© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngLịch sử
10.10.2008
Trương Nhân Tuấn
Tìm hiểu về Ải Nam Quan qua một vài tài liệu
 1   2 
 
4.3. Tài liệu 3: Ðại Thanh nhứt thống chí

Theo Ðại Thanh nhứt thống chí quyển 365, tờ 17, ghi chú về châu Bằng Tường, trong mục các ải và các cửa biên giới thuộc châu này thì Trấn Nam Quan ở về phía Tây Nam châu Bằng Tường (Ping-siang tcheou), cách 45 lý. Người ta còn gọi nó là Ðại Nam Quan. Ðây là cửa chính của biên giới. Bên phải và bên trái cửa cổng là núi đá cao xuyên qua mây. Ở giữa các núi này người ta dựng lên cổng Nam Quan. Hai bên cổng là một bức tường xây chạy dọc lên núi, dài 1190 bộ (khoảng 377 mét). Cách cửa 30 lý về phía nam là trạm Pha Lũy Dịch. Tại trạm này người An Nam chuẩn bị đồ đạc triều cống để đưa sang Tàu.




Cũng theo Ðại Thanh nhứt thống chí, khoảng cách biên giới An Nam với các châu thuộc phủ Thái Bình được ghi nhận như sau:

Sse tcheou (Tử Châu): Biên giới An Nam cách 180 lý theo hướng Tây Nam và 100 lý theo hướng Ðông Nam. (quyển 365, tờ 4)

Sse-ling tcheou (Tử Lăng Châu): Biên giới An Nam cách 35 lý theo hướng Tây Nam và 50 lý theo hướng Ðông Nam. (idem)

Chang-Che Tcheou (Sơn Thạch Châu): Từ châu Sơn Thạch đến biên giới châu Vân Uyên là 30 lý về hướng Tây hay 25 lý theo hướng Tây Bắc. (tờ thứ 5)

Ning-ming tcheou (Ninh Minh Châu): cách biên giới An Nam về phía Nam là 70 lý. Cách châu Vân Uyên, theo hướng Tây Nam, 150 lý. (tờ thứ 2)

Ping-siang tcheou (Bằng Tường Châu): Từ châu Bằng Tường đến biên giới An Nam về hướng Tây là 20 lý, về hướng Nam là 30 lý. Từ đây cách châu Vân-Uyên 12 lý theo hướng Ðông Nam, cách 8 lý theo hướng Tây Nam. (tờ thứ 6)

Long tcheou hay Hia-long-sse (Long Châu hay Hạ Long Tử). Biên giới An Nam cách 80 lý về hướng Tây hay 100 lý theo hướng Tây Bắc. (tờ 6)

Chang hia Tong tcheou (Sơn Hạ Ðông Châu): Biên giới An-Nam cách 22 lý về hướng Tây và 30 lý về hướng Tây Bắc. (tờ 6)

Ngan ping tcheou (An Bình Châu): Biên giới An Nam cách 60 lý về Tây. (tờ 2)




Ghi nhận

Ðiểm đáng chú ý đoạn này là:

4.4. Tài-liệu 4

De Hanoi à la Frontière du Quang-si (Từ Hà Nội đến Quảng Tây) của M. Aumoitte, năm 1881. Tác giả tạm dịch như sau:

Ðồng Ðăng cách cửa ải 2 cây số rưỡi. Nơi này bề ngoài cũng giống như Kỳ Lừa. Dân chúng phần lớn Tàu lai với thổ dân và sinh trưởng tại đây. Có nhiều tiệm bán lẻ (chạp-phô); chỉ có 12 cửa hiệu buôn theo lối trao đổi (bông, dầu hồi, thuốc phiện, thuốc bắc)...

Từ Ðồng Ðăng đến biên giới con đường chỉ còn là một con đường mòn nhỏ, đá lởm chởm, chạy quanh những ngọn đồi hầu như là trọc và không có người ở. Ði khỏi Ðồng Ðăng được 10 phút là không còn một bóng người. Con đường mòn này mỗi lúc một hẹp và dẫn tới trước một cửa cổng có hai cánh bằng gỗ. Cửa được gắn với một bức tường làm bằng gạch nung, xây dài lên tới đỉnh đồi, có độ cao chừng 50 mét. Hình thức của cổng và hai bức tường xây lên núi tạo thành như một cái phễu (nguyên tác viết là cuống họng, gorge). Ðó là biên giới. Trên đỉnh đồi, bức tường chấm dứt và người ta có thể đi qua Quảng Tây không có trở ngại. Trên hai cánh của gỗ có vẽ rồng, phụng mầu sắc rực rỡ.



Ghi nhận

Ông Aumoitte có nhờ người vẽ lại một bức hoạ cổng Nam Quan (đính kèm)


4.5. Tài liệu 5

Biên bản phân định biên giới số 4 ký kết ngày 7 tháng 4 năm 1886 giữa hai phái đoàn Pháp-Thanh, phân định từ Nam Quan đến Bình Nhi, tác giả tạm dịch như sau:

“Ủy ban Phân giới Pháp – Trung nhìn nhận, nhằm ngày Bẩy tháng Tư năm một ngàn tám trăm tám mươi sáu, từ một điểm được xác định cách cổng Nam Quan 100 thước trên đường từ Nam Quan về Ðồng Ðăng (ghi chú của tác giả: sau này [1894] mang số 18), đường biên giới theo hướng Tây đi lên đến đỉnh ngọn núi đá mà trên đó có một đồn binh được đánh dấu là điểm A trên sơ đồ kèm theo đây, sau đó đường biên giới đi từ điểm này theo đường nối đỉnh cao của dảy núi đá nhìn xuống con đường Ðồng Ðăng cho đến điểm B đánh dấu trên sơ đồ (ghi chú của tác giả: sau này là cột số 17).


4.6. Tài liệu 6

Theo Dr. Néis, một ủy viên thuộc Ủy ban Phân giới Pháp – Trung (1886-1887), kể lại qua Sur les frontière du Tonkin (Trên vùng biên giới Bắc Việt) đăng trong Le Tour du Monde (1887)

Theo Dr Néis, “La Porte De Chine”, “Cổng Tàu”, được dựng trong một khe núi cạn. Các ngọn đồi có dốc đứng, chiều cao nhiều lắm 50 hoặc 60 mét, bọc quanh. Từ khi hòa bình thì cổng được xây lại bằng đá đẻo (pièrre de taille) và cổng này được nối bằng một bức tường xây với các trại quân sự đóng chốt bao vòng các ngọn đồi. Cũng trong tài liệu này, biên giới được thỏa thuận là con suối nhỏ ở dưới đồi, cách cổng khoảng 150 mét. Đây là điều ghi nhận sai. Theo biên bản (mà Dr Néis có chứng kiến) ghi lại phần 4.6 thì đường biên giới cách cổng chỉ có 100m.

Đường lên cửa ải, trích từ Sur les frontière du Tonkin (Trên vùng biên giới Bắc Việt) – đăng trong Le Tour du Monde (1887) của Dr Néis, lúc phái đoàn phân định Pháp đi lên của ải để họp buổi họp đầu tiên.


4.7. Tài liệu 7

“Rapport Général sur la Campagne 1890-1891 de la Commission d’Abornement des Frontière Sino-Annamites” - Bản tường trình tổng quát về công tác 1890-1891 của Ủy ban Phân giới Trung - Việt (Chủ tịch là ông Frandin) và bản đồ “Itinéraire de Bình Nhi à Long Châu par le Sông Kì Cùng et de Long Châu à Nam Quan par la route Mandarine” (Lộ trình Bình Nhi đến Long Châu theo sông Kì Cùng và lộ trình Long Châu đến Nam Quan theo đường quan lộ) của Ðại uý Chapès, Trưởng phòng Ðịa hình, năm 1894. Hình đính kèm. Tác giả tạm dịch và tóm lước như sau:



Công tác của Ủy ban Phân giới 1890-1891 nhằm vẽ họa đồ trên thực địa (đồ tuyến) và cắm mốc biên giới vùng Quảng Tây.

4.8. Tài liệu 8

Theo kết quả hai thời kỳ phân giới 1890-1892 và 1893-1894. Kết quả cuối cùng thực hiện trong chiến dịch 1893-1894 do ông Gallieni làm chủ tịch, công nhận công trình phân giới của ông Frandin 1890-1892 ; cột mốc phân giới Việt - Trung tại vùng Nam Quan có tên Trấn Nam Quan Ngoại 鎭南關外, mang số 18, được cắm trên đường từ cửa ải về Ðồng Ðăng, cách cổng 100 thước. Điều này cho thấy tại nơi này việc cắm mốc tôn trọng các biên bản phân định.


5. Kết luận

Từ các dữ kiện trên ta có thể kết luận rằng:

Tài liệu tham khảo

Histoire des relations de la Chine avec l’Annam-Vietnam du XVI e au XIX e Siècle – Après des Documents Chinois (Lịch sử quan hệ Trung - Việt từ thế kỷ XVI đến thế kỷ thứ XIX – Viết theo tài liệu Trung Quốc). Tác giả G. Devéria, Paris Ernest Leroux 1880.

La frontière Sino-Annamite (Biên giới Trung Việt). Tác giả Devéria, Paris Ernest Leroux, 1886

Le Tour du Monde 1887

Tài liệu CAOM về phân giới Việt - Trung 1886-1897

© 2008 talawas