© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
9.9.2008
Aleksandr I. Solzhenitsyn
Tầng đầu địa ngục
Hải Triều dịch
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12 
 
27. Giấy in tiếng

Không một ai, kể cả những nhân viên tự do, muốn làm việc trong ngày Chủ nhật.

Họ đến sở làm với sự chán nản trong tâm hồn, những chuyến xe buýt vắng người hơn mọi ngày càng làm cho họ thêm chán nản, họ nghĩ đến cách làm cách nào để có thể ngồi hết một ngày đến sáu giờ chiều.

Nhưng buổi sáng Chủ nhật hôm nay, quang cảnh Viện Khoa học Mavrino hoạt động hơn mọi ngày thường. Sau 10 giờ sáng có một dãy xe hơi theo nhau chạy qua cổng Viện. Bọn lính gác tới tấp đứng chào nghiêm. Những chiếc xe hơi bóng loáng chạy qua vườn trên con đường vừa mới được quét tuyết phủ, tới đậu ở trước cửa tòa nhà chính, những sĩ quan cao cấp với những cầu vai áo mang lon vàng đỏ rực rỡ bước ra khỏi ba chiếc xe đầu. Không chờ ai tiếp đón, những vị này đi thẳng lên văn phòng Viện trưởng Yakanov ở tầng lầu ba. Không một ai có đủ thì giờ để nhìn kỹ họ và để biết họ là những ai. Vài tù nhân kháo nhau rằng Tổng trưởng An ninh Abakumov đến với tám ông Tướng, nhưng ở nhiều phòng nghiên cứu khác, nhiều tù nhân vẫn không biết gì cả về đoàn quan khách sang trọng vừa đến.

Sự thật chỉ bằng một nửa lời đồn: chỉ có Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov đến Viện cùng với bốn ông Tướng thuộc Bộ An ninh đi theo.

Nhưng có nhiều chuyện bất ngờ xảy ra: Đại tá Kỹ sư Yakanov sáng nay chưa đến Viện. Người sĩ quan trực sợ hãi bỏ vội quyển tiểu thuyết y đang đọc vào ngăn kéo – y không có quyền đọc bất cứ sách báo gì trong giờ trực – và cuống quít gọi điện thoại đến nhà riêng của Yakanov, sau đó y đứng nghiêm báo cáo với ông Phụ tá Tổng trưởng rằng Đại tá Yakanov sáng nay khó ở vì chứng bệnh đau tim nhưng đang trên đường đến Viện. Trong thời gian đó Thiếu tá Roitman, Phó Viện trưởng, người phụ tá của Viện trưởng Yakanov, sửa lại bộ quân phục và đi như chạy trên những hành lang để tới trình diện với quan khách, y vội vã không phải chỉ vì luật lệ bắt buộc y phải vội vã như thế mà còn vì y ít có dịp gặp được các quan to, Yakanov tìm đủ cách ngăn chặn không cho y gặp được các vị thượng cấp. Roitman đã được biết hôm qua hai tù nhân Bobynin và Pryanchikov được gọi về Bộ để hỏi về việc gì và y đoán biết sáng nay các vị quan to ở Bộ tới Viện chỉ cốt là để kiểm soát công tác, y cần được gặp các quan để trình bày về việc làm của y trước khi Yakanov đến và nhận hết mọi thành tích. Dù chỉ mới ba mươi tuổi, Roitman đã được lãnh một giải Stalin về khoa học và y là người ngày đêm chỉ sống để làm việc phục vụ Lãnh tụ Tối cao.

Mười vị quan to ngồi nghe Roitman thuyết trình về những dự án khoa học đang được thực hiện trong Viện xong chỉ có hai vị hiểu được y nói gì, tám vị kia chỉ ngồi trầm ngâm với một vẻ nghiêm trọng đầy bí mật. Mamurin, người được Oskolupov gọi đến, chỉ chăm chăm chờ dịp là cướp lời Roitman. Rồi Yakanov hấp tấp tới nơi. Sáng nay hai mắt Yakanov sâu trũng xuống với hai quầng đen, da mặt y tái nhợt như người đang đau nặng. Sau khi chào nghiêm, Yakanov ngồi xuống chiếc ghế cạnh tường. Cuộc thuyết trình của Roitman phải ngưng.

Đám sĩ quan an ninh đứng hết ngoài hành lang trước cửa phòng, sẵn sàng chờ được gọi đến. Trong bầu không khí nghiêm trọng này, không ai để ý đến cửa Phòng Đồ hình được khóa kín liền trong mấy tiếng đồng hồ.

Sau khi hội họp trong văn phòng Viện trưởng Yakanov, đám quan khách phân tán thành nhiều toán đi thăm các phòng. Chỉ có Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov cùng đi với Thiếu tá Roitman xuống Phòng Âm thính. Yakanov bận tiếp Oskolupov trong Phòng Số bảy.

Trên đường đi, Sevastyanov hỏi Roitman:

"Thiếu tá định dùng biện pháp nào tìm ra được tên ấy?"

Roitman chỉ mới được biết về việc Viện Mavrino phải dò tiếng nói thâu được từ máy điện thoại để tìm bắt được một tên phạm tội ở Bộ Ngoại giao, nhưng năm phút cũng đã đủ để y sửa soạn được lời nói:

"Thưa ông Tổng trưởng – Roitman nói – ở đây chúng ta có một giàn máy tuy còn đang thí nghiệm nhưng đã có thể dùng được. Chúng tôi tạm gọi máy đó là máy VIR. Tiếng nói của người ta được ghi lên giấy với những ký hiệu đặc biệt. Không tiếng nói của ai hoàn toàn giống ai. Cũng như dấu tay vậy. Và chúng ta có một chuyên viên tên là Lev Rubin đọc được những ký hiệu ấy…"

"Lev Rubin? Hắn là tù nhân ư?"

"Thưa vâng. Hắn là nhà ngôn ngữ học. Chúng ta sẽ đem tiếng nói của kẻ phạm tội in lên giấy rồi so sánh với tiếng nói của những kẻ bị tình nghi. Bằng cách ấy, ta sẽ tìm ra tên phạm tội".

"Hừm…" - Sevastyanov vừa nói vừa lắc đầu" - "tôi cần xin sự đồng ý của Đồng chí Tổng trưởng về việc dùng nhà ngữ học này".

"Vì vấn đề an ninh?"

"Phải".

Vào lúc này, ở trong Phòng Âm thính, mặc dù mọi người đều biết rằng có Ủy ban Điều tra Kiểm soát từ Tổng Bộ đến Viện, vẫn chưa ai vượt khỏi được sự bất động của buổi sáng Chủ nhật để bắt tay vào việc, họ lười biếng mở những ngăn tủ chứa đầy những bóng đèn radio cũ, nhìn ngây lên qua cửa sổ và ngáp dài. Những thiếu nữ trong đám viên chức tự do đứng xúm lại ở những cửa sổ, bàn tán nho nhỏ với nhau. Trước khi Roitman và Sevastyanov tới Phòng Âm thính, những thiếu nữ ở đó đều đã được sĩ quan an ninh mời hết sang phòng khác.

Nerzhin đang ngồi trong Phòng Âm thính. Trước vẻ bối rối quan trọng và nhộn nhịp của những người chung quanh. Nerzhin có cảm tưởng chàng làm một ông khách xa lạ hẳn với họ. Đây là lần thứ ba chàng vào Phòng Âm thính. Chàng không có việc gì ở đây cả, chàng đang nóng ruột chờ đợi đợi xe Maria Đen đến đưa đi gặp vợ và chàng vào đây để ngồi nói chuyện với Lev Rubin, Nerzhin ngồi dựa lưng lên thành cửa sổ, chàng khoan khoái thưởng thức khói điếu Belomor trong khi nghe Lev Rubin trình bày bài thơ về Moses vừa làm xong sáng nay. Rubin đã đọc bài thơ này cho Giáo sư Chelnov nghe nhưng anh không tin tưởng lắm ở khiếu thưởng ngoạn văn nghệ của ông giáo sư già ấy. Anh nồng nàn và quan trọng trình bày lại bài thơ với Nerzhin và hồi hộp chờ đợi Nerzhin khen ngợi.

Đúng lúc ấy thì Thiếu tá Roitman hướng dẫn Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov vào phòng. Hai người đi thẳng tới chỗ Rubin ngồi.

"Thưa Đồng chí Tổng trưởng … tôi xin giới thiệu nhà ngôn ngữ học Lev Rubin, người duy nhất trong Liên bang Xô Viết hiện nay đọc được những ký hiệu của tiếng người nói ghi trên giấy".

Rubin đứng dậy lặng lẽ cúi đầu chào.

Ngay từ lúc nghe thấy tiếng Roitman nói đến "máy VIR" khi y và Sevastyanov còn đi ngoài hành lang, cả Rubin và Nerzhin cùng bất giác giật mình. Họ ngạc nhiên vì công tác nghiên cứu về tiếng nói của họ, từ trước tới nay vẫn không được ai coi trọng – những nhà khoa học đồng tù thường chỉ hỏi thăm họ về sự tiến triển của cuộc nghiên cứu này để cười nhạo họ – bỗng dưng được thiên hạ chú ý đến. Chỉ trong khoảng 45 giây đồng hồ cần thiết để cho Roitman đưa Sevastyanov đến bàn Rubin, với sự thông cảm tình hình rất nhanh đặc biệt của những người đã sống lâu năm trong tù, Rubin và Nerzhin cùng hiểu rằng như vậy là Rubin sắp trình diễn một cuộc đọc tiếng nói ghi trên giấy bằng ký hiệu, và mặc dù Rubin có thể đọc được, vẫn từng đọc, họ cũng tính ngay đến chuyện phải làm sao cho Rubin thành công trong cuộc thí nghiệm này. Nếu chẳng may mà Rubin đọc sai, cuộc nghiên cứu của họ có thể bị bãi bỏ không chút xót thương.

Họ đưa mắt nhìn nhau thông cảm và Rubin khẽ nói:

"Nếu họ bảo anh, hãy đọc câu: "Giấy in tiếng có thể làm cho người điếc dùng được máy điện thoại".

Nerzhin cũng thì thầm lại rất nhanh:

"Nếu hắn đọc lấy, tôi sờ tay lên tóc là anh đúng, sờ cổ áo là sai".

Và Rubin đứng lên để chào người mới đến.

"Bây giờ" – Roitman nói tiếp – "Lev Grgiorich sẽ trình bày để ông Tổng trưởng thấy tận mắt việc đọc giấy in tiếng nói. Chúng tôi có sẵn một xướng ngôn viên chuyên môn đây, anh Gleb Vikentich Nerzhin. Anh này sẽ ghi câu này lên giấy và anh Lev Grgiorich sẽ cố gắng đọc ra câu ấy".

Cả phòng thí nghiệm ngừng hoạt động. Mọi người đều hồi hộp chờ đợi. Roitman xúc động ra mặt. Đọc xong, Nerzhin ra khỏi phòng ghi âm và đứng ở xa, lãnh đạm nhìn lại phía Rubin. Mọi người đứng xúm quanh bàn Rubin. Tất cả đều đứng, chỉ có một mình Rubin là ngồi. Với những cử chỉ trang trọng của một giáo sĩ hành lễ, Rubin cầm cây viết chỉ lên tờ giấy ghi ký hiệu vừa lấy trong máy ra và giảng giải.

Nerzhin cười thầm khi Rubin yêu cầu cử tọa đưa cho anh cái kiếng khuếch đại để nhìn cho rõ hơn. Thực ra, không cần gì phải dùng đến kiếng khuếch đại, Rubin chỉ bày vẽ ra như vậy cho công việc quan trọng hơn. Và trong lúc tất cả mọi người – tất nhiên là trừ Nerzhin – say mê theo dõi việc Rubin đọc lên từng tiếng, vừa đọc vừa viết xuống giấy: "Giấy…in… tiếng… có… thể...", không ai chú ý đến Trung úy An ninh Shusterman nhón gót đi vào phòng.

Shusterman đứng lại bên cửa. Ý ra hiệu cho Nerzhin đi ra. Nerzhin hiểu rằng giờ đi thăm đã đến và chàng rảo bước đi ngay. Shusterman còn muốn gọi Rubin nữa. Y muốn bắt Rubin trở về phòng ngủ để làm lại giường cho ngay ngắn. Y từng nhiều lần hành hạ Rubin với việc này.

Rubin đã đọc được hai tiếng "người điếc" và đang nhíu mày tìm tiếng tiếp theo, chợt anh ngước mắt nhìn lên và nhìn thấy bộ mặt rạng rỡ, tươi rói của Roitman – Roitman có vẻ như chính y là người đọc được những chữ này – và anh bắt gặp tia nhìn của Shusterman. Anh hiểu ngay tên sĩ quan an ninh lắm chuyện này đến đó làm gì và tia mắt khôi hài, chế nhạo của anh nói với y: "Đi chỗ khác chơi…"

"Người điếc… dùng được… máy điện thoại…" Rubin nói lớn, viết và quăng bút… "Máy điện thoại" là ba tiếng chúng tôi vẫn dùng đến nhiều trong những cuộc thí nghiệm nên nhìn thấy là tôi đọc được ngay…"

"Kỳ diệu…"

Sevastyanov nhắc lại:

"Kỳ diệu… Tôi xin lỗi, tên anh là gì?"

"Lev Grgiorich Rubin".

"Lev Grgiorich… Anh có thể nhận ra tiếng một người nhờ những bản giấy in tiếng này chứ?"

"Đó chính là mục đích của cuộc nghiên cứu của chúng tôi".

"Tốt. Sẽ có một công tác… rất… quan trọng nhờ anh làm".

Nghe thấy quan to nói câu này, Trung úy An ninh Shusterman lủi mất.


28. Cấm không được hôn

Chiếc xe Maria đen được dùng để chở tù nhân đi gặp thân nhân sáng nay hư máy, không chạy được. Người ta phải gọi điện thoại về Bộ xin xe khác và vào lúc 11 giờ sáng Chủ nhật ấy, khi Nerzhin được gọi xuống từ phòng Âm thính, đến phòng kiểm soát, sáu tù nhân được đi thăm hôm nay đã có mặt ở đó. Vài người đang bị khám, vài người đã khám xong đi quanh quẩn hoặc ngồi ở bàn. Trung tá Klimentiev đứng gần tường, thẳng người, hai tay chắp sau lưng, thanh thản như người không liên hệ đến công việc khám xét đang được làm ở đây, nhưng Klimentiev biết rõ hơn ai hết là sự có mặt của y bắt buộc bọn giám thị phải khám xét kỹ hơn.

Vừa bước vào khu khám, Nerzhin gặp ngay vòng tay chờ đợi của Krasnogubenky, tên giám thị khám kỹ nhất, lục lọi nhất và đáng ghét nhất bọn.

"Trong túi có gì?" Krasnogubenky hỏi ngay.

Từ lâu rồi Nerzhin không còn cái vẻ vội vã làm theo lời hèn hạ của những người mới ở tù trước mặt bọn giám thị. Chàng không cần trả lời và cũng không thèm nhìn lại cái túi bộ áo mới may bằng hàng cheviot vừa được phát cho chàng để mặc đi thăm. Chàng chỉ nhìn tên giám thị bằng cặp mắt vô hồn và giơ hai cánh tay lên vừa đủ để cho gã khám túi chàng. Sau năm năm ở tù và qua không biết bao nhiêu là lần khám xét như thế này. Nerzhin không còn cảm thấy, như những người mới vào tù ai cũng thấy, việc bị khám thân thể là dã man, những ngón tay dơ bẩn chạm vào người mình như chạm vào chính trái tim rướm máu của mình. Sáng nay, đặc biệt là sáng nay, không một việc gì xảy ra có thể làm cho tâm hồn chàng mất vui sướng.

Krasnogubenky mở hộp thuốc lá do Potapov tặng chàng làm quà sinh nhật và kéo từng điếu thuốc gài trong đó ra coi xem có vật gì giấu trong đó không. Gã đổ cả những que diêm ra lòng bàn tay gã. Gã vuốt đường viền chiếc khăn mùi-soa của Nerzhin. Ngoài mấy vật đó ra, trong túi Nerzhin không có gì khác. Rồi gã nắn bóp khắp người Nerzhin, sờ cả vào bẹn, vào hậu môn chàng. Gã ngồi xuống sau lưng chàng để sờ kỹ hai chân chàng từ đùi trở xuống.

Nhờ Krasnogubenky ngồi xuống, Nerzhin nhìn thấy người tù đang bị khám sau chàng. Người này là một anh thợ điêu khắc. Chàng thấy rõ anh này đang bối rối và chàng biết vì sao anh bối rối. Nguyên lại là sống trong tù, anh thợ điêu khắc bỗng phát giác được rằng anh có khiếu viết truyện ngắn – và anh cặm cụi viết những truyện ngắn kể lại kinh nghiệm tù binh của anh thời chiến tranh trong những trại tù binh của Đức Quốc Xã, về những cuộc gặp gỡ trong phòng giam, về tòa án. Nhờ vợ anh, anh từng chuyển được vài truyện ngắn của anh ra ngoài, nhưng những truyện ngắn như thế làm sao có thể đăng được? Ngay cả ở bên ngoài, chị vợ anh cũng phải khổ sở giấu giếm những gì chồng chị gửi ra và chỉ dám cho những bà con thân nhất đọc. Nhưng một ông có học, dường như ông chú của vợ anh, đã được đọc những truyện ngắn ấy và nói với vợ anh rằng anh viết truyện ngắn còn hay hơn cả Chekhov. Lời khen này làm cho anh càng hứng chí sáng tác. [1]

Ở trong tù, tất nhiên là nhà văn tập sự này phải giấu kín những gì anh viết. Việc mang được một tờ giấy có chữ viết ra khỏi tù là một việc khó khăn không thể tưởng tượng được. Hôm nay anh thợ khắc mang theo một đoản thiên mà anh cho là tuyệt tác của anh, nhưng khi thấy có mặt Krasnogubenky trong phòng khám, anh sợ bị gã xét thấy và anh đã bỏ tờ giấy có những chữ viết nhỏ li ti vào miệng nuốt đi. Giờ đây, khi anh thấy Krasnogubenky không khám anh, anh hối hận đến đờ đẫn cả người – nếu anh gan hơn một chút, nếu anh đừng vội nuốt đi, biết đâu anh chẳng mang lọt đoản thiên ấy ra ngoài?

"Cởi giày ra".

Krasnogubenky nói và Nerzhin đặt chân lên chiếc ghế đẩu để cởi dây giày, rồi chàng vung chân đá chiếc giày không cần biết là nó bay đi đâu, Krasnogubenky lượm chiếc giày lên nhìn kỹ bên trong và uốn cong xem có vật gì giấu trong đế giày đó không. Với vẻ mặt thản nhiên như chàng từng làm việc này mỗi ngày, Nerzhin đã đá nốt chiếc giày kia ra khỏi chân. Cả hai chiếc vớ của Nerzhin đều rách và có những lỗ thủng lớn. Những lỗ thủng này cho gã giám thị cái quyền nghĩ rằng chàng không thể giấu vật gì ở trong vớ nên gã không cần bắt chàng tháo cả vớ.

Klimentiev chớp mắt liền mấy cái khi Nerzhin đá đôi giày văng ra khỏi chân. Y coi đó là một hành động sỉ nhục giám thị. Và một lần nữa Klimentiev cảm thấy hối hận vì để cho tên tù hỗn láo Nerzhin được đi gặp vợ hôm nay. Y nghĩ đến chuyện tìm cách bắt lỗi tên tù này để hủy cuộc đi thăm của hắn, y thấy rõ tên tù này không những là không cảm thấy xấu hổ, nhục nhã vì tình cảnh tù đày khốn nạn của hắn, trái lại, hắn còn có vẻ hợm hỉnh khinh thường những người có nhiệm vụ canh giữ hắn.

"Nghe đây…"

Klimentiev đột ngột nói lớn và bảy người tù cùng bảy viện giám thị đều quay về cả phía y:

"Các người đã biết luật lệ. Các người không được nhận bất cứ một vật gì do thân nhân các người đưa, hoặc vật gì các người muốn đưa cho thân nhân, đều phải đưa cho tôi, qua tay tôi. Trong khi nói chuyện, các người không được nói đến công tác, điều kiện công tác, điều kiện sinh hoạt, ăn uống, không được nói đến tên Viện này hoặc bất cứ một điều gì dính dáng đến Viện. Các người không được nói tên bất cứ ai. Các người chỉ nên nói rằng mọi việc đều tốt và các người không cần gì hết, không thiếu gì hết".

"Nếu cấm hết thì chúng tôi còn có chuyện gì để nói với nhau?" – một người nào đó đứng cuối hàng kêu lên – "nói chuyện chính trị ư?"

Klimentiev không thèm trả lời câu hỏi này. Y thấy đó là một câu hỏi ngu ngốc.

"Hãy nói đến tội lỗi của bạn" – một tù nhân nào đó rầu rĩ lên tiếng – "hãy nói đến chuyện bạn hối lỗi".

Klimentiev can thiệp ngay:

"Không được nói đến án tù của các người. Phải giữ bí mật về án tù, hạn tù. Hãy hỏi về chuyện gia đình, cha mẹ, con cái. Còn điều này nữa. Đây là luật mới: từ nay trở đi các người không được nắm tay vợ, không được hôn vợ. Cấm nắm tay, cấm hôn".

Nerzhin từ đầu vẫn thản nhiên trước cuộc khám xét và việc nhắc lại những luật lệ ngớ ngẩn – chàng biết cách qua mặt bọn giám thị ngồi canh chàng – cảm thấy máu chàng chạy mạnh khi nghe chuyện cấm hôn, mắt chàng sáng rực lên:

"Mỗi năm chúng tôi chỉ gặp được nhau có một lần…"

Chàng la lên và Klimentiev nghiêng bản mặt hồng hào của y nhìn chàng. Klimentiev có vẻ hân hoan chờ đợi chàng nói tiếp và Nerzhin nghe thấy tiếng nói chưa được phát ra trong cổ họng y: "Tôi hủy cuộc đi thăm của anh. Anh ở lại…", chàng nghẹn lời và im lặng.

Nerzhin hiểu rằng cuộc đi thăm của chàng được báo vào phút cuối, có một cái gì không được hợp lệ và Klimentiev dễ dàng hủy bỏ, y đang muốn hủy bỏ.

Là một tù nhân giàu kinh nghiệm, chàng biết nén giận.

Không gặp sự phản đối, Klimentiev thản nhiên nói tiếp:

"Nếu các người hôn nhau, nắm tay, hay vi phạm điều gì khác, cuộc gặp mặt sẽ chấm dứt tức khắc".

Người thợ điêu khắc lên tiếng:

"Nhưng vợ tôi không biết điều cấm ấy. Vợ tôi hôn tôi thì sao?"

Klimentiev vẫn thản nhiên:

"Vợ anh sẽ được nói cho biết trước khi gặp anh".

"Chưa từng có luật cấm hôn bao giờ".

"Bây giờ có".

Bọn ngu đần – Klimentiev nhìn những bộ mặt ngơ ngác và nghĩ thầm – Chúng thật ngu. Phản đối với mình thì ích gì? Chúng nó làm như mình đặt ra không bằng. Luật do thượng cấp đặt ra, mình chỉ là người thi hành.

Bọn tù nhao nhao hỏi:

"Được gặp nhau bao lâu?"

"Nếu mẹ tôi đến thay cho vợ tôi, mẹ tôi được vào không?"

"Được gặp trong ba mươi phút. Chỉ có người nào có tên trong giấy mới được vào".

"Con gái tôi năm tuổi có được theo mẹ nó vào không?"

"Trẻ con mười lăm tuổi được vào theo người lớn".

"Còn mười sáu tuổi?"

"Không được vào. Còn ai hỏi gì nữa không? Xong rồi. Đi ra".

Tuyệt diệu. Hôm nay họ không phải ngồi kín trong chiếc xe Maria Đen chở tù đi thăm những lần trước, một chiếc xe buýt nhỏ sơn xanh chờ họ ngoài sân.

Ba nhân viên giải tù, cả ba đều lại mặt ở Viện Mavrino, bận thường phục, đội mũ nỉ mềm, tay cầm súng lục trong túi áo, lên xe trước. Họ ngồi cách nhau trong xe. Hai tên trong bọn trông có vẻ như tướng cướp giải nghệ hoặc võ sĩ quyền Anh về già. Họ bận những chiếc áo khoác mới và đẹp.

Sương mù buổi sáng đã tan nhưng còn lạnh.

Bảy người tù lục đục lên xe.

Trung tá an ninh Klimentiev cũng đi nhưng đi bằng xe riêng.


29. Dấu tiếng

Tới 12 giờ trưa Yakanov vẫn chưa được thảnh thơi ngồi trong văn phòng lịch sự của y, y bận rộn trong phòng Số bảy với việc tổ chức sáp nhập hai phòng nghiên cứu lớn nhất trong Viện làm một – Phòng Số bảy và Phòng Âm thính – Sáng nay Oskolupov đã quyết định như thế và nhiều người đồng ý. Chỉ có ba người phản đối là Bobynin, Paryanchikov và Roitman nhưng họ chỉ là thiểu số không đáng kể.

Nhưng trong lúc ấy có bốn người ngồi trong văn phòng Viện trưởng Mavrino. Bốn người ấy là Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov – lão đã báo cáo bằng điện thoại với Tổng trưởng Abakumov về những việc có thể làm ngay ở Viện Mavrino – Trung tướng Bulbanyuk, Trung úy Smolosidov và tù nhân Lev Rubin.

Trung úy Smolosidov là một gã đàn ông vạm vỡ, mặt vuông, vai to và hơi lùn. Những người lạc quan nhất đời, những người tin rằng trong bất cứ người nào cũng phải có ít nhất là một vài điểm tốt, khó có thể tìm được một điểm nào gọi là tốt trên khuôn mặt khó đăm đăm không bao giờ vui của Smolosidov, trên vành môi dày của hắn. Địa vị của Smolosidov ở trong Viện là một địa vị thấp kém, hắn được xếp hạng không cao hơn một người thợ ráp máy radio bao nhiêu và lương bổng của hắn chỉ bằng lương của người nữ lao công thấp nhất. Y thường kiếm thêm được mỗi tháng chừng một ngàn ruble bằng cách lấy cắp những bộ phận radio trong Viện đem ra ngoài bán chợ đen và nhiều người biết rằng hắn không chỉ kiếm tiền bằng cách đó mà thôi.

Những viên chức tự do làm việc trong Viện đều sợ Smolosidov, kể cả những người thường chơi bóng chuyền với hắn. Bộ mặt không bao giờ để lộ một chút thành thật nào của hắn trông thật đáng kinh sợ. Và sự kiện hắn được cấp trên tin tưởng còn đáng sợ hơn nữa. Nhà hắn ở đâu? Không ai biết. Hắn có gia đình, vợ con không? Cũng không ai biết. Smolosidov không bao giờ đến nhà riêng thăm ai, hắn chỉ giao thiệp với mọi người ở trong Viện. Không ai biết gì về đời tư cũng như dĩ vãng của hắn ngoài những huy chương huân công hắn mang trên ngực và một lời hắn khoe rằng trong suốt trận đại chiến vừa qua, một vị Thống chế nổi tiếng không nói qua một câu gì mà tai hắn lại không được nghe, khi người ta hỏi tại sao lại như thế, hắn nói thêm hắn là chuyên viên truyền tin riêng của ông Thống chế.

Khi vấn đề được đặt ra là viên chức nào trong Viện Mavrino đủ tư cách phụ trách giữ những cuốn băng ghi âm tối mật do Bộ An ninh gửi đến, không do dự, Trung tướng Bulbanyuk, người mang những cuộn băng ghi âm đến, nói ngay: Smolosidov.

Và giờ đây Smolosidov ngồi như một con chó lớn, dữ dội giữ cái máy ghi âm và những cuộn băng đặt trên một chiếc bàn nhỏ trong lúc Trung tướng Bulbanyuk, cái đầu tròn và nhẵn như một củ khoai tây khổng lồ và nghiêm trọng nói với Rubin:

"Hiện nay anh là một tù nhân, Rubin. Nhưng trước đây anh từng là một người Cộng sản, rồi có thể có ngày anh sẽ trở lại là một người Cộng sản".

Rubin muốn nói: "Tôi hiện đang là người Cộng sản…", nhưng nếu nói thế, anh sẽ phải giải thích nhiều với Bulbanyuk và anh thấy việc giải thích, phân trần lúc này là hèn hạ.

"Vì vậy chúng tôi tin ở anh" – Bulbanyuk nói tiếp – "Rubin, anh sắp được nghe một bí mật quốc gia qua cái máy ghi âm này. Chúng tôi hy vọng anh sẽ giúp chúng tôi sớm bắt được tên khốn nạn này, tên đồng lõa của bọn phản quốc. Chúng muốn tiết lộ những phát minh khoa học quan trọng của tổ quốc ta với bọn ngoại nhân. Tất nhiên anh hiểu việc tiết lộ…"

"Tôi hiểu…"

Rubin ngắt lời, anh chỉ sợ anh không được nghe những cuộn băng này. Không phải vì anh tò mò nhưng anh muốn biết anh có thể làm được gì, công trình nghiên cứu của anh trong những tháng qua có thực sự giá trị như anh nghĩ hay không.

Smolosidov nhấn nút cho máy chạy.

Rubin chăm chú nhìn vào cuộn băng xoay trên máy như anh đang nhìn mặt kẻ tử thù của anh. Khi Rubin chăm chú và bất động như thế, làn da mặt anh căng ra và nét mặt anh trở thành tàn ác. Không ai có thể xin tình thương ở một người có bộ mặt như thế.

Trong sự im lặng của căn phòng, họ nghe cuộc đối thoại giữa một gã đàn ông vội vã, khích động với một thiếu phụ thản nhiên, nhẩn nha.

Những câu nói qua đi và nét mặt Rubin dần mất vẻ tàn ác, rồi mặt anh trở thành suy tư, bối rối. Trời đất, anh không chờ đợi nghe những lời nói này, anh tưởng anh sắp được nghe những lời ghê gớm…

Cuộn băng ngừng quay.

Rubin biết người ta chờ đợi anh nói ra một lời gì đó, nhưng anh chưa biết anh nên nói gì. Anh cần thì giờ để suy nghĩ và anh cần thì giờ để đốt lại điếu thuốc lá vừa để tắt nửa chừng và nói:

"Cho nghe lại".

Smolosidov nhấn nút cho cuộn băng quay trở lại.

Rubin nhìn bàn tay có những ngón tay đen đủi của Smolosidov với hy vọng ánh lên trong mắt Smolosidov có thể lầm lẫn nhấn nút xóa tiếng nói trên băng và làm cho cuộn băng này sạch trơn tiếng nói. Nếu cuộn băng này mất tiếng, Rubin sẽ không còn phải suy nghĩ lựa chọn gì nữa.

Nhưng Smolosidov không lầm lẫn. Hắn sử dụng máy rất đúng cách.

Một lần nữa họ lại nghe tiếng nói của người trẻ tuổi, tiếng nói hồi hộp, cấp bách, gần như tuyệt vọng xen lẫn những tiếng ong óng, khó chịu của người đàn bà. Rubin phải cố gắng nhiều mới tưởng tượng ra được người thanh niên có tội đang bị tìm bắt nhưng anh thấy hiện ra dễ dàng bộ mặt người thiếu phụ. Đó là một người đàn bà có mái tóc dày nhuộm màu hung hung, mái tóc có thể là tóc giả.

Anh úp mặt vào lòng hai bàn tay. Chỉ có những kẻ điên, những kẻ tâm trí cuồng loạn mới có thể coi những phát minh về y học, nói rõ hơn là những phương thuốc chữa bệnh, là những bí mật quốc gia cần giữ kín và việc phổ biến những phương thuốc này là một trọng tội cần bị trừng trị. Y học không đòi hỏi quốc tịch ở bệnh nhân. Người thanh niên gọi điện thoại đến nơi bị gài bẫy này dường như không biết rõ y sẽ gặp những nguy hiểm gì – Rubin bỗng thấy có cảm tình với người thanh niên xa lạ này.

Nhưng Lãnh tụ quyết định rằng – quyết định có thể độc đoán nhưng dù sao, đó vẫn là một quyết định phải được tôn trọng – mọi phát minh khoa học đều phải được coi là những điều kiện làm vững mạnh quốc gia, mọi người nghĩ khác như thế đều là bọn phản tiến bộ, bọn chặn đường tiến bộ, bọn có hại cho quốc gia và cần phải loại trừ.

Rubin cố nghĩ đến chuyện phản quốc. Người thanh niên này nhắc nhiều lần đến những tiếng "người ngoại quốc", như vậy có nghĩa là có "ngoại nhân" dính líu trong vụ này. Ngay cả tiếng "thuốc" cũng có thể là một ám hiệu. Đó có thể không phải là thứ "thuốc" mà là một thứ gì khác. Trong lịch sử, những vụ tương tự thường xảy ra. Những thủy thủ Baltic đã nổi dậy bằng cách nào? Bằng điện tín: "Gửi Bộ Tân luật Hàng hải đến…". Câu này có nghĩa: "Cho tàu chiến vào bến và nổ súng".

Cuộn băng lại ngừng. Rubin nhắc tay ra khỏi mặt và nhìn bộ mặt hung hăng của Smolosidov, rồi nhìn sang bộ mặt đần độn, quan trọng hóa của Rulbanyuk. Hai kẻ này làm anh ghê tởm, anh không muốn nhìn chúng, muốn ngồi gần chúng chút nào, nhưng chúng là đại diện của sức mạnh độc đoán đang ngự trị cõi đời này, anh không biết đến chúng không được.

Chính là những tên đồ tể như hai tên này ở trong Chính trị Cục đã đẩy Rubin đi tù vì chúng không thể chịu đựng được tài năng của anh, sự lương thiện tâm hồn của anh. Chính là những tên đồ tể như hai tên này ở Tòa án Quân sự từ bốn năm trời nay đều tay xé và liệng vào thùng đựng giấy vụn những tờ đơn tường trình, khiếu oan của Rubin.

Hai tên khốn nạn này chỉ đáng được người ta tặng cho chúng một trái tạc đạn, để cho thân xác chúng tan nát, vậy mà người ta vẫn cứ bắt buộc phải phục vụ chúng, như phục vụ Tổ quốc, phục vụ quốc kỳ…

Rubin dụi mẩu thuốc lá lên đĩa gạt tàn và nhìn thẳng vào mặt Sevastyanov. Trong gian phòng này, với Rubin, Sevastyanov là người tương đối đàng hoàng nhất, có tư cách nhất:

"Được rồi. Tôi sẽ cố gắng". – Anh nín thở rồi thở ra một hơi dài – "Nhưng nếu các ông không nghi cho ai, tôi không thể tìm ra được đâu. Làm sao có thể thâu được tiếng nói của tất cả mọi người đàn ông ở Mạc Tư Khoa? Tôi phải so sánh tiếng nói trong băng này với tiếng nói của những ai chứ?"

Bulbanyuk giơ tay trấn an:

"Chúng tôi đã bắt được bốn người tình nghi ở gần phòng điện thoại công cộng mà tên phản quốc đã dùng. Nhưng chắc không phải là họ. Chúng tôi có năm tên tình nghi ở Bộ Ngoại giao. Chắc chắn là một trong năm tên này là tên phạm tội. Tôi ghi tên chúng lại đây nhưng không ghi chức vụ của chúng để cho anh khỏi bị ảnh hưởng".

Y đưa cho Rubin một tờ giấy nhỏ trên ghi 5 tên người:
  1. Petrov.
  2. Syagovity.
  3. Volodin.
  4. Schhevronok.
  5. Zavarin.
Rubin đọc và gập tờ giấy lại định bỏ vào túi.

"Không được" – Sevastyanov nói vội – "Smolosidov giữ giấy này".

Rubin đưa trả tờ giấy. Sự đề phòng này không làm cho anh bất mãn, trái lại, nó chỉ làm cho anh vui vui. Bọn đồ tể ngu si này không biết rằng chỉ cần đọc qua một lần như thế là những cái tên người đó đã ghi sâu vào ký ức anh: Petrov, Syagovity, Volodin, Schhvronok, Zavarin. Không những anh chỉ nhớ kỹ những cái tên đó mà thôi, khả năng đặc biệt về ngôn ngữ của anh còn tự động ghi nhận cả những ngữ-nguyên của những danh từ ấy: "syagovity" có nghĩa là "người nhảy xa" và "schhevronok" là tên một con chim.

"Tôi yêu cầu các ông cung cấp cho tôi" - Rubin nói - "tiếng nói trong điện thoại được thu vào băng của cả năm người này".

"Sáng mai chúng tôi sẽ mang đến đây cho anh".

Rubin suy nghĩ vài giây rồi nói:

"Tôi cần biết cả số tuổi của từng người. Tôi cần cuộn băng này suốt ngày kể từ bây giờ".

"Trung úy Smolosidov sẽ giữ băng và máy. Hai người sẽ có một phòng làm việc riêng ở khu Tối mật".

Kinh nghiệm cho Rubin biết rằng anh không nên hỏi hai tiếng "bao giờ", bởi vì nếu anh hỏi chúng hai tiếng ấy, chúng sẽ hỏi lại anh hai tiếng ấy ngay lập tức. Chẳng hạn như nếu bây giờ anh hỏi chúng: "Bao giờ các anh cần kết quả?" chắc chắn chúng sẽ nói: "Sáng mai" hoặc chúng hỏi lại anh: "Theo anh, bao giờ có kết quả?". Vì vậy, anh chỉ hỏi:

"Tôi sẽ nói về công việc này với ai?"

Sevastyanov nhìn Bulbanyuk rồi đáp:

"Anh chỉ được nói với Thiếu tá Roitman. Với Oskolupov. Và ông Tổng trưởng".

Bulbanyuk nghiêm trọng hỏi:

"Anh có cần tôi phải nhắc lại những lời khuyến cáo?"

Rubin đứng lên mặc dù anh chưa được phép đứng, anh nheo mắt nhìn ông Tướng ngồi đó như y là một vật gì rất nhỏ, khó nhìn thấy và anh nói trống không:

"Tôi cần có chỗ yên tĩnh để suy nghĩ".

Không ai phản đối anh hết và Rubin đi ra khỏi phòng, vừa đi vừa suy nghĩ. Anh cần tìm cách đưa Nerzhin vào làm việc chung với anh trong công tác này, anh cần ý kiến của Nerzhin. Tìm ra đúng tiếng người nói nhờ hai cuộn băng ghi âm không phải là việc dễ. Một khoa học mới bắt đầu thành hình. Từ trước tới giờ, người ta chỉ tìm ra tội phạm nhờ dấu tay. Và người ta đã phải mất nhiều thế kỷ tìm tòi mới hoàn thiện được khoa dấu chỉ tay.

Giờ đây loài người sắp có khoa tìm người qua tiếng nói, gọi là dấu tiếng.


30. Đi đày? Dễ lắm!

Không biết được một phần mười thành phố Mạc Tư Khoa, Nadya đã biết được bản địa dư về những nhà tù nằm trong thủ đô này. Những nhà tù được rải rác đều đặn ở khắp thủ đô và có những khoảng cách đều bằng nhau từ nhà tù nọ sang nhà tù kia. Trong những chuyến đi gửi đồ cho chồng nàng là Gleb Nerzhin, đi xin gặp chồng và đi thăm chồng, Nadya dần dần biết rõ về tình trạng nhà tù ở Mạc Tư Khoa hơn cả những chuyên viên quản trị khám đường của chính phủ. Nàng phát giác ra rằng ở tất cả những nhà trạm xe hỏa đều có đặt một nhà tù gọi là "nhà tù thẩm vấn" – người bị bắt chỉ bị tạm giữ để cho tới những nhà tù chính thức – những "nhà tù thẩm vấn" này có tên riêng là KPZ. Hơn một lần Nadya đã đến những nhà tù Butyrskaya và Taganka. Nàng biết những chiếc xe buýt công cộng nào, mặc dù đường xe chạy và những trạm ngừng không được công bố, đi tới Lefortovo và tới vùng Krasnaya Presnya. Nàng hiện sống ở gần nhà tù tên cũ là Bến Thủy Thủ, nhà tù này bị đổ hồi năm 1917 và mới được sửa lại, củng cố chắc chắn hơn.

Kể từ ngày Gleb từ một trại tập trung nào đó được đưa trở về Mạc Tư Khoa và hiện chàng làm việc trong Viện Khoa học nào đó, nơi chàng được ăn uống tương đối đầy đủ và được phụ trách những công việc khoa học, Nadya lại thỉnh thoảng có dịp được gặp mặt chồng. Nhưng nàng, cũng như tất cả những người vợ tù khác, không bao giờ được đến tận nhà tù chồng nàng đang sống để thăm chồng. Những tù nhân được mang đi những nhà tù khác khắp thủ đô để gặp thân nhân họ.

Những cuộc thăm viếng dễ chịu nhất thường xảy ra trong khung cảnh nhà tù Taganka. Nhà tù này không phải là nơi giữ tù chính trị nên kỷ luật có phần lỏng lẻo. Những cặp vợ chồng được gặp nhau trong hội quán của những viên giám thị, nơi những tù nhân biết chơi nhạc – tất cả đều phạm tội ăn trộm, ăn cắp – được quyền ngồi đàn hát. Những tù nhân được đưa tới trên một chiếc xe buýt mở mui chạy trên con đường Kamenschhikov vắng vẻ. Vợ họ đứng chờ họ bên vệ đường và trước cả khi những sĩ quan phụ trách cho lệnh gặp gỡ, những tù nhân đã ôm vợ, hôn vợ, đứng nắm tay vợ, nói với nhau những chuyện cấm nói và có thể truyền tay cho nhau những vật muốn đưa cho nhau. Cuộc gặp gỡ sau đó diễn ra trong dễ dãi và tự do. Từng cặp vợ chồng được ngồi sát bên nhau trên những chiếc ghế gỗ dài và chỉ có một viên giám thị ngồi canh chừng một nhóm bốn tù nhân.

Butyrskaya cũng là một nhà tù có kỷ luật lỏng lẻo và đời sống của tù nhân tương đối sung sướng, vẫn làm cho những người vợ tù lạnh da thịt vì cảnh tượng lạnh lẽo, u ám của nó. Những tù nhân từ những nhà tù khác được tới Butyrskaya đều lập tức hào hứng vì những điều kiện "tự do" của những tù nhân ở đây: tù nhân có thể đi lại thảnh thơi trong những hành lang mà hai tay không phải luôn luôn chắp lại sau lưng, tù nhân có thể nói chuyện không cần thì thầm trong nhà ngủ và nhìn qua những ô vuông đục trên cánh cửa ra hành lang nếu họ muốn, họ được nằm dài trên những tấm ván giữa ban ngày hoặc chui xuống ngủ dưới gầm giường. Tù nhân ở nhà tù Butyrskaya còn được sung sướng về nhiều điểm nữa, chẳng hạn như ban đêm khi ngủ, họ được đút tay vào túi cho khỏi lạnh trong khi ở nhà tù Mavrino, tù nhân khi ngủ phải để hai tay ra khỏi mền, tù nhân không bị tước mất kiếng đeo mắt ban đêm, dù là kiếng cận, tù nhân được quyền có diêm quẹt ở trong mình và những ổ bánh mì chỉ được cắt ra làm bốn chứ không cắt ra thành những mảnh nhỏ.

Vợ tù không biết gì đến điều kiện hơn đời ấy, họ chỉ nhìn thấy một bức tường pháo đài cổ cao tới ba mươi thước dài trọn cả một góc phố. Họ nhìn thấy những cánh cổng sắt vĩ đại nằm giữa những cột đá khổng lồ và thấy nhiều cánh cửa sắt nhỏ khác được kéo ra bằng máy để cho những chiếc xe Maria đen chạy ra, chạy vô. Và khi những người đàn bà này được vào nhà tù thăm chồng, họ được dẫn đi qua những hành lang lạnh có những bức tường gạch dày cả thước. Và cảnh làm cho họ xúc động nhất là cảnh chồng họ như từ những bức tường dày đột nhiên hiện ra với họ trong nửa tiếng đồng hồ, người chồng nở nụ cười ma quái trên môi xám và nói với vợ rằng y không cần gì cả, không thiếu thốn gì cả, y sống đầy đủ và sau đó y biến vào những bức tường dày.

Hôm nay là lần thứ nhất Nadya được gặp chồng nàng ở nhà tù Lefortovo.

Người gác đánh một dấu trên bản danh sách và chỉ cho nàng đi tới dãy nhà một tầng dài gần cổng.

Trong một căn nhà trơ trụi chỉ có một chiếc bàn gỗ dài và hai chiếc ghế gỗ dài kê hai bên bàn đã có nhiều người đàn bà ngồi đợi. Trên mặt bàn để những giỏ mây, những túi vải đi chợ bên trong dáng chừng đựng đầy món ăn. Mặc dù biết rằng hiện nay chồng nàng ăn uống tương đối đầy đủ, túi giấy đựng thức ăn quá nhỏ của Nadya cũng làm cho nàng buồn tủi, nàng hối hận vì ý nghĩ chỉ một năm nàng mới được gặp chồng có một lần vậy mà nàng cũng không đem đến cho chồng được một món gì đặc biệt. Trong túi giấy của nàng chỉ có mỗi một cái bánh ngọt do chính tay nàng làm sáng sớm nay, trong lúc những cô bạn sinh viên ở trọ chung với nàng vẫn còn ngủ. Nàng không mua được kẹo bánh ở hiệu và nàng còn quá ít tiền. Cuộc viếng thăm này trùng với ngày sinh nhật của chồng nàng và nàng không mua được một tặng phẩm nào đem đến cho chồng. Nàng muốn đem đến cho chồng nàng một quyển sách nhưng sau những rắc rối gây ra vì quyển thơ Yesenin nàng đem đến cho chồng ở lần thăm trước, nàng không còn nghĩ đến chuyện mang sách đến cho chồng nữa.

Lần thăm trước đây nàng đem đến cho chồng quyển thơ Yesenin. Quyển thơ này giống hệt quyển thơ Yesenin mà chồng nàng đem theo khi chàng ra mặt trận và đã bị mất khi chàng bị bắt. Trên trang đầu quyển thơ này, Nadya viết hàng chữ: "Cũng như quyển thơ này, những gì anh mất sẽ trở lại với anh".

Nhưng Trung tá Klimentiev đã xé tờ giấy ghi hàng chữ này ra khỏi quyển thơ ở trước mặt nàng và đưa tờ giấy đó trở lại cho nàng, y nói không một tờ giấy viết chữ nào được đưa cho tù nhân – muốn viết gì cho tù nhân, nàng phải viết thành thư hợp lệ và đưa nộp kiểm duyệt.

Khi biết chuyện này, Gleb tức giận bảo nàng:

"Đừng bao giờ em mang sách cho anh nữa".

Bốn người đàn bà ngồi quanh bàn. Trong số có một thiếu phụ trẻ ôm đứa con lên ba trong lòng. Nadya không quen một ai cả. Nàng chào họ, họ chào trả nàng và họ lại tiếp tục nói chuyện.

Ở góc phòng xa kia có một người đàn bà trạc ba mươi nhăm đến bốn mươi tuổi, bận cái áo lông thú thật cũ, ngồi trên chiếc ghế đẩu cách xa hẳn mọi người. Bà này ngồi hai tay khoanh trước ngực, mắt nhìn ngây xuống sàn nhà. Tất cả con người của bà biểu lộ ý muốn được thiên hạ để yên cho ngồi một mình, được thiên hạ đừng ai hỏi chuyện. Không thấy có một giỏ mây hay một túi vải nào bên cạnh bà này.

Đám đàn bà ngồi quanh chiếc bàn dài sẵn sàng tiếp nhận Nadya vào cuộc nói chuyện nhưng Nadya không muốn nói gì với họ hết. Nàng cũng muốn ngồi một mình để tận hưởng sự sung sướng sắp được gặp chồng trong buổi sáng này, nàng đi đến gần người đàn bà ngồi ở góc phòng:

"Tôi ngồi đây có được không ạ?"

Nàng chỉ xuống chiếc ghế cạnh đó và hỏi. Người đàn bà nhìn lên, đôi mắt hoàn toàn không màu. Bà ta có vẻ như không hiểu câu nói lịch sự của Nadya. Bà ta nhìn như xuyên qua người nàng.

Nadya ngồi xuống ghế, nàng kéo vạt áo caracul nhân tạo che kín ngực rồi cũng ngồi yên lặng.

Lúc này nàng không muốn nghe chuyện gì ngoài chuyện nói về chồng nàng, nàng không muốn nghĩ đến bất cứ chuyện gì ngoài nghĩ về chồng nàng. Và về những chuyện lát nữa đây vợ chồng nàng sẽ nói với nhau. Những chuyện đã chìm trong quá khứ và mờ mịt trong tương lai. Những chuyện không những chỉ liên can đến một mình chàng hay một mình nàng mà là liên can đến cả hai người. Những chuyện mà người ta thường gọi là "tình yêu".

Nhưng nàng không thể không nghe câu chuyện đang được nói ở quanh chiếc bàn kia. Những người đàn bà ngồi đó đang bàn tán tới chuyện chồng họ được ăn những món gì mỗi ngày, mấy ngày chồng họ được tắm, được giặt quần áo một lần. Họ có vẻ biết rành những chuyện ấy. Tại sao họ lại biết được nhỉ? Trong những lần gặp chồng họ, họ hỏi về những chuyện ấy ư? Họ đang kê khai số lượng và giá tiền những thực phẩm họ mang đến cho chồng họ hôm nay. Với sự kiên nhẫn tỉ mỉ của họ, những người đàn bà đó làm cho những gia đình trở thành gia đình và giữ cho loài người khỏi bị tận diệt. Họ không có lỗi gì cả khi sáng nay Nadya nghĩ khác. Nàng bất mãn vì thái độ chấp nhận quá đơn giản của họ. Nàng nghĩ: Họ thật ngu, thật đáng thương. Họ biến những giây phút quý báu, thiêng liêng thành một cái gì thật tầm thường. Họ không bao giờ nghĩ đến chuyện tại sao người ta lại bỏ tù chồng họ, ai đã dám bỏ tù chồng họ? Nếu chồng họ không phải tù, họ sẽ không phải khổ sở vì việc lo sao có những thức ăn này.

Họ sẽ còn phải chờ lâu. Cuộc thăm định trước vào lúc 10 giờ sáng nhưng bây giờ đã 11 giờ rồi vẫn chưa thấy gì cả.

Người đàn bà thứ bảy, một bà tóc đã xám bạc, đến muộn hơn tất cả. Bà này vừa đi vừa thở. Nadya từng gặp bà này trong một lần đi thăm trước đây. Bà này là người vợ thứ nhất của anh thợ điêu khắc và bà sẵn sàng kể chuyện về đời tư mình cho bất cứ ai muốn nghe. Bà vẫn tôn thờ ông chồng, vẫn coi chồng như một thiên tài nhưng ông chồng bà đã bỏ bà để đi sống với một ả tóc hung vàng mặc dù họ đã có ba con với nhau. Sau ba năm chung sống chung với ả tóc hung ông chồng nhập ngũ đi ra mặt trận chiến đấu. Vừa ra tới mặt trận y đã bị bắt làm tù binh và đưa sang Đức ngay. Ở bên Đức, tuy là tù binh, y sống tự do và dường như là y còn đủ thì giờ để lấy một cô vợ Đức. Từ Đức trở về, y bị bắt ở biên giới và kết án mười năm tù. Ở trong tù, y nhắn cho ả tóc hung biết là y bị tù và yêu cầu ả tiếp tế, nhưng ả nói: "Chẳng thà anh phản bội tôi thì tôi còn có thể tha thứ cho anh, nhưng anh phạm tội tổ quốc thì không thể tha cho anh được…". Sau đó anh thợ điêu khắc xin người vợ trước tha thứ, y được tha thứ và được vợ đến thăm, gửi đồ nuôi đều đều – giờ đây y nói và y chỉ yêu vợ và sẽ yêu vợ mãi mãi.

Nadya nhớ đến những lời cay đắng của người đàn bà tóc xám từng bị chồng bỏ này là khi có chồng ở tù, việc làm tốt nhất cho người đàn bà là "ngủ với trai", để "khi nào hắn được ra hắn sẽ trọng mình. Nếu không như thế hắn sẽ nghĩ là đàn ông không ai thèm muốn mình, hắn sẽ cho mình là quá tệ…".

Và giờ đây, người đàn bà tóc xám mới đến đã làm thay đổi đề tài cuộc nói chuyện ở quanh chiếc bàn dài. Bà ta đang kể lể những rắc rối của bà với bọn luật sư ở cái sở gọi là Trung tâm Cố vấn Pháp luật ở phố Nikolsky. Trung tâm này được gọi là một "kiểu mẫu". Bọn luật sư ở đấy lấy cả ngàn đồng ruble của thân chủ và chăm chỉ lui tới những hàng ăn sang nhất Mạc Tư Khoa trong khi tình trạng được thân chủ nhờ giải quyết thì vẫn được chúng để nằm nguyên chỗ cũ, nghĩa là không biết ở chỗ nào hết. Thế rồi sau một thời gian hành nghề cố vấn như thế, bọn luật sư này đi quá trớn và cả lũ dắt díu nhau đi tù với những án tù 10 năm. Thế rồi những luật sư khác tới, mở những văn phòng cố vấn pháp luật khác và lại lấy những khoản tiền lớn của thân chủ. Những luật sư này giải thích bằng một giọng bí mật rằng họ cần lấy nhiều tiền vì không phải là họ được ăn một mình, họ còn phải chia với nhiều người nữa. Họ chia với ai và họ có chia hay không, điều đó những thân chủ của họ không sao có thể biết. Những người đàn bà khổ sở có chồng tù tội chỉ biết đóng tiền và chạy đi lại giữa những tấm lưới luật pháp trùng trùng điệp điệp, họ bất lực trước những tấm lưới này cũng như họ bất lực trước bức tường cao vút của nhà tù Butyrskaya – họ không thể có cánh để bay qua bức tường đó – và họ bắt buộc phải cúi đầu trước tất cả những khung cửa mở cho họ đi qua. Họ nộp tiền cứu chồng không phải là để chờ đợi phép lạ xảy ra – chồng họ được thả – mà là để được mơ rằng phép lạ sẽ xảy ra.

Người đàn bà tóc xám, người vợ của người thợ điêu khắc, có vẻ tin chắc thể nào mình cũng thành công trong việc minh oan được cho chồng. Theo những lời bà ta nói, người nghe chuyện được biết rằng bà ta đã gom góp được số bạc bốn mươi ngàn ruble nhờ tiền bán nhà và tiền vay mượn của bà con, và bà ta đã nộp hết số tiền ấy cho các luật sư. Đã có bốn luật sư giúp bà thực hiện việc minh oan. Đã có ba đơn xin ân xá và bốn đơn yêu cầu xử lại được các luật sư đệ nạp đúng chỗ. Bà ta đã nhận được lời hứa hẹn sẽ cứu xét ở nhiều nơi quan trọng, bà ta biết tên tất cả những ông Biện lý đang tại chức ở ba Công tố viện chính và từng thở hít không khí ở những phòng đợi ở Tòa án Tối cao và Xô Viết Tối cao. Như nhiều người cả tin và cần được niềm tin để sống, bà ta quan trọng hóa giá trị của những lời nhận xét có thiện cảm và những ánh mắt nhìn không ác cảm.

"Mình phải làm đơn, phải gửi đơn khiếu nại cho tất cả mọi người" - bà ta nồng nhiệt nói, thúc giục những người đàn bà khác cũng làm như mình - "Chồng chúng ta đang khổ. Tự do không phải là tự nhiên mà có. Chúng ta phải làm đơn".

Những chuyện đang được nói làm cho Nadya xao lãng dòng tư tưởng của nàng, những chuyện đó cũng làm cho lương tâm nàng thêm xúc động. Nghe giọng nói nồng nàn, tin tưởng của người đàn bà nọ người ta không thể không nghĩ ra rằng bà ta đã tiến xa hơn tất cả và bà ta nhất định sắp dem được ông chồng ra khỏi tù – và người ta tự hỏi: "Tại sao mình lại không làm được như bà ấy? Tại sao mình lại không chịu hết sức…"

Có một lần Nadya đã giao thiệp với một luật sư ở một văn phòng cố vấn pháp luật vừa được nói đến. Với sự chỉ dẫn và giúp đỡ của luật sư này, nàng làm một đơn khiếu nại và gửi đi, nhưng nàng chỉ có thể trả cho luật sư 2.500 ruble. Số tiền này có vẻ quá ít. Luật sư có vẻ giận, tuy y cũng nhận tiền nhưng sau đó y không làm gì cả.

"Phải… Phải" - Nadya bỗng nói lớn nhưng nàng vẫn bình thản như nàng chỉ nói với chính nàng - …Mình đã làm hết những gì mình có thể làm được cho chồng mình chưa? Lương tâm mình có trong sạch không?

Những người đàn bà đang tranh nhau nói ở quanh chiếc bàn dài không nghe thấy tiếng nàng nhưng người đàn bà ngồi cô đơn và yên lặng trên chiếc ghế cạnh nàng quay phắt lại nhìn Nadya như nàng vừa chửi bà ta vậy.

"Còn gì nữa để mà làm?" – Người đàn bà đột ngột hỏi bằng một giọng nặng những ác cảm – "Đây là một cơn ác mộng. Luật số 58 không phải là luật dành cho kẻ phạm tội mà là luật lành cho kẻ thù. Chị không thể mua được chồng chị ra khỏi Luật số 58 dù chị có cả triệu đồng".

Mặt bà ta đầy những nếp nhăn. Giọng nói của bà ta đầy những âm thanh khổ ải không sao chịu đựng nổi.

Trái tim Nadya mở ra với người đàn bà đã có tuổi này. Bằng giọng nói như để xin lỗi câu nói mơ hồ vừa rồi của nàng. Nadya nói:

"Tôi muốn nói là chúng ta chưa làm hết những gì chúng ta có thể làm. Như trước đây vợ của những nhà cách mạng tháng Chạp đã bỏ tất cả để đi theo chồng không chút do dự, không chút hối tiếc. Nếu chúng ta không thể xin được cho chồng chúng ta tự do, biết đâu chúng ta chẳng xin được cho họ đi đày? Tôi có thể chịu được nếu chồng tôi được đi tới một nơi hẻo lánh nào đó, một nơi hẻo lánh ở bất cứ đâu, ở Bắc cực cũng được, nơi không bao giờ có ánh mặt trời. Tôi sẽ đi theo chồng tôi, tôi sẽ bỏ tất cả…"

Người đàn bà với khuôn mặt rầu rĩ của một nữ tu sĩ và bộ áo cũ đến nỗi từng sợi len đan đã rời nhau, nhìn Nadya bằng đôi mắt vừa ngạc nhiên vừa thán phục.

"Chị vẫn còn đủ sức theo chồng chị đi đày ư? Chị còn may mắn và chị hãy còn sung sướng. Tôi không còn chút sức lực nào cả. Tôi không còn làm nổi được bất cứ việc gì. Tôi nghĩ nếu có ông già nào có tiền chịu lấy tôi làm vợ, tôi sẽ lấy…"

Nadya run lên:

"Bà bỏ được ông ấy sao? Bà bỏ được ông ấy trong… đó?"

Người đàn bà nắm lấy tay áo Nadya:

"Này chị… Người ta dễ yêu ở thế kỷ XIX. Những người vợ của những nhà cách mạng tháng Chạp đó – chị nghĩ họ có tinh thần cao ư? Họ hăng say nhiều hơn chúng ta ư? Họ đâu có cần phải làm việc để khỏi bị chết đói? Họ đâu có bị bọn trưởng phòng nhân viên gọi đến bắt kê khai những bản khai an ninh dài dằng dặc? Họ đâu có phải giấu những tờ hôn thú của họ như giấu một thứ bệnh kín? Giấu để còn giữ được việc làm, để cho số tiền năm trăm ruble cuối cùng trong một tháng của họ khỏi bị tước đoạt nốt, để họ khỏi bị sỉ nhục ngay trong phòng riêng của họ, để khi họ đi ra sân lấy nước họ không bị người ta chửi, người ta nguyền rủa với những câu như "kẻ thù của nhân dân". Mẹ đẻ của họ, và chị em ruột của họ, có dùng áp lực ép buộc họ phải ly dị với chồng họ không? Không, trái lại nữa là khác. Họ được mọi người kính nể, thán phục. Cuộc đời và hình ảnh họ được những nhà thơ làm thơ, họ trở thành những hình ảnh đẹp trong những huyền thoại. Họ đi sang Tây Bá Lợi Á theo chồng họ trên những cỗ xe tứ mã, họ đi nhưng họ vẫn còn nguyên cái quyền được sống ở Mạc Tư Khoa, họ vẫn còn là sở hữu của mười mẫu đất, họ đâu có phải lo lắng về những dấu đen trong sổ lao động, hoặc rã rời trước những căn bếp lạnh không có nồi niêu, không dầu mỡ, không một miếng bánh đen. Họ nói: "Đi đây…" thật dễ, mà dễ thật chứ. Dường như chị chưa phải chờ đợi lâu lắm thì phải".

Giọng nói của người đàn bà bật thành tiếng khóc.

Nước mắt chan hòa trong mắt Nadya khi nàng nghe những lời trình bày ghê gớm của người đàn bà ngồi cạnh nàng.

"Chồng tôi đi tù đã gần được năm năm rồi" – Nadya nói như để tự biện hộ – "Trước đó chồng tôi ở mặt trận".

"Đừng hy vọng gì ở chuyện đó".

Người đàn bà hung hãn cướp lời nàng.

"Ở mặt trận không giống như ở tù. Chồng ở mặt trận mình dễ chờ đợi. Lúc đó ai cũng chờ. Lúc đó mình có thể nói chuyện với tất cả mọi người về chồng mình. Đọc thư. Nhưng nếu mình vừa phải chờ vừa phải giấu, vừa phải trốn – làm sao mình sống được?"

Người đàn bà ngừng lại. Bà ta không cần phải nói gì nhiều hơn về tình trạng ấy với Nadya.

Bây giờ đã là 11 giờ 30. Sau cùng, Trung tá Klimentiev bước vào phòng, theo sau là một viên Trung sĩ mập lù, mặt mũi khó khăn. Viên đội này bắt đầu mở những túi đồ, tháo tung những bao bánh, dùng dao cắt những ổ bánh ngọt được làm lấy ở nhà ra làm hai. Y cũng cất ổ bánh nhỏ xíu của Nadya để tìm xem trong đó có giấu thư, tiền, hay thuốc độc. Trong lúc đó, Klimentiev thu hồi giấy phép thăm tù của mọi người, ghi tên họ vào một quyển sổ lớn rồi đứng thẳng người theo kiểu nhà binh, dõng dạc nói:

"Các người chú ý. Tôi chắc các người đã biết luật lệ? Thời hạn thăm là ba mươi phút. Các người không được đưa riêng bất cứ vật gì cho tù nhân, không được hỏi về công việc họ làm, về đời sống của họ. Vi phạm những điều cấm ấy sẽ bị trị tội nặng. Và từ nay trở đi, khi thăm, không được nắm tay, không được hôn. Nếu vi phạm, cuộc đi thăm sẽ bị cắt đứt ngay lập tức…"

Những người đàn bà quen chịu đựng không ai nói gì cả.

Klimentiev đọc tên cặp vợ chồng đầu trên danh sách:

"Gerasimovich… Natalya Pavlovna…"

Người đàn bà ngồi cạnh Nadya đứng dậy, xiết chặt chiếc áo cũ, bà ta đi vào hành lang.



[1]Anton Chekhov: Văn sĩ viết truyện ngắn nổi tiếng nhất của Nga ở cuối thế kỷ XIX.
Nguồn: Tác phẩm viết bằng tiếng Nga của Aleksandr I. Solzhenitsyn, giải Văn chÆ°Æ¡ng Nobel 1970 do Nhà Harper và Row dịch và ấn hành lần thứ nhất năm 1968 ở Hoa Kỳ dÆ°á»›i nhan đề tiếng Anh The First Circle. Bản dịch tiếng Anh của Thomas P. Whitney. Bản Việt văn của Hải Triều dịch theo bản tiếng Anh của Thomas P. Whitney do Nhà xuất bản Đất Má»›i ấn hành lần thứ nhất Sài Gòn, Việt Nam, 1973. Nhà xuất bản Đất Má»›i giữ bản quyền. KD. Số 2137/PTUDV ngày 15-5-1973. Giá 900Ä‘. Bản Ä‘iện tá»­ do talawas thá»±c hiện.