ sắt làm việc với phòng Số bảy, tù nhân được những viên chức tự do cho biết rằng y chính là đại tá Mamurin, người khi còn là giám đốc Sở Liên lạc đặc biệt, đã cấm không cho bất cứ ai đi ngang cửa văn phòng của y được đặt gót giày xuống sàn, nghĩa là tất cả mọi người đi qua cửa văn phòng y đều phải đi kiễng chân, nhón gót để khỏi gây ra tiếng động. Nếu không, y sẽ từ trong phòng hầm hầm chạy ra, quát lớn: “Đồ thô tục. Có biết văn phòng ai đây không? Tên là gì?”.

Về sau, người ta được biết rằng sự khổ sở của Mamurin thuộc về tinh thần. Thế giới những người tự do hắt hủi, chê bỏ y và y không thể gia nhập thế giới của những người bị tù đày. Thoạt đầu, trong cảnh cô đơn, y đọc sách. Y đọc những tác phẩm bất hủ như quyển Chiến đấu cho hòa bình của Panferov, quyển Chàng kỵ sĩ sao vàng của Babayevsky. Y đọc Sobolev, Nikulin, rồi đọc thơ của Prokofiev và Gribachev. Và trong tâm hồn y một sự chuyển biến kỳ diệu xảy ra: y bắt đầu làm thơ. Người ta biết rằng sự bất hạnh và tình trạng đau khổ về tinh thần thường sản xuất ra những nhà thi sĩ và sự đau khổ của Mamurin sắc nhọn hơn sự đau khổ của nhiều tù nhân khác. Sống trong nhà tù đã hai năm nhưng không bị thẩm vấn cũng không bị đưa ra tòa xử, không có án, y vẫn sống giống hệt như y sống trước khi bị tù, nghĩa là tuân theo đúng những chỉ thị của Đảng, tôn thờ Lãnh tụ Tối cao. Mamurin thú thật với Rubin rằng không phải thức ăn trong nhà tù tồi tàn – (những bữa ăn của y được nấu riêng) – cũng không phải vì tình trạng phải xa những người thân trong gia đình – (mỗi tháng y được bí mật đưa về nhà riêng ủa y, nơi y ngủ lại một đêm) – y khổ sở và cay đắng chính là vì tình trạng Yosif Vissarionovich Stalin không còn tin cẩn y nữa. Y đau đớn vì y không còn là một vị đại tá, vì y bị thất sủng. Chính vì vậy mà những người như Rubin và Mamurin sống khổ sở trong tù hơn là những người tù khác thù hận, chống đối chế độ.

Cơ quan là một đảng viên Cộng sản. Nhưng sau khi nghe những lời thở than, tâm sự của Mamurin và nhất là sau khi đọc tập thơ của Y. Rubin trở thành lẩn tránh y. Rubin vui vẻ sống với những người chỉ trích anh một cách bất công nhưng chịu chung cảnh ngộ với anh.

Về phần Mamurin, y bị thôi thúc vì một ý muốn, ý muốn này cũng làm cho y nhức nối, khó chịu như những cơn đau răng da diết: ý muốn chứng tỏ giá trị con người của y qua việc làm. Nhưng than ôi, những hiểu biết chuyên môn của Mamurin về liên lạc và truyền tin, mdà y từng là một viên chức cao cấp trong ngành, chỉ là việc nhấc ống điện thoại lên quay số và nói. Do đó y không sao có thể tự y làm việc được, y chỉ có thể sai khiến người khác làm việc mà thôi. Nhưng việc điều khiển một dự án nào đó do dự án của người khác làm việc ra không bao giờ có thể làm cho y chiếm lại được sự tin cẩn của Người Bạn Thân Nhất của công nhân truyền tin [3] , y cần phải nghĩ ra một dự án riêng để đệ trình lên Lãnh tụ.

Trong thời gian Mamurin phát minh ra được điều này, Viện Nghiên cứu Mavrino đang sửa soạn thực hiện hai dự án đáng kể, hứa hẹn nhiều vinh quang. Đó là dự án chế tạo máy Vocoder, một máy đo tiếng nói, và thiết lập Phòng Nghiên cứu số Bảy.

Vì những nguyên nhân sâu xa nhưng vô lý nào đó, người ta thường có cảm tình hay ác cảm với nhau, chịu nhau hay không sao chịu nổi nhau, ngay từ giây phút gặp gỡ đầu tiên, từ cái nhìn thấy mặt nhau thứ nhất. Yakonov và Roitman có ác cảm với nhau và không chịu nhau. Thời gian trôi quan, sự ác cảm này càng nặng nề, họ như hai con vật cùng bị một bàn tay mạnh hơn đưa vào kéo chùng một cái gông, họ như hai con ngựa bị ghép chung vào một cái xe, hai con ngựa không sao thoát ra được nhưng kéo đi về hai hướng khác nhau. Khi công tác chế tạo máy điện thoại bí mật được thực hiện ở Mavrino, Roitman quy tụ tất cả những tù nhân chuyên viên xuất sắc mà y có thể quay tụ được vào làm việc trong Phòng Âm thính. Để trả đũa, Yakonov cũng nhặt nhạnh tất cả những chuyên viên tài giỏi trong nhà tù về làm vệic trong Phòng số bảy do y lập ra và điều khiển. Yakonov còn đêm tất cả những dụng cụ khoa học tốt nhất tập trung về Phòng số bảy. Trong trận tranh chấp quyết liệt và tàn nhẫn này, Roitman có vẻ yếu thế hơn.

Yakonov bắt buộc phải lập lên Phòng Nghiên cứu số bảy vì y không thể để cho Roitman làm hết mọi việc ở ngay thiết bị Viện Nghiên cứu mà y được cử làm giám đốc. Y phải chứng tỏ cho thượng cấp biết là y mẫn cán, y có khả năng. Kể từ ngày đó Yakonov có thể có mặt trong Viện ban đêm hay không tùy ý. Và người tù cô đơn với đôi mắt nhiều tròng trắng hơn tròng đen, viên cựu đại tá từng giữ chức giám đốc Sở Liên lạc đặc biệt, người tù từ chối không chịu ăn uống, tạm đè nén hứng thơ để làm việc như một tên nô lệ cho đến hai giờ sáng trong Phòng số bảy. Chỉ có một mình Mamurin có thể làm việc được nhiều giờ như thế vì ý là tù nhân duy nhất không bị viên chức canh gác trong nhà tù này.


11. Số bảy

Không ai nói cho những người lính chiến trên mặt trận biết rằng những vị tướng tư lệnh dự định những gì, đặt kế hoạch ra sao nhưng luôn luôn họ biết, họ biết rõ, biết đúng nữa là khác, đơn vị của họ ở trong mũi dùi tấn công chính hay là ở cạnh sườn. Cũng giống như thế, ba trăm tù nhân chuyên viên sống trong Viện Mavrino biết rằng Phòng số bảy là nơi quan trọng nhất của Viện.

Không một tù nhân nào trong Viện được quyền biết về những việc làm trong Phòng số bảy nhưng trên thực tế, tất cả mọi người đều biết. Công tác chính của Phòng số bảy là thí nghiệm và hoàn thành một máy điện thoại đặc biệt cho Lãnh tụ Tối cao dùng. Đái khái người ta hiểu là tiếng nói vào máy này sẽ bị chia cắt thành những âm thanh hỗn độn, những âm thanh này sẽ được kết tụ lại do một cái máy kách và trở lại thành tiếng nói như khi mới được phát ra. Để làm việc này người ta bắt chwocs những dàn máy radio đã được chế tạo của người Hoa Kỳ song người ta vẫn cứ cố tình coi đó là những gì do các kỹ sư điện tử Nga chế ra. Những đặc san và những quyển sách giải thích về vô tuyến truyền thanh, trong có những họa đồ, mẫu đồ được bán đầy những tiệm sách cũ ở New York được người ta ở đây đóng bìa da, đánh số, coi là tài liệu tối mật, được cất kỹ trong những tủ sắt kiên cố để ngăn không cho bọn… gián điệp Mỹ lấy trộm.

Trong những cơ sở cưỡng bách lao động như Viện Mavrino, thông lệ đã có và ai cũng biết là những khoa học gia, những chuyên viên nào thành công trong việc phát minh được một bộ máy hữu ích có thể nhận được tất cả: tự do, một sổ thông hành không ghi án tích – Gọi là Sổ thông hành sạch – một căn nhà ở Mạc Tư Khoa trong khi những người khác không nhận được gì hết, không cả một ngày giảm án, không có cả một ly vodka nhỏ uống mừng những người thành công.

Ở đây chỉ có hai hạng người: thành công và thất bại, ở đây không có hạng người đứng giữa.

Vì vậy, ở Viện Mavrino những người tù khôn ngoan đều tìm hết cách để được vào làm việc trong Phòng số bảy. Được vào làm việc trong phòng này họ có điều kiện để thành công.

Kỹ sư Markushev lọt được vào Phòng số bảy với tinh thần ấy, bộ mặt ma cô thô tục của y biểu lộ ý muốn được chết vì những ý tưởng của đại tá kỹ sư Yakonov. Nhiều kẻ khác là việc ở Phòng số bảy cũng có tâm trạng giống như Markushev.

Nhưng Yakonov cũng không phải là người ngu, y cũng chọn vào làm việc trong Phòng số bảy cả những người không muốn vào đấy làm việc. Đó là trường hợp của kỹ sư Amantai Butalov, một người dân Tatar miền Kazan mang đôi kiếng trắng lớn gọng bằng sừng trên mắt, một người đàn ông thẳng tính có giọng cười vang nhà làm cho người khác điếc tai. Butalov bị án tù mười năm vì tội để cho quân Đức bắt được trên mặt trận và chịu cộng tác với kẻ thù nhân dân là Musa Djalil. Người thứ hai không muốn nhưng vẫn bị Yakonov đưa vào Phòng số bảy là Andrei Andreyevich Potapov, một chuyên viên siêu cao điện áp từng dự phần xây cất nhiều nhà máy điện lớn. Potapov tới Viện Mavrino vì lỗi lầm của một viên thư ký ngu dốt giữ việc sắp xếp những phiếu di chuyển tù nhân. Xong vì là một công nhân yêu việc làm và là một kỹ sư có lương tâm nhà nghề, Potapov thích hợp rất nhanh với cuộc sống ở đây và anh trở thành một chuyên viên không thể thay thế được trong việc sử dụng những dụng cụ đo lường điện tử phức tạp, chính xác và tế nhị.

Một người nữa trong nhóm người không cần xin vào làm việc ở Phòng số bảy là kỹ sư Khorobrov, một chuyên viên radio có tài. Anh được cắt vào làm việc ở Phòng số bảy ngay từ đầu, khi nó chưa phát triển lớn như bây giờ. Và trong thời gian gần đây, anh đã chán nản và không gia nhập vào cuộc hoạt động tới tấp quanh anh nữa. Cũng trong thời gian gần đây, Mamurin tỏ ra khó chịu nhiều trước thái độ của Khorobrov.

Sau cùng, từ một trại tập trung cưỡng bách lao động tàn nhẫn nhất người ta đưa về một thiên tài điện tử u sầu tên là Bobynin. Kỹ sư Bobynin lập tức được cọi là chuyên viên số một và được đặt ở trên tất cả mọi người. Anh sắp chết ở trong trại thì được lấy ra, đem về và trong trường hợp thành công, anh là người đầu tiên có hy vọng được trả lại tự do. Vì vậy Bobynin thức làm việc đến quá nửa đêm, nhưng anh làm việc với một vẻ trịnh trọng kiêu mạn đến nỗi Mamurin phải sợ anh. Bobynin là người duy nhất làm việc ở đây mà Mamurin tránh không nói động đến.

Phòng số bảy cũng là một căn phòng dài rồng y hệt Phòng Âm thính ở từng dưới. Phòng này cũng trang bị những dụng cụ không khác gì nhiều những dụng cụ trong Phòng Âm thính.

Mỗi ngày Yakonov đến Phòng số bảy nhiều lần… Vì vậy sự có mặt của y ở đây không gây ra tình trạng căng thẳng khi có Xếp lớn đến thăm. Chỉ có Markushev và bọn hạ tiện cùng loại với y là tỏ ra làm việc cần mẫn hơn, chăm chú hơn khi có Yakonov tới. Riêng Potapov, anh đặt những dàn điện tử của anh lên một kệ sắt kê ở cuối phòng và kệ sắt này trở thành bức vách ngăn anh với mọi người trong phòng. Potapov ngồi ở đó như ngồi riêng hẳn một nơi cách biệt. Anh làm việc chậm rãi, cẩn thận và đúng lúc Yakonov bước vào, anh đang chế tạo một chiếc hộp đựng thuốc lá bằng Plastic đỏ để biếu một người làm quà sinh nhật vào sáng hôm sau.

Mamurin đứng lên chào đón Yakonov như chào đón một người ngang hàng. Y không bận bộ đồng phục màu xanh đậm của tù nhân, bộ quần áo y bận là một bộ hàng len đắt tiền, nhưng bộ đồ sang trọng này cũng chẳng làm cho khuôn mặt gầy gò và dáng người xương xẩu của y sang hơn được chút nào.

Có một vẻ gì đó xuất hiện trên vầng trán bóng như trái banh và trên vành môi mỏng mím chặt của Mamurin cho Yakonov biết rằng y đang vui sướng:

"Anton Nikolaich…" Mamurin nói – "Chúng ta tiến bộ nhiều lắm rồi. Đây, ông nghe… Tôi đọc cho ông nghe…"

“Nghe” và “đọc” là hai việc thí nghiệm quan trọng được thực hiện mỗi ngày trong Phòng số bảy trong thời gian này. Không giải thích thêm nữa, Mamurin đi về cuối phòng và đứng quay lưng lại Yakonov. Y đưa ống nói lên và đọc vào đó một bài báo. Ở đầu dây đằng kia, Yakonov mắc ống nghe lên tai và chăm chú nghe. Giữa những tiếng nói the thé của Mamurin, y còn phải nghe không biết bao nhiêu tiếng động chói tai khác. Nhưng như một người mẹ âu yếm nhìn đứa con quái thai của mình, Yakonov vẫn không nhấc ống nghe ra khỏi tai, y thấy rằng những tiếng động phá hoại ấy có vẻ êm hơn, nhẹ hơn những tiếng y vừa nghe lúc trưa nay. Bài báo Mamurin đọc qua máy truyền thanh cho y nghe là một bài báo viết về sự hỗn hào của bọn lính Yugoslav gác biên giới và sự tàn ác của tên đồ tể Tito, kẻ đã biến quốc gia yêu hòa bình này thành một lò sát sinh vĩ đại [4] . Yakonov có thể dễ dàng đoán ra được những gì y không nghe rõ, y đoán nhưng không nhớ y đoán, và việc này càng làm cho y tin chắc rằng việc truyền thanh đã tiến bộ nhiều.

Yakonov muốn trao đổi ý kiến và quan điểm về sự tiến bộ của dàn máy đang được thí nghiệm này với Bobynin. Người tù này ngồi gần y. Ngay cả lúc ngồi Bobynin cũng vẫn to lớn, đôi vai anh mở rộng và mái tóc anh cắt ngắn đúng kiểu tóc tù nhân mặc dù ở đây tù nhân muốn để tóc theo kiểu nào cũng được. Bobynin không cả ngoảnh mặt nhìn lại khi Yakonov vào phòng. Cúi trên một máy dao động đồ hình, Bobynin đang chăm chú đo đạc bằng một cây thức com phương án.

Tên Bobynin này chỉ là một tên tù không đáng kể, một thứ sâu bọ mang hình người, một tên thuộc giai cấp hạ tiện cuối cùng của xã hội. Trong khi ấy Yakonov là một viên chức chính quyền cao cấp. Vậy mà Yakonov không dám làm rộn Bobynin mặc dù y rất muốn.

Người ta có thể xây dựng những tòa nhà trăm tầng như tòa Empire State, người ta có thể làm cho quân đội Phổ có kỷ luật, suy tôn Lãnh Tụ lên cao hơn cả Thượng đế nhưng người ta vẫn không có thể áp chế được tinh thần của một số người.

Có những người lính trơn làm cho những sĩ quan chỉ huy họ phải sợ họ, có những người thợ làm cho bọn cai phải bối rối và có những người tù làm cho bọn cai ngục run rẩy.

Bobynin biết như thế và anh lợi dụng tình trạng này trong việc giao thiệp và đối phó với những kẻ có quyền.

Mỗi lần Yakonov nói chuyện với Bobynin là một lần y thấy y tìm cách lấy lòng Bobynin, tránh không làm cho Bobynin khó chịu hoặc nổi giận. Y rất bất mãn về việc này nhưng y cũng nhận thấy rằng không phải chỉ riêng mình y có thái độ đó với Bobynin, tất cả mọi người đều có thái độ như thế đối với người tù tên là Bobynin.

Nhấc ống nghe ra khỏi tai, Yakonov ngắt lời Mamurin:

"Khá lắm, Yakov Ivanich, tiến bộ khá lắm. Tôi muốn nhờ Rubin nghe coi sao. Tai hắn tốt."

Một người nào đó từng được Rubin khen ngợi về một chuyện gì đó cól ần nói rằng Rubin có đôi “tai tốt”. Và lời nhận xét này được mọi người tin. Rubin là người tù trôi giạt tới Viện Mavrino cũng vì một sự lầm lẫn. Từ đó anh tự làm cho anh trở thành cần thiết bằng cách phiên dịch những tài liệu chuyên môn tiếng ngoại quốc ra tiếng Nga. Tai bên trái của anh nghe được nhưng cũng không tốt gì hơn tai những người khác, nhưng tai bên phải của anh đã bị điếc vì tiếng bom nổ tren mặt trận Tây Bắc. Sau khi được đề cao là có đôi “tai tốt”, Rubin dấu kỹ không để cho ai biết rằng tai bên phải của anh đã bị điếc. Uy tín “tai tốt” làm cho địa vị của Rubin càng thêm vững chắc trong Viện Mavrino, và anh làm cho địa vị này vững chắc thêm bằng một bài khảo cứu nhan đề Âm thanh nhân tạo và hiệu thính âm điện tử trong tiếng nói Nga Ta Lư.

Họ gọi điện thoại xuống Phòng Âm thính mời Rubin lên. Trong khi chờ đợi, họ lại học và lại nghe. Đây là lần thứ mười trong ngày họ đọc và nghe như thế. Markushev, với đôi lông mày nhìn lại và đôi mắt mệt mỏi vì chú ý, màng ống nói lên một lúc và trịnh trọng nói rằng có sự tiến bộ, rất nhiều tiến bộ. Dyrsin gượng cười như người xin lỗi và gật đầu. Bulatov nói lớn rằng họ sắp đi đến thành công lúc hai chuyên viên điện khi nghe chung một cặp ống nghe cùng nói bằng một giọng tin tưởng rằng âm thanh đã rõ hơn nhiều lắm.

Bobynin vẫn tiếp tục đo trên dao động đồ, anh vẫn không ngửng đầu lên nhìn.

Đôi kim đen trên mặt chiếc đồng hồ treo tường lớn đã chỉ 10 giờ 30. Chỉ còn nửa tiếng nữa mọi công việc trong Viện sẽ ngừng trừ Phòng số bảy, những tập đặc san được đánh số và coi như tài liệu tối mật sẽ được cất vào tủ sắt và bọn tù sẽ về phòng ngủ, những viên chức tự do sẽ vội vã đi đến trạm xe buýt. Họ sẽ phải chờ lâu mới có xe về vì ban đêm, xe buýt chạy ít.

Ilya Terentevich Khorobrov, ở cuối phòng và bên ngoài mắt nhìn của những ông xếp, nặng nề lê chân ven theo tường về phía Potapov. Khorobrov là người vùng hoang vu nhất của miền Vyatka, gần Kai, quê anh nằm cạnh một vùng đồng lầy ruộng bao la – diện tích của vùng đồng lầy này lớn hơn toàn thể diện tích lãnh thổ nước Pháp – trong đầm lầy này có những trại tập trung đáng sợ nhất của chế độ Nga Xô Viết. Khorobrov từng có dịp nhìn thấy, và biết nhiều hơn mọi người nhưng sự cần thiết phải luôn luôn giấu kín ý nghĩ và đè nén sự đòi hỏi công lý đã làm cho tinh thần và cả thể xác anh nữa, trở thành cong queo, gù xuống, lệch lạc, làm cho vẻ mặt anh trở thành khó coi và vành môi anh rúm lại trong một đường nét thật bẩn. Sau cùng, trong cuộc bầu cử thứ nhất được tổ chức sau chiến tranh, anh không còn chịu đựng được nữa và anh viết bậy những hàng chửi rủa của giới nông dân thô tục lên tấm phiếu bầu, những lời chửi rủa này được anh tặng cho vị Lãnh tụ Tối Cao, vị Thiên Tài của những Thiên Tài. Đó là thời những căn nhà đổ nát không được sửa chữa lại và ruộng nương không được cày vì thiếu người. Trong cả một tháng trường sau ngày bầu cử nhiều nhân viên mật vụ trẻ tuổi nghiên cứu nét chữ viết của tất cả những người đi bầu trong vùng và họ bắt được đúng kẻ viết bậy là Khorobrov. Anh đi tù với niềm ngây ngô là từ nay anh sẽ được dịp nói hả hê những điều anh muốn nói – ở tù rồi còn sự gì nữa – nhưng cuộc sống trong tù vẫn không cho anh tự do chửi rủa như anh tưởng. Cả đống chỉ điểm viên thi nhau báo cáo về Khorobrov và rất sớm, anh nhận thấy rằng anh nên ngậm miệng là hơn.

Trong Viện Mavrino, sự khôn ngoan tầm thường nhất cho Khorobrov biết rằng anh nên hòa mình vào số những người làm việc ở Phòng số bảy. Lọt vào đây dù anh không có hy vọng gì được trả lại tự do nếu người ta thành công, ít nhất anh cũng được hưởng một đời sống vật chất tương đối sống được. Nhưng sự bất công, vô lý của những trường hợp bị tù của những người khác mà anh đã ở thấy đây làm cho Khorobrov buồn nôn, anh đã đi tới giai đoạn một người không còn muốn sống nữa.

Đi tới chỗ Potapov ngồi, Khorobrov cúi lưng trên bàn và nói bằng một giọng bình thản:

“Andreich… Nghỉ thôi. Đêm nay là đêm thứ Bảy.”

Potapov vừa gắn cái chốt gài hai nắp hộp đngj thuốc điếu vào nhau, cái chốt này màu hồng. Anh nghiêng đầu ngắm vật thủ công do chính ta anh làm ra và hỏi:

“Thấy sao, Terentich? Hai màu này hợp nhau chứ?”

Không thấy Khorobrov trả lời, Potapov ngước mắt nhìn người bạn tù. Ánh mắt anh dưới làn kiếng trắng dày nhân từ như ánh mắt bà ngoại nhìn anh cháu.

“Vội gì, Terentich. Thời gian làm việc cho chúng ta. Anton sắp ra về và chúng ta sẽ biến vào không khí ngay lập tức…”

Anh nhấn mạnh ba tiếng “ngay lập tức” như đó là những tiếng quan trọng.

Rubin đã có mặt trong phòng. Bây giờ là mười một giờ đêm, ngày làm việc đã chấm dứt, Rubin đang muốn về giường ngủ đọc Hemingway. Nhưng muốn tỏ ra chú ý đến việc làm của Phòng số bảy, anh hoặc Markushev đọc đi đọc lại những câu mà anh cho là có nhiều âm thanh cần kiểm soát nhất. Anh ra hiệu bằng tay cho Markushev đọc to hơn, đọc nhỏ hơn, như đó là những việc rất quan trọng. Sau cùng, anh gỡ ống nghe ra khỏi tai và tuyên bố rằng theo anh sự tiến bộ tuy có rõ rệt đấy nhưng vẫn còn nhiều khuyết điểm lắm.

Mọi người ồn ào lên tiếng tán thành và bày tỏ sự vui mừng khi có tiến bộ. Đến lúc này, Bobynin mưới ngửng mặt lên khỏi bàn dao động đồ và nói bằng giọng nói trầm tĩnh, ngạo mạn đặc biệt của anh:

“Ngốc. Tiến lên được một bước. Các anh làm việc mò mẫm như thế làm sao có thể thành công được. Phải có phương pháp, phải biết trước mình sẽ làm gì, mình đi tới đâu.”

Dưới cặp mắt nhìn nghiêm khắc không chút rung động của Bobynin, tất cả mọi người trong phòng đều im lặng.

Sau bức vách sắt làm bằng kệ sắt xếp đầy máy, Potapov dán khóa gài vào nắp hộp đựng thuốc điếu. Potapov từng sống ba năm trong trại tù binh Đức và anh chỉ sống sót được ở đó nhờ tài chế tạo những chiếc bật lửa, hộp đựng thuốc điếu và tẩu gắn thuốc điếu tuyệt đẹp bằng những vật dụng vứt đi. Anh chế tạo chúng mà không cần có dụng cụ gì cả, chỉ hoàn toàn bằng những ngón tay thần diệu của anh.

Không có một ai trong phòng tỏ vẻ muốn về nghỉ mặc dù ngày mai sắp đến là một ngày chủ nhật.

Đúng lúc ấy Khorobrov đứng thẳng người lên. Anh đặt tập tài liệu được phát cho anh nghiên cứu lên mặt bàn của Potapov để chờ cất vào tủ sắt, rồi anh đi về phía cửa phòng. Anh lặng lẽ đi ngang đám người xúm xít quanh cái máy được gọi là “Máy cắt âm thanh”.

Mamurin, mặt xanh mướt trợn mắt nhìn theo Khorobrov:

“Ylia Trentich… Tại sao anh không chịu nghe? Mà anh đi đâu vậy?”

Không vội vã Khorobrov từ từ quay lại, với nụ cười méo mó trên vành môi rúm, anh trả lời rõ ràng từng tiếng:

“Tôi không muốn nói lớn nhưng nếu ông nhất định đòi biết, tôi xin nói: ra khỏi đây tôi đi tới phòng vệ sinh. Nói rõ hơn: tôi đi tiểu tiện và đại tiện. Sau đó, nếu không có việc gì bất ngờ xảy ra, tôi đi về phòng giam và nằm xuống ngủ.”

Trong bầu không khí im lặng nặng nề đè xuống gian phòng sau câu nói đó, người ta nghe tiếng cười giòn của Bobynin, người không cười mỉm bao giờ, vang lên.

Việc làm của Khorobrov được coi như một hành động nổi loạn.

Mamurin bước tới để đánh Kinh, y rít lên:

“Anh nói gì? Về ngủ? Tất cả mọi người đều làm việc trong khi anh về ngủ?”

Khorobrov đặt tay lên nắm đấm cửa, anh trả lời như người đang ở vào tình trạng gần mất tự chủ:

“Phải, đúng thế – tôi về ngủ. Hôm nay tôi đã làm việc đủ 12 tiếng đồng hồ do Hiến pháp qui định rồi. Tôi làm việc đã đủ.”

Anh có vẻ sắp nói thêm một câu gì nữa, và câu này sẽ là một câu không còn gì có thể cứu vãn được, cánh cửa phòng bỗng mở ra và người sĩ quan trực bước vào báo:

“Thưa đại tá… có điện thoại trên Tổng bộ gọi đại tá.”

Yakonov vội đứng lên và đi ra khỏi phòng trước cả Khorobrov.

Một lát sau, Potapov tắt đèn trên bàn, anh đặt tập tài liệu được trao cho anh cùng tập tài liệu của Kinh lên mặt bàn của Butatov và khập khiễng đi về phía cửa. Anh đi khập khiễng vì chân trái anh bị thương vì một tai nạn xe máy dầu xảy ra trước chiến tranh.

Phụ tá Tổng trưởng Bộ An ninh Sevastyanov gọi điện thoại tới ra lệnh cho Yakonov phải có mặt ở Bộ vào lúc 12 giờ đêm nay.

Yakonov trở về văn phòng của y. Y cho Nerzhin về và mời Verenyov cùng về thủ đô trong xe hơi của y. Y bận áo ngoài, mang bao tay và trở lại bàn viết. Dưới hàng chữ “Nerzhin sẽ phải đi”, y viết thêm:

“Cả Khorobrov nữa.”



[1] Trong đoạn này, tác giả nói đến đạo Lão của Trung Hoa. Xong các câu nói trên đây có vẻ là một cách ngông của Khổng giáo về vấn đề “tri túc” hơn là một câu trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử (Nd).
[2]Kinh Vệ đà: Một kinh sách tôn giáo có trước Phật giáo ở Ấn Độ, trước đây hơn 2.000 năm.
[3]Người Bạn Thân Nhất đây chính là Stalin. Ở Nga dưới thời Stalin ngự trị, tất cả mọi ngành công nhân đều gọi Stalin là Người Bạn Thân Nhất, cả những binh chủng cũng vậy.
[4]Yugoslav là Nam Tư và là người lãnh đạo Nam Tư, Tito, bị Stalin ghét nhất.
Nguồn: Tác phẩm viết bằng tiếng Nga của Aleksandr I. Solzhenitsyn, giải Văn chÆ°Æ¡ng Nobel 1970 do Nhà Harper và Row dịch và ấn hành lần thứ nhất năm 1968 ở Hoa Kỳ dÆ°á»›i nhan đề tiếng Anh The First Circle. Bản dịch tiếng Anh của Thomas P. Whitney. Bản Việt văn của Hải Triều dịch theo bản tiếng Anh của Thomas P. Whitney do Nhà xuất bản Đất Má»›i ấn hành lần thứ nhất Sài Gòn, Việt Nam, 1973. Nhà xuất bản Đất Má»›i giữ bản quyền. KD. Số 2137/PTUDV ngày 15-5-1973. Giá 900Ä‘. Bản Ä‘iện tá»­ do talawas thá»±c hiện.