© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
Loạt bài: Sách xuất bản tại miền Nam trÆ°á»›c 1975
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18   19   20   21   22   23   24   25   26   27   28   29   30   31   32   33   34   35   36   37   38   39   40   41   42   43   44   45   46   47   48   49   50   51   52   53   54   55   56   57   58   59   60   61   62   63   64   65   66   67   68   69   70   71   72   73   74   75   76   77   78   79   80   81   82   83   84   85   86   87   88   89   90   91   92   93   94   95 
31.10.2008
Nguyễn Mộng Giác
Bão rớt
 1   2 
 
Bóng tối buổi trưa

Từ phòng hồi sức, tôi được đưa qua trại 10. Giường của tôi nằm ngay trong góc phía trái, nơi trú ẩn của bóng tối, của ẩm mốc và của đàn muỗi đói khát. Cho nên mỗi lần thấy có người lạ mặt bước vào phòng dớn dác nhìn quanh, chính tôi phải lên tiếng trước họ mới tìm ra. Vả lại, cả hai chân tôi băng bột, cánh tay trái treo trên đỉnh mùng, mặt mũi băng bông trùm kín, thì có thánh mới nhận ra thằng Liêu ba hôm về trước.

Sáng nay, anh y tá vừa đến lấy nước tiểu đem lên phòng thí nghiệm, thì một người đàn ông lạ mặt, đeo kính lão tóc hớt ngắn có cái mũi đỏ sần sùi đến tìm tôi. Chắc có người chỉ dẫn trước nên ông ta xăm xăm tiến tới chỗ tôi nằm, cúi chào rồi tự giới thiệu:

"Tôi là phó chủ tịch nghiệp đoàn công nhân xây cất".

Tôi bỡ ngỡ không biết phải trả lời thế nào, thì ông ta đã tự kéo cái ghế sắt gần đấy ngồi xuống cạnh giường. Ông ta nói:

"Cụ chủ tịch cử tôi lo vụ này. Sáng nay tôi có ra đảo. Tôi có bắc thang leo lên xem xét cánh tay của pho tượng. Thật không ngờ..." Ông phó chủ tịch dừng lại, ý chừng để chờ tôi lên tiếng hỏi, hoặc biểu lộ sự tò mò hiếu kỳ lên nét mặt. Nhưng ông ta quên rằng cái mặt tôi đã bị băng kính và loang lổ thuốc đỏ, còn cách nào đâu mà biểu lộ. Chờ một lúc, ông ta đành nói:

"Anh biết không, cánh tay cầm gươm của pho tượng gãy ngay chỗ cùi chỏ. Cốt sắt bên trong nhỏ tí teo, gãy là phải. May nhờ có mấy vòng dây thép gai lão thầu quấn quanh thanh sắt cho ăn vữa, nên cả cánh tay lớn không rơi xuống. Nếu không, anh đã tan xương ngay tại đảo rồi. Lão thầu tham lam muốn lời cho nhiều, mới xảy ra cớ sự. Tuy cánh tay tượng chưa rơi trúng anh, nhưng vì phải tránh né mà anh lăn xuống sườn đồi. Đây là một tai nạn lao động. Nghiệp đoàn sẽ kiện lão thầu ra toà, đòi bồi thường xứng đáng cho anh..."

Tôi chán nản không trả lời. Ông phó chủ tịch cầu chúc qua quít một vài câu nhạt nhẽo rồi ra về.
Ông ta vừa đi được mười phút, thì Thương đến. Không ai chỉ dẫn cho nàng cả nên tôi vừa hồi hộp vừa lo âu nhìn nàng lăng xăng hỏi hết người này sang người nọ trong trại 10. Tôi không muốn gặp nàng lúc này, khi thân tàn ma dại đến độ chỉ còn là cái xác ướp kỳ dị trong các ngôi mộ cổ Ai Cập. Tuy thế, Thương vẫn tìm đến chỗ tôi nằm. Nàng để rơi thân hình nhỏ nhắn lên chiếc ghế sắt, hai bàn tay mềm ấm nắm lấy cánh tay phải của tôi. Nàng nói, giọng lạc đi, run run vì xúc động:

"Anh, anh tha tội cho Thương. Đã nhiều lần em nói với anh là xin anh hiểu giùm hoàn cảnh của Thương. Em không thương anh, thì còn thương ai nữa. Anh là đời sống của em, là hơi thở, là thịt xương, là... là tất cả đời em. Có anh thì em vui, không có anh, đời em còn gì nữa đâu. Tối hôm đó em không ra biển được, vì nhà có kỵ. Em quên, không cho anh biết".

Tôi gắng xoay người lại nhìn Thương. Tội nghiệp cô bé. Đôi mắt cô bé, nhờ ánh sáng yếu ớt chiếu từ cửa sổ bên kia, đầy ắp sự hối hận, thương xót, đau đớn, lo sợ. Nàng tưởng chính nàng là người chịu hoàn toàn trách nhiệm của tai nạn. Tôi muốn cải chính. Nhưng vết thương bên má làm cho tôi đau đớn. Có lẽ miệng tôi hơi méo lại khi muốn nói, trông như tôi đang mếu. Thương khóc oà lên:

"Thà như vậy. Em chỉ sợ anh lạnh nhạt với em, nằm im không nói năng. Anh hiểu cho em không anh Liêu. Hiểu giùm cho em đi. Thú thực nhiều lúc thấy anh thương em quá, em phát sợ. Mắt anh chỉ toàn lửa và lửa. E mình có đáng gì đâu. Em đã nhắc lại câu ấy nhiều lần mà anh không chịu nhớ. Bây giờ em nhắc lại lần nữa: Em xấu xí, nghèo nàn, còn nhiều cái tầm thường nữa. Em có đáng gì đâu mà vừa sai hẹn tối hôm trước, sáng hôm sau anh đã liều thân thế này".

Tôi không biết nói gì, sợ xua mất chút nắng đẹp trong tâm hồn cô bé. Tôi bóp nhẹ lên bàn tay mềm của Thương, ra dấu hiểu nàng và cảm ơn. Thương xúc động lắm, đưa khăn tay lên lau nước mắt. Rồi nàng lột cam cho tôi ăn. Tuy nước chua làm rát vết thương trong lưỡi, tôi vẫn cảm thấy tất cả sự khoái lạc bệnh hoạn. Lúc ăn đến múi cam chót, tôi cố rướn người lên hôn nhẹ lên hai ngón tay Thương.

Nàng vui sướng, ngồi kể chuyện huyên thiên, hết chuyện nhà cửa đến chuyện mấy đứa em trai tinh nghịch. Nếu anh y tá không trở lại, chắc nàng còn sa đà nói mãi nói mãi. Chờ Thương ra khỏi phòng, anh y tá mới bảo:

"Anh đưa tay phải tôi lấy thêm vài xê xê máu. Thật phiền. Họ bắt chúng tôi thử đủ thứ: nào nước tiểu, nào máu, nào phân, nào nước miếng... Anh chỉ bị gãy xương và xây xát khắp mình mẩy, bệnh đã rõ, việc gì phải lôi thôi".

Tôi cố dằn đau đớn, phều phào hỏi:

"Thử làm gì mà thử hoài vậy?"

Y tá thấy tôi nói được, có lẽ vui mừng vì tìm ra người tri âm, liếng thoắng giải thích:

"Anh biết làm sao không? Đây là tôi nghe lỏm được trên phòng quản đốc. Anh đừng kể lại cho ai nghe nhé. Hãng bảo hiểm của nhà thầu muốn khỏi mất tiền, đến năn nỉ xin bác sĩ xác nhận xem có phải anh mắc một chứng nan y nào đó, hoặc anh có máu điên trong người hay không. Ông ta bảo: từ chỗ pho tượng đến mé vực khá xa, không thể bảo như bên nghiệp đoàn là vì né tránh mà anh rơi xuống sườn đá dốc. Chỉ còn có một cách giải thích: anh mắc chứng nan y mà tự vận, hay có máu điên trong người, chúng tôi phải thử đi thử lại hoài, chỉ vì vậy".

Anh y tá đã lấy máu xong, cầm ống nghiệm và xê ranh đứng dậy. Thấy tôi nhìn theo, anh bông đùa:

"Anh có điên không, nói quách cho họ biết, để họ khỏi hành hạ tụi tôi". Người y tá đi rồi, tôi nằm hoang mang cả buổi sáng. Ừ, vì sao mình làm thế? Mình có điên có khùng đây? Khi nào bình phục và lãnh tiền bồi thường xong tôi cũng phải kể lại sự thực, để tự tôi bồi thường cho tôi một chút danh dự. Tôi sẽ kể sự thực. Sự thực đại khái như thế này, vì tôi chưa dám chắc những điều tôi biết, những hình tôi thấu, những tiếng tôi nghe.

Buổi trưa hôm đó, trời nắng gắt lắm. Pho tượng coi như đã hoàn thành, vì toán thợ mười hai người chúng tôi đã gắng quét một lớp xi măng mỏng bên ngoài suốt cả buổi sáng. Ông chủ thầu cười nói hỉ hả, hẹn đem xôi và thịt quay ra cúng mừng rồi đãi chúng tôi một bữa nhậu no nê vào bốn giờ chiều. Ăn xong, dọn dụng cụ đồ đạc về phố luôn thể. Ông chủ vào đất liền rồi, các bạn tôi không biết làm gì, gọi một chiếc thuyền đánh cá đến xin quá giang vào bến. Tôi cảm thấy bực bội điều gì không rõ. Có thể vì Thương không đến chỗ chiếc ghế đá dưới bãi cát tối hôm trước, bắt tôi phải bồn chồn đợi nàng suốt ba giờ liền. Cũng có thể vì tôi nhức đầu vì hơi bị cúm, không được khỏe lắm. Anh em mừng rỡ khi nghe tôi nhận lời chịu ở lại đảo giữ đồ đạc.

Cả bọn đi rồi, tôi ngồi bó gối dưới chân tượng. Từ mỏm núi nhìn ra, biển xanh tiếp nối đến tận chân trời. Trên cao mây đã bay đi, còn lại bầu trời trong xanh và một mặt trời hực lửa. Chung quanh tôi, những tảng đá nhọn loang lổ rêu xám, những bụi ốc mèo cằn cỗi gai đâm tua tủa, những viên sỏi tròn nhẵn vì lăn lóc biết bao lần trong khoảng thời gian vô tận. Tôi chói mắt vì mặt trời. Tôi ngộp trong bao la. Cảm thấy nghẹn thở vì sự đìu hiu cũng mênh mông chẳng kém gì trời và nước. Tôi núp mát dưới bóng pho tượng, nhìn bâng quơ ra phía trước mặt nhưng chỉ thấy những hình ảnh mờ nhạt, hỗn độn sắc vàng chói và màu xanh dương. Chán nản. Tôi hối hận đã tình nguyện ở lại đảo. Ray rứt, tôi muốn làm một cái gì cho qua thì giờ. Không có lấy một tờ báo, một quyển sách. Tôi đến gần chỗ bờ vực, kề sát bên một vách đá dựng đứng xuôi tuột xuống bể sâu. Tưởng tượng mình rơi tõm xuống đây, chìm vào hư vô, tôi cảm thấy sợ hãi vội lùi lại. Phía tay phải sườn núi khá dốc. Tôi đá hất một viên sỏi dưới chân. Viên sỏi rơi vào thung lũng dưới kia, lặng lẽ vô nghĩa như một làn gió thổi qua đỉnh núi trọc, không tạo nổi một tiếng vi vu hay một tiếng lá xì xào.

Trời trở về chỗ pho tượng, vô tình nhìn xuống bóng mình di động trên mặt đất phẳng. Tôi tìm ra được một thú tiêu khiển.

Tôi đứng thu mình lại cho bóng tôi chập vào chân phải của pho tượng. Rồi tôi lại sang đứng bên phía chân kia. Tay trái pho tượng thả xuôi bên hông. Tôi ngồi xuống, cho bóng tôi giống như một món đồ Đức Trần Hưng Đạo mang theo khi ra trận. Bóng của tôi tròn vo, giống y một cái đầu lâu. Một cái đầu của giặc Nguyên mà vị anh hùng dân tộc vừa dùng gươm chém lìa khỏi cổ. Ý tưởng đó khiến tôi lạnh xương sống, vội choàng đứng dậy. Tôi đi dần ra mé núi, đứng ngay nơi bóng mũi gươm. Tôi trở thành một tên phù thủy, có phép khinh công lão luyện nên đứng được chênh vênh trên mũi gươm một vị anh hùng. Bóng tôi vươn cao hơn cả bóng tượng.

Tôi cười lên thích thú. Tiếng cười vang ra, vọng lại từ vách núi đá, nghe lạ hoắc. Tôi thử cười a ha lần nữa, lần này to hơn lần trước. Tiếng vọng dõng dạc. Vách núi dựng phía sau lưng, thung lũng màu xanh pha nâu phía tay phải, bờ đá cheo leo sụp đột ngột xuống mặt biển xanh trước mặt và phía trái. Chung quanh đây chỉ có cao, sâu, rộng, lớn. Chỉ có vĩnh cửu, bao la mênh mông, thăm thẳm. Tôi đứng ở giữa. Bóng tượng đổ thấp bên dưới. Chợt nhớ đến phim Tarzan coi thời thơ ấu, tôi bắt hai bàn tay làm loa, ráng hú thật lớn thật dài như vị chúa tể rừng xanh Phi châu. Tiếng hú vang vọng qua bao nhiêu vách đá, làm lung lay mấy bụi ốc mèo cằn cỗi trên đồi, và xao động cả mặt sóng xanh. Quá thích thú, tôi hú tiếng thứ hai, rồi tiếng thứ ba. Cổ tôi bắt đầu rát. Đến khi hú xong tiếng thứ năm, nhìn xuống mặt đất trước mặt, tôi giật mình sững sờ. Hình như bóng pho tượng đang cử động, Không tin ở mắt mình, tôi cố lấy hết sức bình tĩnh nhìn kỹ một lần nữa. Phải rồi, hình như cánh tay cầm gươm của Ngài cử động, bóng lưỡi gươm càng ngày đưa sát vào cái bóng bé nhỏ của tôi. Kinh hãi đến cùng cực tôi ngước lên nhìn pho tượng. Quả nhiên, tôi đã không lầm. Ngài đang từ từ hạ gươm xuống, gân cốt Ngài kêu răng rắc và từng mảng xi măng trên áo giáp của Ngài rơi tơi tả trên mặt đất. Mắt tôi nhìn chăm chăm vào lưỡi gươm. Hai tay tôi đưa lên cao che lấy đầu, trong khi chân tôi tự động lùi lại, lùi lại dần, cho xa cho thoát khỏi lưỡi gươm thiêng của Ngài. Đến lúc chân bước hụt vào khoảng không, và bị lăn xuống thung lũng, tôi không còn biết rõ điều gì nữa.

Có lẽ giờ đây chỉ còn lại một điều, một điều hồ nghi: Phải chăng tiếng hú chất chứa bao nhiêu phẫn uất dồn nén trong cuộc sống đìu hiu của tôi, tiếng hú giữa nơi chỉ có mây và đất đá cỏ cây vô tri, đã vô tình phạm đến danh dự Ngài. Và Ngài đã giận dữ hạ dần lưỡi gươm bén.


Tên đào ngũ

Chiếc GMC chở quan tài đậu sát vào mái tôn, quay đít vào gần cửa ra vào. Lá quốc kỳ bị gió bay, nên lệch sang một phía, để lộ hông quan tài gỗ tạp sơn một lớp dầu bóng đỏ ối. Người tài xế mở xe nhảy xuống, nói trỏng vào phía buồng lái:

"Xuống đi! Phải ở lại đây tối nay rồi. Trời tối, ai dám qua truông".

Bốn người lính ở phía sau nhanh nhẹn leo qua hông, đạp một chân lên bánh xe cao su, nhảy mạnh xuống nền xi măng. Bụi đỏ bay mù từ mấy bộ quần áo xốc xếch lem luốc. Có tiếng trẻ con khóc phía đầu xe. Người đàn bà mặt mày ốm gầy và lạc thần, đầu quấn khăn tang, thò đầu hướng về phía nhà tiền chế nói lớn:

"Mấy chú làm ơn mở cho cánh cửa. Nặng quá".

Một người lính đi lại phía bên phải xe, gắng hết sức mới mở bật được cánh cửa, rồi đưa tay dìu hai mẹ con xuống. Một tay ẵm đứa nhỏ độ một tuổi, một tay xách cái giỏ ni lông, người đàn bà phải để mặc cho anh lính đỡ hai nách, cẩn thận bước xuống bậc thang, rồi chậm rãi vào trú dưới mái hiên. Đứa nhỏ ngơ ngác nhìn chung quanh, nhận diện từng người, rồi lại khóc lên từng hồi. Người đàn bà ngồi bệt trên nền trại, lấy bình sữa bằng nhựa núm vú vàng xỉn nhét vào miệng đứa bé. Nó núc vài ngụm, ậm ừ như muốn nghẹn nước, rồi quay đầu nhả vú ra khóc tiếp. Người đàn bà sợ làm phiền ông Chỉ huy trưởng, vội vã bồng con ra đứng dưới mấy gốc dương liễu lá rũ. Tân hỏi mấy người lính đang tiếp tục giũ bụi:

"Bị ở đâu đó?"

"Trên Phú Nhơn".

"Chở về đâu?"

"Miệt ngoài Bồng Sơn. Bây giờ đã sáu giờ chiều, qua truông sao nổi".

Toán lính trực thoả mãn tò mò, lảng đi xa. Bốn người lính lạ hỏi Tân chỗ câu lạc bộ, rồi đi theo hướng Tân chỉ. Người tài xế mở nắp đầu máy kiểm soát dầu nhớt và bu-gi, rồi cũng đi theo bốn người lính hộ tống. Một lúc sau, một người bưng ra cho người đàn bà dĩa cơm và chai xá xị, xong vội vã quay trở lại câu lạc bộ. Đứa bé bây giờ đã hết khóc, nằm ngủ lả trên vai mẹ. Người đàn bà bồng con vào trong mái hiên, liếc nhìn lên quan tài thúc thít khóc, rồi ngồi trên nền trại lơ đãng xúc cơm ăn. Gió bên ngoài bỗng thổi mạnh bốc bụi mù mịt, trong khi đêm chầm chậm trở về. Lúc ông Thượng sĩ nhẹ nhàng bước chậm cho ngọn nến khỏi tắt, leo lên xe gắn lên nắp quan tài, Tân hỏi:

"Tối nay toán nào gác cầu, Thượng sĩ?"

"Toán hai".

"Ủa, sao tụi nó không cho tui hay".

Ông Thượng sĩ đứng trên xe, không thèm quay mặt lại, gắt gỏng:

"Mầy đi ghẹo gái cho đã rồi về hỏi lôi thôi. Có lấy đồ đạc ra lô cốt mau lên không? Cho mấy củ bây giờ".

Tân chạy vội về phòng trực. Người đàn bà vẫn ngồi chỗ cũ, biếng nhác nhai cơm, hờ hững nhìn mông lung về phía bóng tối trước mặt. Phòng trực không còn ai. Bóng đèn điện góc phòng lung lay theo gió. Khẩu M.16, cái mũ sắt, và tấm pon-cho của Tân còn bỏ lại trong góc tối.

Tân đội mũ sắt lên, trí óc ràng buộc vào cái rọ trách nhiệm. Sợi dây nịt đạn quấn quanh bụng chặt chẽ như quân kỷ. Đôi giày nặng bó cổ chân, níu trì gân cốt như muốn chôn sâu người lính đời đời kiếp kiếp xuống giao thông hào, sau lỗ châu mai, trong hầm lô cốt. Chỉ có khẩu súng là nhẹ nhàng, đong đưa trong vòng ngón trỏ, tự do như chiều đạn đạo.

Một mùi hôi gay gắt trộn lẫn hương nhang thổi vào chỗ Tân ngồi. Bóng người đàn bà ôm con nổi hẳn trên nền sáng do ngọn đèn pha phía bên kia trại. Tân lẩm bẩm:

"May tối nay mình ra cầu. Không thì nằm đây lãnh đủ".

Lúc ra đến cổng trại, một trận gió mạnh thổi ào ngăn cả bước Tân đi. Tân đưa tay dụi mắt. Bên trong hàng rào, có tiếng trẻ khóc. Khi nước chảy ra trôi hết bụi và mi mắt hết cồm cộm xốn xang, nhìn trở vào trong, Tân thấy ngọn nến trên nắp quan tài đã tắt.

Tín chửi thề:

"Đ.M. bây giờ mới ra. Lính cậu hả?"

"Thôi mà người anh em. Lão thượng sĩ đã cho anh lãnh đủ rồi. Nỡ nào người anh em còn nặng tay".

Rồi chuyển sang giọng bình thường, Tân bảo:

"Đã phân công chưa?"

"Rồi, mầy gác ca bốn".

"Với ai?"

"Tao không nhớ. À, hình như với thằng Liễn".

"Tụi nó đâu rồi?"

"Giặt quần áo phía bến đò. Mầy làm gì cả buổi chiều nay không thấy mặt".

"La cà lai rai vậy mà. Đầu tháng dư tiền, không có sao".

"Nói giọng cha không. Sao không nằm luôn trong trại cho bảnh?"

"Hôi không chịu nổi".

"Cái gì?"

"Cái xác. Có một con bị trận Phú Nhơn, vợ lên lãnh về. Trời tối không dám qua truông, nên GMC chở vào gởi tạm đằng trại".

Tín nói sang chuyện khác:

"Tao mới mua được cái cát-xét Hitachi".

"Bao nhiêu?"

"Chín ngàn. Nghe thử không?"

Tín mở máy. Giọng một nữ ca sĩ danh tiếng nỉ non, tha thiết:

"Các anh đi, ngày ấy đã lâu rồi. Các anh đi biết bao giờ trở lại. Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong. Làng tôi nghèo nho nhỏ trên sông. Gió bấc lạnh lùng thổi vào mái rạ. Làng tôi nghèo, nắng mưa tơi tả, trai gái trong làng vất vả ngược xuôi..."

Tân đưa tay tắt máy:

"Nghe mùi quá. Nhưng đâu phải tụi mình. Nói chuyện tụi nó ngày trước mà".

Tín cãi:

"Thì áp dụng cho tụi mình cũng được, có sao đâu. Này này: Các anh về mái ấm nhà êm, câu nói tiếng cười rộn ràng trước ngõ. Mình đi hành quân tảo thanh đem lại an ninh cho đồng bào. Mặt bên kia còn một bài mới. Chờ một chút tao cuộn băng trở lại đã".

Tân lấy thuốc hút, nhìn xuống bãi cát chân cầu. Anh hỏi:

"Đêm nay có trăng không?"

"Có, mười bảy ta mà".

"Vậy là đỡ khổ rồi. Tao gác ca tư, trăng sách quắc, đố đứa nào dám bén mảng tới chân cầu".

Tín đã sang băng xong, mở máy trở lại:

"Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại. Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về... Anh trở về hàng cây nghiêng ngả, anh trở về có thể bằng hòm gỗ cài hoa. Anh trở về, trên chiếc băng ca, trên trực thăng sơn mầu tang trắng..."

Tân lại đưa tay tắt máy, lầm bầm:

"Thôi. Để yên nghe nước chảy còn hơn".

Anh ra phía cầu, đái xuống dòng sông đen. Tín nói lớn:

"Mầy tục tĩu quá, không hiểu sao tụi con gái mê mầy".

Tân gài nút quần, trả lời:

"Tao khơi đúng chỗ ngứa giấu kín sau cái mặt nạ ngoan ngoãn con nhà, sau cái vỏ mỏng ngây thơ. Còn tụi bay thì cả tin, nên hỏng hết".

Rồi không muốn dây dưa tranh luận, Tân bảo:

"Tao đi tắm một chút. Tụi nó trở lại, mầy nói giùm là tao đã ra rồi".

Tân trở lại đầu cầu, giở vòng dây thép gai chui qua bên kia. Con đường mòn dốc xuôi xuống bãi cát phía dưới. Lá dứa gai cứa vào ống quần vải dày, chỉ nghe rào rào. Thích thú, thách đố, an tâm, Tân dẫm bừa lên gai góc, bước nhầu lên mấy bụi ốc mèo, không thèm theo lối mòn quanh co mình rắn. Mấy khóm dứa đen quì mọp dưới gót, sau lưng. Một cây gai ngang ngạnh đâm thủng lần vải, Tân thót người đau đớn, tức giận quật mạnh báng súng lên bụi đen, rồi dẫm mạnh gót giày trên đó mà đi. Vài nhánh khô gãy rụm, dòn tan.

Qua hết khóm gai thì đến bờ cát. Đã quen lối đi, Tân dừng lại bên một khóm cây rậm. Anh lấy nắp nhựa đậy họng súng M.16 lại, rồi cắm súng giấu sâu vào bóng tối. Đôi bàn tay bất chợt rảnh rang, trở thành ngượng nghịu. Theo thói quen, Tân đưa tay lên vai định gỡ dây súng trước khi ngồi lên mô đất. Anh lầm bầm chửi thề, thấy mình lú lẫn quên trước quên sau. Đôi bàn tay vẫn còn vụng về, mấy ngón cử động láu táu không biết phải làm cái gì. Tội nghiệp! Chúng nó không quen ở không. Cho nên bàn tay nầy nắm ngón tay bàn tay kia bẻ lốp rốp, rồi bàn tay kia bẻ trả.
Trước mặt, bãi cát vàng nhờ nhờ chạy dài ra đến tận bờ nước đen, và Tân nhớ rõ mặt cát mịn đến nỗi bước chân lên trên, làm da chân mỏng vẫn có cảm giác êm ái bình thường như được ấp ủ trìu mến bằng lớp vải lên dày. Tân ngồi xướng mô đất, dây nịt đạn chằng ngang bụng, cọ mạnh vào xương sườn.

Bỏ mặc quân trang và vũ khí gần khóm cây. Tân định đi xuống bờ cát, nhưng nghĩ sao, bèn quay trở lại. Trăng đã lên tự lúc nào, chiếu rõ cái mũ sắt, dây nịt đạn, đôi giầy thô, và cả báng súng nhựa. Anh giấu đồ đạc cẩn thận hơn, cho bóng tối che khuất rồi tiện tay cởi luôn bộ quần áo treillis nặng nề hôi hám. Tân chỉ còn mặc một cái quần đùi và cái áo lót. Gió lùa vào khe nách, ống quần, thổi dậy niềm khoan khoái, bùng lên khát vọng tự do.

Tân nhảy xuống lòng cát, tung tăng chạy khắp mọi hướng. Trăng mỉm cười. Gió mơn man. Cát hôn ấm lòng chân. Trời cao và đất rộng mời gọi. Sự sống man rợ, điên cuồng ngây ngấy đưa bước chân thoăn thoắt, đưa đôi tay vung mạnh lướt tới, nghiêng nghiêng mặt người để hứng thuận chiều gió. Bàn tay đưa ra trước mặt chờ đón mà không nắm bắt, hy vọng mà không tham lam, để gió mát và ánh vàng lọt qua mấy ngón. Tân chạy nhảy, không cảm thấy mệt nhọc thoả thuê, và lúc đứng dừng lại, vẫn còn thấy lòng mình trống không để tiếp tục góp thu cái diệu vợi vô cùng của đất trời vào lòng.

Anh chạy theo bờ nước trong. Chân đạp rào rạo trên sỏi nhỏ ven sông, nước bắn tung lên mát dịu ống chân và bắp vế. Lúc chạy về phía trăng lên, bọt nước toả sáng quanh mình, rơi vang trên bãi, như các tia nước phun trong công viên thành phố.

Tân chạy thẳng theo đường nước cạn, rồi lại uốn mình ngoằn ngoèo như hình rắn, hết dậm chân trên cát ấm lại dậm chân xuống nước róc rách mát rợi. Trong một bước lơ đãng, anh bước vào một hố sâu. Tân ngã xuống, nước ngập nửa người. Trăng mờ đi vì một đám mây vô tình. Anh hốt hoảng nghĩ:

"Không biết có đứa nào thấy chỗ mình giấu súng không? Đã tới ca gác của mình chưa?"

Anh ngồi xuống cát, và bây giờ mới cảm thấy mỏi rần khắp người. Gót chân rát vì bị chà xát quá nhiều. Gió tăng thêm lạnh trên bộ quần áo ướt. Bóng cầu đen đủi choàng tay qua hai bờ xa tít, tham lam trơ trẽn.

Một trái hoả châu từ quận lỵ bắn lên, chiếu mầu đỏ kè bệnh hoạn mặt sông, rồi tắt lịm để lại một vệt khói lững lờ dưới trăng.

Có tiếng kẻng đổi ca từ trên cầu vọng xuống. Tân cố nhíu mày đọc mấy chữ số trên đồng hồ. Chưa tới phiên mình! Gió lạnh lẽo, Trăng nhợt nhạt. Nước rên rỉ. Bóng tối ma quái. Trong một cử động đột ngột cương quyết, Tân quăng cái đồng hồ rơi tõm xuống dòng sông đen. Tiếng vọng khích động cảm giác, và anh bắt đầu chạy như điên trên bãi, lội mạnh xuống dòng sông cho đến lúc nước ngập quá gối và chạy trở lên tận bờ cỏ ướt dọc theo doi cát.

Khi chạy như thế đến vòng thứ ba, vừa từ bờ cát trở về con nước, Tân đã thấy có bóng người ngồi lặng ở đấy rồi.

Bóng một người con gái.


*


Trăng đã lên quá ngọn tre xóm Đông hơn một con sáo. Ánh trăng viền khuôn mặt người con gái, cho Tân thấy đôi mắt mở lớn hướng về phía ánh sáng và đôi môi cười. Mái tóc dài chìm trong nền tối, nhưng dáng người in rõ trên mặt cát ướt. Hai bàn chân cô gái ngâm dưới nước sông, khuấy động róc rách. Gió vẫn dịu dàng. Cát vẫn câm nín. Trăng cười lặng. Chỉ có nước nhột nhạt vì bàn chân khuấy động, không thôi rúc rích thích thú. Nửa như chế giễu nửa như thúc giục. Mồ hôi loãng theo gió thổi, làm Tân lành lạnh da cổ và xương sống. Tân hỏi:

"Làm gì ngồi đây?"

Cô gái không trả lời, không quay lại. Một lúc sau, cô mới hỏi lại:

"Làm gì mà chạy như ngựa chứng? Có say không?"

"Ra ngồi đây lâu rồi à? Sao tôi không thấy?"

"Say rồi thấy sao được?"

"Chiều nay tới phiên gác cầu, không dám nhậu".

"Thiếu gì thứ say. Đâu phải chỉ có rượu. Say hơi đất. Say hơi lá. Say trăng, say mây. Say sưa hơi ấm của cát, say cái rúc đầu nhột nhạt của nước trên mặt da..."

Tân ngăn lại:

"Nói thật hay nói giỡn đó?"

"Thật chớ. Tân không thấy tôi ngâm chân xuống nước à?"

Tân lạnh mình, há hốc mồm không nói được gì. Một lúc sau mới hỏi lấp lửng, e dè:

"Sao biết tên tôi?"

"Dễ ợt. Chú ý tìm hơi thì phải ra. Chỉ cần hỏi mấy cô thợ may ngoài chợ".

Tân sợ thực sự. Xương sống ớn lạnh. Tân hỏi, giọng ấp úng:

"Cô ngồi chỗ nào? Bàn máy góc bắc hay gần bên nhà hát bộ?"

"Ơ hơ. Em có làm thợ may đâu. Nhưng em có một con bạn làm thợ may biết anh nhiều..."

Tân vội vàng hỏi:

"Tên gì?"

"Thôi, nói chi thêm rắc rối. Gia đình em làm nghề câu gõ. Sõng cột dưới gốc cây lớn kia kìa".

"Vậy cô lên đây ngồi làm gì?"

"Bắt người ta bơi dưới nước hoài sao? Cho lên bờ một chút không được à?"

"Sao không được. Ai dám cấm. Nhưng tôi muốn hỏi sao dám lên ngồi đây một mình".

"Cha đi lên bờ mua đá đèn. Với lại, đâu phải chỉ có một mình..."

Tân dớn dác nhìn quanh, hối hận đã không mang súng đến tận bờ nước. Phải gắng bạo dạn lắm, Tân mới hỏi được:

"Sao các bạn cô không ra mặt? Sao không ra ngồi nói chuyện cho vui?"

"Chuyện gì? Có nói anh cũng không hiểu".

"Sao vậy?"

"Anh nghĩ bạn em là ai?"

"Làm sao biết được. Mấy cô thợ may ngoài chợ này. Mấy cô bán cá này. Mấy cô hái rau muống trên cầu này".

"Không phải. Lâu lâu em mới lên bờ mua cước với nước mắm. Mỗi lần cha đi chợ, em phải ở lại giữ sõng".

"Sao khi nãy bảo quen với mấy cô thợ may ngoài chợ?"

Cô gái không trả lời, lấy chân quấy động mặt nước. Tân đánh bạo hỏi:

"Bạn em đang ở trên sõng dưới kia phải không? Mời họ ra nói chuyện đi".

"Bạn em à? Chúng nó đâu biết nói".

"Cái gì lạ vậy?"

"Cha lầm lì cả ngày. Trừ những lúc nói gióng một sai em gỡ lưới, gõ cây, cha em không nói gì hết. Em buồn tìm bạn nói chuyện cho qua ngày. Em nói với mấy con cá này..."

Tân ngắt ngang:

"Nói với cá?"

"Chớ sao. Em an ủi nó. Trông cái bụng trắng phau, cái vẩy óng ánh bạc, đôi mắt trong, dễ thương lắm, mà cũng tội nghiệp nữa. Nhiều lần em gặp mấy con cá nhỏ lưng xanh, vây pha hồng dãy dụa trong lưới như van xin. Em lén cha thả lại xuống sông. Em không biết nó lội về hướng nào, nhưng chắc chắn nó biết ơn em nhiều. Buổi trưa cha cột sõng dưới gốc cây ven bờ nằm ngủ. Em thả chân xuống nước chơi. Chú cá thoát nạn hôm trước trở lại mơn man gặm chân em. Chắc nó đến cảm ơn".

Tân tò mò thích thú, quên nỗi sợ hãi ban nãy, hỏi:

"Có bao giờ gặp Long cung thái tử không?"

"Anh nói sao?"

"Có gặp Long cung thái tử không?"

"Thái tử nào đâu?"

"Em không hiểu à? Dưới nước có một cung điện nguy nga, trong điện cũng có một ông vua nước trị vì, gọi là Long vương. Con ông vua gọi là Thái tử. Mỗi lần đi chơi đây đó ở bờ biển bến sông, thái tử mang hình con rùa mai xanh, con cua mu đỏ..."

Cô gái vỗ tay cười, rồi hỏi mau:

"Thái tử có hoá thành cá không?"

"Có".

"Như vậy là em đã gặp Thái tử rồi. Một hôm em gỡ lưới được con cá mình xanh biếc, vây màu đỏ và trắng. Cả cha cũng không biết tên cá gì. Hai cái râu trước mép dài như sợi tơ. Em thả nó xuống nước trở lại. Mãi đến con trăng sau, em đang ngồi nhúng chân xuống nước thế nầy thì có con cá nhỏ đến gặm chân nhột nhột. Em mê mải nhìn trăng quá nên lúc nhìn xuống nước, mắt loà đi, không trông thấy gì. Em chỉ thấy một giải vàng trước mặt như con đường đất trải giữa sông. Em đứng dậy, em bước tới, bước tới nữa. Hình như nước rẽ hai bên vì em không cảm thấy ướt át. Mãi đến khi nước ngập tới cổ, em mới tỉnh hẳn và vội vàng bơi lại phía sõng. Chắc Thái tử mời em đến Long cung quá".

Tân vội ngồi xa hơn, nhìn chăm chăm vào mặt cô gái. Đôi mắt cô vẫn sáng long lanh dưới trăng. Cái miệng vẫn cười, và cả khuôn mặt trẻ thơ bộc lộ một trạng thái lơ lững giữa đất và trời, ánh sáng và bóng tối, cõi thực và cõi tưởng. Cảm thấy khoảng cách giữa hai người đã đủ an toàn Tân mới hỏi tiếp:

"Hèn gì. Bây giờ anh mới hiểu. Em ngâm chân dưới nước đợi bạn về?"

"Đêm nay nó không tới. Nhưng không sao. Em nói chuyện với người khác".

"Lỡ không có anh thì sao?"

"Thiếu gì bạn. Nước này. Cát này. Trăng này".

Tân không khỏi tò mò, chồm đến gần hỏi thật rõ:

"Nước biết nói à?"

"Nó chỉ nói nhỏ thôi. Khi buồn thì thì thầm. Khi vui thì rúc rích. Chỉ có dưới chân cầu là ồn ào. Lính họ rào dây thép gai, rác rến bám vào làm thành cái đập. Nước chảy xiết, kêu ồ ồ. Không đời nào em thèm lên đến gầm cầu".

Tân nhớ đến nhiệm vụ:

"May dữ a. Đêm hôm mà em mon men đến đó, lãnh đủ có khi".

"Lính họ bắn à?"

"Sao không? Họ tưởng em là Việt cộng phá cầu".

"Em có làm gì đâu? Gặp em, anh có bắn không?"

"Lớ xớ đến gần cầu, bắn liền".

"Ai thèm tới đó làm gì. Anh cũng ồn ào như nước dưới chân cầu".

Lúc bấy giờ, một áng mây làm mờ bầu trời. Tân giật mình nhìn về phía Tây. Bóng cầu vẫn đen thui, tham lam ôm hai bờ xa tít. Khi trăng sáng trở lại, ánh loà trên sông che hẳn dấu cầu.

*


Trăng lên đến đỉnh đầu. Bóng hai người vây tròn chỗ ngồi. Trăng bớt lóe sáng trên mặt nước, nhưng bãi cát vàng óng và trở nên mênh mông. Mặt nước sông trong xanh, có thể nhìn thấy tận đáy cát. Cô gái từ lâu cầm lấy tay Tân, và lần đầu anh cảm thấy hơi ấm chuyền sang từ năm đầu ngón tay mềm. Anh nhìn chăm chú hơn: cổ tay tròn, thân người mập lẳn, ống quần đen ướt dán chặt vào hai đùi, đôi bàn chân trắng. Cô gái tự nhiên lo sợ rút bàn tay về. Tân nói:

"Đừng chờ thái tử nữa. Hãy nói chuyện với anh".

"Nói cái gì?"

"Chuyện làm ăn. Một ngày em lưới được bao nhiêu cá? Bán được bao nhiêu tiền?"

"Không nói. Để anh nói trước".

"Nói cái gì?"

Cô gái cười thật ranh mãnh:

"Chuyện làm ăn. Anh đi lính thì nói chuyện lính".

"Đi lính đâu phải nghề làm ăn?"

"Sao không? Như nghề câu gõ có khác gì đâu? Lưới được bao nhiêu? Bán được bao nhiêu?"

Tân nhìn thẳng vào mặt cô gái xem muốn hỏi thật hay nói đùa. Nét mặt vẫn có cái vẻ trống vắng mà tham dự như trước. Tân chậm rãi trả lời:

"Nghề anh không có thả lưới rồi gõ cây rượt cá".

"Cha em cũng có làm vậy. Mấy hôm trời tối, ổng lấy đèn đá soi xuống sông, dùng đọc đâm cá. Em ngồi đầu sau lo chèo. Nhiều khi em vô ý chèo trệch một chút, sõng xoay ngang. Cha đâm trật, ổng la om sòm".

Tân trầm ngâm nhưng cô gái lại cười ròn rã. Tân bị lôi cuốn, cười theo.

Cô gái hỏi:

"Sao bây giờ không chạy như ngựa chứng nữa đi?"

"Bỏ em ngồi một mình, thái tử rước đi mất uổng lắm".

"Anh ra đây giỡn trăng hay đi tắm?"

"Quên mất. Ra đi tắm".

"Sợ nước à? Cho ướt luôn, chịu không".

Không chờ trả lời, cô gái lội ra giữa dòng tạt nước lên chỗ Tân ngồi. Hai người tạt nước nhau, tiếng cười làm rạng rỡ đêm khuya. Thông thạo hơn, cô gái tạt từng tia nước mạnh đúng vào mặt Tân, khiến anh phải mất thì giờ vuốt mặt. Nhưng anh vẫn theo tiếng cười đuổi theo. Cô gái quen chạy trên cát, luôn luôn vuột khỏi tầm tay Tân. Đôi lúc anh sắp chụp được bả vai, nhưng cô đã hạ mình xuống, luồn về phía khác, làm cho Tân quá đà ngã lên bờ nước.

Tân vẫn cố rượt theo. Nhờ bước hỏng vào lũng cát sâu, cô gái ngã, Tân mới theo kịp. Gió và nước không làm nguội được sức nóng bừng bừng. Tân úp mặt lên cổ cô gái, dụi mặt vào trong tóc ngửi mùi hôi và rong rêu. Cô gái vẫn cười, hàm răng trắng óng ánh, đôi mắt long lanh, đôi tay trải dài trên cát làm phập phồng lồng ngực. Không nói năng gì, Tân ôm lấy thân thể ấm áp, sống trọn sự cuồng bạo dã thú. Miệng cô gái vẫn cười, nhưng đôi mắt nhắm nghiền, đôi tay chới với. Cả gió cả nước cả trăng đồng lòng thúc giục, trong khi cát vàng ấp ủ nâng niu.

Khi ngồi lại trên cát nhìn khuôn mặt cô gái mắt vẫn còn nhắm nghiền như đứa bé ngủ say, Tân ngờ ngợ thấy quen. Nhưng không nhớ đã gặp cô ta lúc nào, ở đâu!

*


Lúc mấy người quân cảnh đẩy lên xe, chiếc GMC vẫn còn đó chưa đi. Hai tay bị khoá quặt ra sau, nên phải chật vật lắm Tân mới bước lên được cái bậc cấp, rồi cúi người luồn ra ra ngồi băng sau. Mấy người lính đứng bên ngoài không cần giữ ý, hỏi nhau:

"Bắt được thằng chả ở đâu đó?"

"Tận bãi cát gần khúc quanh của con sông".

"Chắc xuống dưới an ninh trả lời không xuôi đâu. Cả tiểu đội chết, cây cầu sập, chỉ còn có một mình chả đi tắm".

"Nghe mìn nổ trên cầu mà cứ tắm à?"

"Không. Toán tiếp viện theo đường sông vòng lên, gặp nó đang bận quần áo và lấy súng chạy về".

Tân ngồi im không nói năng gì. Phía trước xe, một nhóm người đang tụ tập quanh mấy cái xác. Có tiếng khóc nỉ non và kể lể rên la. Bỗng nhiên đám đông dạt cả ra, tránh lối cho lính khiêng một cái băng ca đi vào. Nhiều tiếng lao xao:

"Một người nữa hả?"

"Đâu phải lính. Xác đàn bà".

"Dễ sợ. Ngực bị vỡ toang hết. Lượm ở đâu đó, trung sĩ?"

"Bến chài. Lúc tụi tôi bọc hậu đón đầu bọn du kích, thì thấy nó hớt hải chạy từ phía cầu về. Hô đứng lại, nó cũng cứ chạy, nên mới nổ súng. Nếu biết là nó, thì không giết làm gì".

"Vậy chớ ai đó?"

"Con khùng xóm Chài".

"Con khùng xóm Chài hay con khùng ngoài chợ?"

"Cả hai đứa là một. Nó là con gái ông câu gõ. Cha nó chết cách đây mấy năm. Nó xin ăn ngoài chợ, và hễ cứ đến mùa trăng là nổi cơn".

Tân nghe được câu chuyện, lịm người không dám nhìn về phía trước. Bên cửa trái, người tài xế xe GMC đang xem lại máy móc trước khi lên đường. Bốn người lính hộ tống đã lên ngồi hai bên quan tài. Người tài xế đậy nắp ca bô, gọi với vào trong:

"Ra đi cho sớm chị".

Người đàn bà ẵm đứa con ra xe. Mái tóc bù xù. Cái áo trắng vải thô và vành khăn tang nhàu nát, dơ dáy. Lúc đi ngang qua xe quân cảnh, người đàn bà vô tình nhìn vào phía Tân.

Anh không tin ở mắt mình. Cũng khuôn mặt ấy, cũng trạng thái lơ lửng giữa tưởng và thực, có và không, hững hờ tránh né mà mời gọi thúc giục, xa lạ với cõi sống mà cũng không gắn bó với cõi chết. Người đàn bà bước đi mệt mỏi, âm thầm, nhưng khi đến gần xe, gọi người tài xế một cách tỉnh táo:

"Xách giùm cái giỏ chút, chú. Khi hôm ngủ được không?"

"Đi đường mệt, nằm thẳng cẳng đến lúc nghe tiếng nổ trên cầu mới thức".

"Đêm qua trăng giọi sáng quá, không ngủ được một khắc..."

Đầu óc Tân quay cuồng. Anh đẩy người quân cảnh phía trái sang một bên hướng mặt về phía người đàn bà hỏi lớn:

"Ê, không ở lại chờ thái tử sao?"

Anh quân cảnh kinh ngạc. Người đàn bà quay lại, mắt ngơ ngác, tưởng không phải người ta gọi mình nên tiếp tục leo lên ngồi trên buồng lái.

Người quân cảnh gay gắt:

"Đ.M. Cha nội đã đến nước này rồi mà không chừa cái thói lăng nhăng. Chồng người ta còn nằm một đống trong hòm, đã chọc ghẹo".

Chiếc GMC rồ máy, từ từ ra khỏi cổng. Một lớp bụi vàng mỏng toả lên, lơ lửng như ánh trăng.


Ngựa đá sang sông

Thôi, vậy là yên phận em. Thật ra trừ thuở em còn nhỏ, lúc mẹ giao chị việc cho em bú và tắm rửa, còn thì chưa lúc nào chị được ôm em trong lòng, trọn vẹn chiếm hữu em như bây giờ. Em đã chịu khó nằm yên nghe chị kể lể tâm sự, không như thời trước em vừa biết chạy nhảy và nói năng, mỗi lần chị sơ ý quệt vào em một tí là em khóc nhè, và đòi thầy me đánh đập trừng phạt chị mới chịu nín. Em biết không, những lúc ấy chị trốn ra sau vườn, một mình lấy tre gai đâm vào tay để tự đày đọa. Nhà chỉ có hai chị em, thầy me lại thường nuông chiều cậu con trai quí, nên chị cảm thấy thừa thãi bơ vơ. Chị vẫn ao ước được ôm vai em, vuốt tóc dỗ em nín khóc như những bà chị khác, đóng trọn vai trò kẻ trìu mến khoan hoà.

Nhưng em luôn luôn ở ngoài tầm tay chị. Chị tưởng là em ghét chị, khinh chị. Nhưng khi học bài cách trí bậc tiểu học, chị hiểu em hơn. Sách dạy:

"Gà trống thường ưa đánh nhau, còn gà mái hiền hơn gà trống, chịu khó đẻ trứng ấp con và chăn dắt chúng đến khi lớn".

Ờ, em là con trai, tính khí giống như gà trống, ưa ra khỏi sự trìu mến quyến luyến của gia đình. Em ưa đánh giặc giả, ưa khiêu khích và tấn công. Nhiều hôm em bị đánh chảy máu mũi, chị lo sợ hớt hải, còn em thì lạnh lùng gạt bàn tay chị, lấy vạt áo quệt máu rồi chạy ra hò hét tiếp. Cử chỉ tàn nhẫn lạnh nhạt ấy làm chị mủi lòng. Chị không hiểu nổi em trong tuổi nhỏ, và cả trong thời gian em lớn lên. Không như bây giờ, em chịu khó nằm yên nghe chị kể lể tâm sự.

Càng lớn em càng trở nên khác thường. Điều đó làm cho chị ngẩn ngơ hãi hùng. Em muốn giấu chị hết mọi sự. Học ở trường em trốn đi chơi. Nhà trường gởi thư phiền trách về cho thầy me, chị bắt gặp giấu đi và đưa lại cho em. Em vùng vằng: "Có giỏi thì mách thầy me coi".

Em đăng báo tìm bạn bốn phương, vô tình chị đọc được mảnh báo cắt đề tên em và địa chỉ nhà mình giấu trong sách vạn vật. Chị đọc cả nhà nghe trong bữa cơm, tưởng chỉ pha trò cho vui:
"Hùng, tên thằng con trai ở miền khô cằn sỏi đá, tuổi chớm vào đời, mang nhiều mặc cảm tình, tiền, địa vị, sống âm thầm trong lặng lẽ cô đơn, muốn trao đổi tâm sự qua những cánh thư xanh của các bạn trai gái khắp bốn vùng chiến thuật".

Không ngờ tiếng cười to của thầy làm em giận chị suốt mấy tuần. Chị tìm cách làm hoà, em giả lơ. Chị cảm thấy cô độc hơn bao giờ. Thầy vốn trầm tư, giữ thái độ nghiêm khắc với con cái. Me thì suốt ngày lo việc buôn bán ngoài chợ. Chị thui thủi một mình trong căn nhà rộng và khu vườn xanh. Làm sao chị chịu nổi sự lạnh nhạt xa cách của em. Gian nhà mình rộng và tối. Tiếng tu hú sau bụi tre già trưa trưa não nùng ma quái. Tàu lá chuối lọc hết ánh sáng mặt trời, chiếu hắt nỗi xanh xao vào căn buồng hẹp, nơi trú ẩn chống đỡ cái buồn mênh mông chị gánh chịu suốt thời thơ ấu. Thành thử lúc gia cảnh nhà ta suy sụp, đồng lương thư ký của thầy ít ỏi vơi lần theo nhịp tăng của thuế má vật giá, và chỗ bày hàng ngoài chợ của me bị tranh mất, rồi dì Thanh giới thiệu cho chị làm trong sở Mỹ, chị đã xem đây là cơ hội độc nhất giải toả đời mình. Thầy vẫn im lặng như thường lệ. Chỉ thoáng thêm đôi nếp nhăn và tiếng thở dài. Thầy không nói gì về lời đề nghị của dì Thanh, nhưng chị biết thầy lo âu. Me thì mừng rỡ, xem chị như cứu tinh của gia đình. Me vồn vã ân cần với chị. Chị hơi tủi khi so thái độ của me với chị ngày nhà ta còn khá giả... Nhưng chị hiểu tâm trạng của me. Đàn ông như thầy và em ít chú ý đến chuyện bếp núc, cơm áo. Riêng me, me đau đến thắt ruột khi thấy miếng thịt trong tô canh chua ngày càng nhỏ, và nồi cơm ngày càng vơi để đứa con trai yêu dấu của me phải bực mình dằn bát khi chị bảo hết cả cơm rồi. Còn riêng em, nghe chị sắp làm sở Mỹ, em bĩu môi. Mưa gió bão bùng không làm chị sợ bằng thái độ ấy của em. Nhưng chị cũng sợ màu lá chuối xanh xao, tiếng tu hú và gian nhà u ám ẩm mốc. Chị đã đi làm.

*


Em đã dùng những chữ thô bạo nặng nề để kết án chị, khi chị bỏ nhà về sống với Tino. Em bảo chị là con đĩ mười phương không chịu chừa một phương lấy chồng. Em bảo chị có một tâm hồn bệnh hoạn sa đọa. Em bảo chị làm mất hết tiếng gia giáo. Em bảo chị không còn xứng đáng bước chân về ngôi nhà cũ, để được đứng dưới khóm trúc xanh nhìn những chuyến xe lửa rập rình qua cầu, được nghe tiếng chim tu hú và ngắm nắng xanh xao trước bực thềm. Chị đã tê tái khi nghe me khóc thầm, chị đã đau đớn khi thầy lặng thinh quay mặt khinh bỉ không nhìn chị. Nhưng có viễn ảnh nào đen tối cho bằng viễn ảnh đời đời không được bước chân về cái cổng vôi rêu phong ấy. Chị mất quê hương, mất hết, mất thầy, mất me, mất em. Chị thui thủi ôm bọc quần áo trước bụng để che bớt cái thai. Thầy và em không biết, nhưng me biết. Me khóc to hơn, tấm tức không dám nói vì sao, sợ thầy biết sẽ đánh đập chị. Làm sao đến nỗi nầy hở con? Nhà tôi mấy đời ăn ở phước đức, sao Trời nỡ đầy đọa hỡi Trời?

Vì sao? Vì sao? Me hỏi, rồi sau nầy em đích thân đến phòng Tino thuê cho chị, giận dữ sừng sộ trước vẻ ngơ ngác của Tino (Tino có hiểu em nói gì đâu, tưởng em là một thằng du đãng) em cũng hỏi chị câu ấy. Vì sao? Vì sao? Lúc đó, chị định giải bầy cho em hiểu, nhưng hàng xóm bu lại đông quá, chị thẹn nên van lạy em về cho. Mà dù chị có giải bầy, chưa chắc em đã tin.

Bây giờ em nằm yên rồi, vĩnh viễn không múa may sừng sộ, chị mới có thể nói hết. Chị cũng nhiều lần hỏi chị lắm. Vì sao? Chị mừng rỡ thoát khỏi nhà như con chim sổ lồng, tự nhủ từ đây không bao giờ quay trở lại với cõi tăm tối lạnh lẽo gia đình. Chị đã mơ ước như vậy lâu rồi, mơ được một hoàng tử hôm nào đó cầm chiếc hài hoa gõ cửa, như chuyện thần tiên mình từng say mê. Chị đã mơ ước gặp đâu đó, do định mệnh an bài, người chị say mê từ lúc thoạt nhìn, tóc bềnh bồng, mắt mơ màng, phương phi hào hoa.

Những giấc mộng lãng mạn cùng vơi với tháng năm, cuối cùng chị chỉ ước mơ một ngày nào đó có bà già mặc áo thâm vào thì thầm với me trịnh trọng với thầy xin hỏi chị cho cậu con trai cả. Me vẫn thường bảo chị có số làm dâu trưởng. Chị mong thoát ra khỏi cái trầm buồn, đều đặn, nhàm chán của nếp sống nghìn năm không thay đổi cung bậc. Cho nên ngay lúc đầu, chị hân hoan đi làm với dì Thanh, với cảm giác thoải mái của tên tử tù vượt ngục. Sở của chị là một thế giới hoàn toàn khác lạ. Phòng thấp nhưng sáng sủa, máy lạnh rì rầm suốt ngày, hàng lô máy chữ tí tách. Cử chỉ của nhân viên Mỹ nhã nhặn, khả ái, khác hẳn thái độ binh sĩ ngoài phố. Tino là trưởng phòng kế toán, nghiêm nghị và cần mẫn. Cả phòng đều sợ ông, ngay cả các nam nhân viên da trắng. Chị phát khóc khi ông quăng trả tập hồ sơ đánh máy sai lên bàn chị, báo trước đây là cơ hội chót chị thay đổi cách làm việc. Chị cảm thấy ngộp thở, chới với, khi nghĩ đến vẻ mặt mừng rỡ của me lúc chị đưa số lương hai mươi nghìn đồng cho bà tháng trước. Có thể, nếu chị tiếp tục lỡ lầm, thầy sẽ không còn nhâm nhi với củ kiệu mỗi chiều, còn em thì đâu được quyền hút Salem vung vít. Làm sao có tiền trả cho Bill để mua cái tủ lạnh vào Chủ nhật tới? Mấy hộp Rinso chịu giá với bà Hải, tiền ứng trước me đã lấy may quần cho em, làm sao giao hàng? Còn hộp xì gà cho chú Tư? Còn dự tính sửa lại từ đường của thầy? Nỗi khốn khổ thật khôn cùng. Đầu óc chị quay cuồng, nhất là từ lúc Bill đưa cho chị xem tập hồ sơ nhân viên. Ông Tino phê trong phần nhận xét trên phiếu của chị: "Nhiều lần cộng sai và đánh máy lầm lẫn. Thiếu khả năng kế toán. Đã cảnh cáo lần chót. Nhân viên vào loại không cần thiết". Suốt buổi sau, chị không đánh máy nổi một trang hồ sơ. Khi trình lên Tino, ông lạnh nhạt đưa tay nhận, không thèm nhìn chị, lấy viết chì đỏ gạch mạnh đến rách cả giấy mấy lỗi chính tả sơ đẳng, rồi vất trả lại. Không còn cách nào cứu vãn nữa, chị ôm mặt khóc, bỏ sở chạy về nửa chừng... Em biết không, chị đã lang thang suốt cả buổi chiều trên tất cả những con đường phố, thất thểu bước không nói năng. Chị chờ giờ về, đến dì Thanh cầu cứu. Dì dặn đừng cho thầy me hay tin buồn, gắng vui vẻ về nhà, ôm theo mấy hộp bia và bột giặt dì cho mượn. Dì khuyên nên đến nhà ông Tino năn nỉ. Dì cho địa chỉ. Thấy chị e ngại, nhất là bây giờ trời đã tối, dì bảo không sao đâu, ông ấy nổi tiếng đạo mạo và đứng đắn. Không phải dân ba xạo và cà chớn.

Chị đã giấu nhà mối lo âu của chị, một mình đến tìm Tino.

Ngôi biệt thự ẩn sâu vào trong khu vườn rợp bóng mát. Lối đi trải sỏi và viền hoa. Ánh sáng phòng khách dịu nhẹ. Ông Tino ngồi trên chiếc ghế bành rộng, nước da đen chìm trong không khí mơ hồ huyền hoặc của bóng đêm và ánh đèn mờ. Chị lắp bắp vài câu, rồi khóc trước mặt ông. Ông không nói năng. Chị khẩn khoản xin lỗi. Ông đứng dậy khép kín cửa, cầm tay chị, dìu đến ngồi trên cái ghế bành sát tường, choàng tay qua vai chị. Chưa bao giờ chị nhìn ông ta gần như vậy. Trên khuôn mặt đen, mắt ông sáng khác thường, pha lẫn nào phẫn nộ nào cay đắng nào van lơn. Chị lạnh tê y như cảm giác lúc nghe tiếng saxophone da đen nghẹn ngào trong bản nhạc jazz, âm thanh của một nỗi si mê điên cuồng không thể giải toả và một nỗi nhẫn nhục trong cam chịu ê chề. Hơi thở ông dồn dập. Tim chị đập mạnh. Tiếng một chiếc lá sứ rơi bên kia bức màn mỏng. Tiếng cánh bay của một con chim đổi cành. Chị cố ngồi thu lại, thoát ra ngoài vòng tay ông Tino, nhắm mắt dằn xuống những xao động chợt hiện lần đầu. Xe lửa ồn ào chạy qua con đường sắt bên kia vườn. Cơn vũ bão phũ phàng cuồng nộ xô đẩy hết những cây cối nhà cửa xóm làng ăn sâu trong ký ức chị. Sự thô bạo của Tino thôi miên chị, quăng chị vào một cõi hãi hùng, tê điếng, khiến sau cuộc chị vẫn nằm khoả thân trên thảm, mắt thao láo nhìn như một kẻ đã chết. Chị đang ở đâu đây? Có gì vừa xảy ra? Sự tê dại càng sâu, rồi biến thành nỗi xót xa tràn đầy. Tuy không khóc, nước mắt chị ràn rụa. Tino quì xuống nền nhà, mắt thương xót lo âu. Tino lấy tay chùi nước mắt chị, bàn tay to lớn xù xì mơn man gạt nhẹ từng giọt từng giọt ứa trào. Tino gục đầu trên ngực trần của chị, ông khóc không thành tiếng, rồi nói như đang mơ:

"Chúa ôi, con đã làm gì? Con đã làm gì? Tại sao con trút hết nỗi phẫn nộ căm thù cuộc đời cho nàng? Đứa con gái nhỏ yếu đuối, sợ hãi. Mắt nàng lấm lét e ngại. Tay nàng vụng về run sợ khi đưa hồ sơ đến bàn con. Nàng không dám tránh xa khi con đến gần, không dám le lưỡi với bạn bè khi con dọa. Con vội vơ lấy dịp may hiếm có. Nàng đã đến đây van xin như con dự đoán, nhưng, lạy Chúa, con đâu có ngờ nàng còn trinh tiết. Nàng chỉ là một đứa trẻ lạc loài cay đắng như con. Con đã làm gì? Con phạm tội gì?"

Tino nói như mê sảng, chồm xuống hôn bàn chân chị. Đột nhiên chị đạp mạnh vào đầu ông, choàng ngồi dậy trong góc phòng trong thế tự vệ. Chị nói, giọng thất thanh:

"Ông là con thú dữ. Ông là ác quỉ hiện hình. Tôi ghét ông. Tôi tởm ông".

Chị muốn lợm giọng khi nghĩ mình vừa kề cận với thân hình cục nịch đen đúa kia. Chị cảm thấy bẩn thỉu nhầy nhụa. Đầu Tino va mạnh vào góc bàn. Ông ôm lấy đầu, lặng yên, hai tay ép sát vào thái dương. Bỗng Tino đưa bàn tay vàng bệch trước ánh đèn. Máu loang lổ đây đó. Chị sợ hãi suýt rú lên. Tino vẫn ngồi xa, vội vàng trấn an:

"Không sao đâu em, chỉ bị nhẹ thôi. Máu chảy một ít rồi sẽ hết. Em bé thấy không, máu tôi đâu có đen. Nó đỏ như mọi người. Và trái tim tôi cũng vậy, mềm mại mảnh khảnh như mọi người. Làm sao tôi chịu đựng được sự thù ghét nầy. Hãy nói đi, em bé nhỏ, hãy nói đi. Hãy nói là tôi đáng thương hơn đáng ghét. Hãy nói là em hết thù hận".

Chị không chịu đựng nổi nữa, chị oà lên khóc. Tino lết đến gần chị tự lúc nào, máu rỉ rỉ chảy xuống má, xuống cằm. Ông nắm tay chị, đặt lên đầu ông, van xin:

"Hãy nói đi, em bé nhỏ, hãy phát một cử chỉ chứng tỏ em tha thứ, tha thứ hết".

Chị se sẽ vuốt mái tóc Tino, cảm thấy máu ấm rịn qua kẽ tay. Chị vuốt nhẹ xuống đôi má đen của ông. Tino cảm động gục mặt xuống hai đầu gối chị. Hai bàn tay chị đưa nhẹ trên áo ông. Áo đỏ nhoè. Chị gục đầu lên gối ông, và khóc thoả thuê. Chị gọi se sẽ: Tino, Tino...

Một niềm say ngây giống hệt trạng thái người đứng bên bờ vực xâm chiếm chị. Hân hoan và lo âu. Trong thân thể to lớn cục nịch nầy, có cái buồn xanh xao của ánh sáng lọc qua tàu lá chuối, âm thanh huyền bí của tiếng tu hú não nùng, mùi ngai ngái ẩm mốc bao năm dồn về một tối đứng gió. Chị sợ những gì sắp xảy ra, ngày mai.

Tino đã kéo chị vào cuộc phiêu lưu của những kẻ cô độc, đi đâu cũng gặp những đố kỵ, khinh bỉ. Chị chỉ có thể giấu mọi người ba tháng đầu, nhân viên trong sở tưởng chị được khoan hồng nên tiếp tục làm việc. Chị tránh đứng riêng với Tino, nhất định không gặp ông lần nào nữa sau đêm bão tố. Tino kín đáo, không tỏ thái độ đặc biệt nào. Ông vẫn giữ nét mặt cũ, lạnh nhạt xa cách. Chị tưởng những gì xảy ra, chỉ là một biến động nhất thời của cả hai người, những cuộc đi hoang trốn tránh kiếp sống nhàm chán vô vị thường ngày. Nhưng lúc chị thấy trong người có triệu chứng lạ, và bác sĩ xác nhận chị đã có mang, bão tố thực sự mới đến. Phản ứng đầu tiên của Tino là sự vui mừng hớn hở. Nhưng khi nhận ra vẻ mặt ủ rũ của chị, ông tự kềm chế, vồn vã hỏi han. Chị chưa tìm thấy đôi mắt nào đẹp như đôi mắt Tino bấy giờ: có chút gió đông của đông muộn và chút nắng mới của mùa xuân. Chị không biết phải làm gì, bảo để về hỏi ý kiến me. Me sụt sùi khóc, không dám khóc to, tỉ tê kể lể những tai tiếng về sau cho gia phong, đòi đưa chị đi phá thai. Chị thấy lạnh cả người. Không có cách nào khỏi phạm tội lỗi khác hơn là bỏ nhà sống với Tino. Chị chưa từng nghĩ tới chuyện giết một con kiến nhỏ. Em nhớ không, lúc bé mỗi lần chụp được chú muỗi trong mùng, em hả hê lần lượt rứt cánh rứt chân, còn chị thì đọc kinh tiếp dẫn. Thà cuộc đời chị coi như bỏ, chị không thể vâng theo lời me. Hôm chị bước khỏi cái cổng vôi ôm bọc quần áo lên phố với Tino, là hôm chị bị sa thải ra khỏi xã hội người Việt. Cuộc ra đi của chị, chị biết, liên luỵ cả gia đình. Me không dám ra khỏi nhà, trừ những lúc quá túng thiếu ban đêm lén lút trốn thầy lên chị xin ít tiền chi tiêu. Thầy say sưa suốt ngày. Nhưng tuổi già quen vác nặng. Chỉ tội nghiệp có thân em. Bị chúng bạn xầm xì chế giễu, bảo em có con chị lấy Mỹ đen, chịu không nổi em đâm liều. Tuy không có ở nhà, nhưng chị biết hết. Hôm nào chiều về em cũng có vài vết thương. Em bỏ học, đăng lính biệt kích. Thầy chỉ biết trầm ngâm, me lại một lần thờ dài.

Cậu quí tử của thầy me, hũ mắm treo đầu giàn của thầy me, cục cưng của thầy me ra đi, càng làm tuổi già thêm hiu hắt vàng vọt. Chị cảm động biết bao, khi thấy em lảng vảng suốt buổi chiều trước nhà chị thuê. Chị biết em ngần ngừ, nhưng không dám ra gọi em vào, sợ xấu lây cho em. Cuối cùng lúc trời tối, em mới lẻn vào. Em chị khóc, bảo thương chị và suốt buổi không thốt một lời trách móc. Em biết đâu là sau đó me cũng lẻn lên, lấy một ít thuốc Tây, bọc kim chỉ và xin chị vài nghìn cho em. Chị không dám hỏi tin tức thầy, nhưng me đoán được ý chị, bảo thầy đang say và mê sảng:

"Thầy mầy lúc sau đổ đốn, suốt ngày lảm nhảm. Ông nói chuyện không đầu đuôi, me có hiểu gì đâu. Me bảo thầy già, lẫn rồi. Thấy quát tháo bảo mọi người điên hết. Chiều hôm qua khi nghe me bảo thằng Hùng nó đăng biệt kích Mỹ, thầy im lặng không nói gì. Thầy bảo me ngồi xuống trường kỷ kể chuyện chiêm bao: đêm trước có ông nội hiện về, bảo thầy theo nội có việc gấp. Hai cha con nắm tay nhau, chỉ nghe gió thổi, chẳng mấy chốc đã đến bờ sông. Nội dẫn thầy đến bên con ngựa đá, bảo lên yên và ra roi. Lạ quá, ngựa bỗng hí vang, rồi lội xuống dòng nước sâu, sang đến bờ bên kia. Một thần nhân áo xanh chờ sẵn, cầm tờ giấy điều đọc to:

Ngựa đá đã sang sông.
Lụt máu ngập đầy đồng.
Gạch tan và ngói rữa.
Xương kết bè trôi sông.

Đọc xong bỗng nước sông biến thành huyết, đầu lâu ngụp lặn sau lưng thầy. Vài cánh tay xương rút đuôi ngựa. Ngựa quị hý vang. Thầy chạy trốn bên thần nhân, ông nầy lại hoá ra bộ xương khô cầm đao. Thầy sợ quá hét lên, tỉnh dậy mồ hôi ướt đầm. Thầy bảo con ngựa đá là Núi Ngựa. Dòng sông là Trà Khúc. Nước Trà Khúc dâng ngập chân Núi Ngựa thì thiên hạ chết hằng hà sa số. Không biết gia đình họ hàng mình có việc gì không? Me nghe thầy nói lạnh mình, vì tuần trước o Phấn ra chơi bảo trong mình lụt lội, nước sông tràn đến chân núi".

Me nói xong nhìn chị. Chị nhìn me. Hai mẹ con cùng lo âu. Me khuyên chị bòn rút tiền của Tino cho thầy sửa lại từ đường, còn để dành lúc sinh nở. Chị vâng vâng dạ dạ, me đâu có biết đưa mấy nghìn cho me để me đưa cho em làm lộ phí, chị chỉ còn vài trăm trong túi. Sáng nào, khi Tino vừa ra khỏi nhà, là có vài thanh niên mặt mày côn đồ vào gõ cửa truyền lệnh: Me Mẽo, đưa tiền tiêu chơi. Ê, Me Mẽo, đem ít hộp bia uống. Me Mẽo, Me Mẽo. Hai tiếng đó làm chị hao mòn, ngậm đắng nuốt cay. Chị biết trốn đâu đây, để khỏi thấy những đôi mắt láu lỉnh đưa dấu trong khi những đôi môi thì thầm khúc khích. Chị trốn hết, trốn hết, nấp trong vòng tay Tino và khóc thoả thuê. Chàng vuốt tóc chị, kề môi xoá hết nước mắt trên trán chị, tỉ tê kể những nỗi đớn đau suốt cuộc đời chàng để chị thấy những rủi ro cam chịu của chị không phải họa hoằn. Chàng hát, giọng khao và nghẹn, những điệu blues buồn ru chị quên hết những ám ảnh chập chờn. Chị ngủ trong lòng chàng, và khi chợt thức vẫn thấy chàng say đắm nhìn chị. Trời, chị tha thiết yêu Tino, chị say đắm chàng. Bây giờ, em nằm yên rồi, vĩnh viễn không nói năng, múa máy, sừng sộ, chị mới dám nói thằng câu ấy. Nói thật to cho em nghe, dù em có cười. Tội nghiệp, đừng cười nữa. Em hãy nghĩ đến gánh nặng của sự khinh bỉ nhân gian đè lên vai chị, để thấy thấm thía tình chị với chàng: Suốt một tuần trong nhà hộ sinh, chị lấy khăn phủ mặt khi bế bồng cháu, vờ không nghe những lời xầm xì. Mỗi lần cháu lên ban đi tướt cần đến bác sĩ, chị phải che hết tay chân mặt mũi cháu, đứt ruột khi cháu ngộp thở ngọ nguậy mà không dám giở chăn giữa chỗ đông người. Những đêm khuya vắng, chờ cháu ngủ, chị mới dám ra khỏi nhà đi dạo cùng chàng, nép sát vào đôi tay bao dung của chàng.

Em tưởng tượng nỗi bơ vơ của chị, khi chàng được lệnh trở về Mỹ. Chàng xin cưới chị, van nài chị đi theo. Làm sao chị bỏ được nơi chôn nhau cắt rốn. Chị không còn được quyền đứng dưới khóm trúc xanh nhìn những chuyến xe lửa rập rình qua cầu, nhưng ý nghĩ nó vẫn còn đâu đó gần gũi đủ làm chị yên tâm. Chị còn có thầy có me, chị còn phải chờ em. Tino gửi tiền ở ngân hàng cho chị đủ sống chờ chàng xin trở lại, nhưng vẫn lo bọn du đãng ức hiếp chị. Chính chàng đề nghị chị đánh bạo về xin thầy me cho được trở về nhà. Lần đầu thầy ngồi yên nhìn chị, rồi quay đi, không thốt một câu. Lần thứ nhì thầy bảo: Thầy thương con, tuy chính vì con mà thằng Hùng bỏ nhà ra đi. Nhưng muốn về, phải cho thằng nhỏ vào cô nhi viện. Chị khóc, xuống năn nỉ me. Thầy bỏ đi ra vườn. Lần thứ ba chị xin thầy thương chị, đừng nỡ cắt tình máu mủ. Thằng cháu da ngăm đen, tóc xoắn, nhưng khuôn mặt giống chị hơn giống chàng. Nó u ơ trong giấc ngủ, miệng cười vô tư. Đó là hình ảnh chàng trong một khu phố tồi tàn nào đó của miền Nam, thời còn chưa biết nỗi nhục nhằn đắng cay vì màu da. Làm sao chị bỏ nó được. Tino đi rồi, chị chỉ còn có nó. Nên khi thầy nhứt định giữ ý cũ, chị đành xa thầy me nuôi con. Từ ấy chị không được gặp lại thầy. Còn me thì lên thăm chị luôn. Nhà mình sa sút cay cực đến độ não lòng. Ban đầu vì giữ ý, me nhờ chị vay hộ khi năm nghìn, khi ba nghìn. Sau đó me thú thực, và nhờ chị giúp đỡ. Em có biết đâu trong mấy tờ giấy bạc gửi cho em qua tay bạn bè có giọt nước mắt của mẹ già và của người chị khốn khổ. Rồi có tin loan truyền trong giới biệt kích về phép thuật siêu quần của em. Họ bảo em mình đồng da sắt, đạn bắn không thủng nhờ cái dây chuyền xâu bằng tai người phơi khô làm bùa hộ mệnh. Mỗi lần nghe những chuyện hoang đường ấy, me lâm râm Mô Phật. Còn chị thì tê tái cả lòng. Tất cả đều do chị. Em ra đi vì chị. Gia đình tan nát vì chị. Trời, em tôi đây sao? Đứa em bất chấp lòng tự ái và dư luận lẻn đến khóc trong vòng tay chị, trước khi nhập vào thế giới bạo tàn chém giết? Gà trống thường hay đá nhau, nhưng gà trống đâu có say mê đá nhau. Thằng con trai ở miền khô cằn sỏi đá, sống âm thầm trong lặng lẽ cô đơn đó ư? Me bảo chị viết thư hỏi hư thực ra sao, nếu thiên hạ đồn đúng thì me phải thí phát vào chùa. Thư chưa kịp gởi, nhà đã hay tin em đào ngũ, bỏ lính về sửa trị ba thằng du đãng ngày ngày hiếp đáp chị. Sao em biết chuyện? Ai mách cho em? Ai viết thư cho em? Chị vẫn cam lòng nhẫn nhục, vì xem họ như thiên sứ nhà trời xuống trần để trừng phạt chị. Em vẫn không bỏ tính cũ, thân lừa ưa vác nặng. Về quê chưa kịp thăm thầy me và chị, em đã tìm đến nhà bọn du đãng đòi thanh toán. Một thằng báo động hai, hai báo cho bốn, và một mình em làm sao đương nổi mười đứa. Em ỷ có súng bắn quị hai thằng, nhưng em đâu thấy ngọn dao của thằng thứ ba. Xác em nằm sóng soài, máu lênh láng trong ngõ hẹp. Đôi mắt chưa kịp khép. Chị hôn lên mặt em, da diết đớn đau. Em chết trong ngỡ ngàng, chưa hiểu rõ mình đang làm gì. Em của chị đây sao? Con của me đây sao? Chị và me phủ phục trên xác em, còn thầy thì cầm con dao đẫm máu hò hét múa may. Mọi người sợ chạy dạt cả ra, trốn hết vào nhà. Thấy phát điên, i uông ca hát:
Tình tang... ứ hự... ứ hự ngựa đã sang sông. Nhong nhong là nhong nhong ngựa ông lại về... Lại về ngựa đá sang sông...

Thôi, vậy là yên phận em! Thầy đã vào nhà thương. Me heo hắt trong khu vườn xanh, đang chờ chị về. Vĩnh viễn, vĩnh viễn xa em rồi. Con đường nhựa uốn cong theo con sông đào không còn dẫn em về chiếc cổng vôi rêu phong, chiếc cổng không dẫn em vào vùng xanh xao của lá non, múi ẩm mốc nghìn năm tích tụ, tiếng chim tu hú trong bụi tre già ma quái... Thầy hết ngồi trầm ngâm, thầy chỉ lo hát ngựa đá sang sông í a ngựa đã sang sông. Hàng xóm bảo nhà mình bị quỉ ám. Chị không tin, vì nếu xét cặn kẽ nguyên nhân, tất cả sự đổ vỡ đều do ở chị, do ở chàng. Chàng lập mưu kế để chiếm cho được chị, nhưng em tha lỗi cho chàng. Tino ở trong một trạng thái tuyệt vọng đến độ sự hiện diện của chị là tấm ván cứu rỗi cho một cuộc đời vốn bập bềnh phù du. Bão tố đến cho chị, cho cả nhà mình, nhưng ai bảo cuồng phong không phải là bạo lực tích tụ từ những cơn gió heo may trở mùa, những làn phảng phất trưa hè vắng lặng. Bão tố từ trong em, trong chị, trong con ngựa đá chỉ có do sự tưởng tượng thi vị của dân làng ven sông.
Mừng em về nơi an bình, tuy chị xót xa hết sức khi mãi mãi xa em, nhìn me héo gầy và nghe thầy hát cuồng.


Gió hú

Vi đã lên tới chóp núi chỗ có cây thánh giá trước, hai tay giữ chặt lấy vạt áo nên phải để mặc cho gió thổi tung mái tóc mềm. Nàng mặc quần áo trắng, tóc thả dài trên chiếc vai tròn, da mặt hồng hào vì cố gắng leo dốc nhanh để lên trước Tuấn. Gió thổi từ cánh đồng xanh màu mạ non làm cho tóc che khuất một nửa khuôn mặt nàng, còn nửa bên kia bị một vài mảng tóc rối che mờ. Tuấn thầy nàng linh thiêng mờ ảo, bất giác dừng lại ngước nhìn. Chàng nói:

"Vi hãy đứng tựa vào cây thánh giá đi".

Nàng thả bớt một chéo áo dài để lấy tay phải gạt bớt mái tóc rối, cúi xuống hỏi:

"Để làm gì vậy?"

Tuấn tiếp tục leo lên sườn núi.

"Bí mật".

"Anh nói cái gì?"

"Chuyện quan trọng lắm. Để chờ Tuấn lên đó đã".

Trong lúc vừa leo dốc vừa chiêm ngưỡng Vi, Tuấn bước lên một vùng đất sỏi, suýt tí nữa trượt chân ngã xuống. Vi la thất thanh:

"Ơ kìa. Coi chừng".

Tuấn nhanh tay chụp được một nhánh chim chim, gượng đứng dậy chữa thẹn:

"Mải với cao thành ra té nặng".

Vi chưa hiểu, nhưng mơ hồ cảm thấy trong câu nói của Tuấn có điều gì liên quan đến mình. Một điều gì thật trang trọng cao ngất, như mây trên đỉnh núi. Nàng sung sướng đến nóng bừng cả mặt, nói xuống:

"Xạo".

Tuấn không trả lời gì được vì đang gặp phải một đoạn dốc đứng. Đá nhọn xếp thành hình răng cưa, cây cối lại thưa thớt nên nếu vô ý chàng dễ dàng bị lăn xuống chân núi. Leo được đến chỗ đất phẳng gần Vi, Tuấn thở phào, tiếp nối câu nói khi nãy:

"Không xạo chút nào. Ở dưới nhìn lên, thấy Vi mặc quần áo màu sương, in hình dưới chân thánh giá, trông chẳng khác nào Đức Mẹ Đồng Trinh Maria".

Vi giấu bối rối bằng cách làm ra vẻ bạo dạn, chỉ tay thẳng vào mặt Tuấn đe:

"À, chẳng những xạo mà còn phạm thánh nữa. Để em về mét với Ma-xơ..."

Nàng còn định nói nữa, nhưng chợt nhớ mình lỡ lời nên bụm miệng lại cười. Tuấn nói:

"Ai mà sợ. Anh đâu có ở nội trú. Chỉ có bọn con gái nhát gan mới sợ các Ma-xơ thôi. Ăn nhằm gì tới Tuấn đâu".

Vi cãi lại:

"Sao không. Em mét cái anh chàng thường ăn mặc chững chạc đến xin cho cô em họ ra khỏi nội trú thật ra chẳng có họ hàng gì với con Vi hết".

"Thách đó. Chỉ sợ từ đây có người ngồi buồn hiu trong cửa sắt, cả chiều thứ Bảy dài, cả ngày Chủ nhật buồn".

"Nếu vậy em sẽ nhờ Ma-xơ gọi điện thoại lên ty mét".

"Ơ hơ, mét cái gì?"

"Mét có người nói dối với ba, mượn chiếc Honda đi làm giấy tờ quân dịch nhưng lại..."

Tuấn cười xoà, đưa cú đấm lên dọa:

"Coi chừng đó nghe. Nếu anh không thực tình kể chuyện mượn xe, làm sao Vi biết được?"

Rồi cả hai đều không hẹn mà cùng nhìn xuống con đường cái quan dưới chân núi. Chiếc Honda đỏ vẫn còn đó, gần cây cầu sắt bắc ngang qua đầm nước mặn. Tuấn đưa tay vào túi kiểm soát lại không biết là lần thứ mấy xem thử chìa khoá xe có còn đấy không, trong khi Vi lo lắng hỏi:

"Anh nhớ khoá kỹ chưa?"

"Rồi. Hai khoá xích ở hai bánh, một chìa khoá cổ, một chìa khoá máy. Ở gần cầu có trạm kiểm soát của cảnh sát, tụi ăn cắp tưởng xe lính không dám động đến đâu. Chuyện gì đây cũng nghĩ tới cả. Đấy Vi coi, có phải chiếc xe để ngay sau lưng trạm gác cầu không?"

Vi chăm chú nhìn theo hướng chỉ của Tuấn, gật gù không nói gì. Dưới kia nhà cửa san sát, mái ngói đỏ chen lẫn mái tôn bạc xếp hàng bám dọc theo hai bên quốc lộ. Con đường nhựa nhỏ uốn mình dịu dàng qua một vùng nhà cửa đông đúc, ngập ngừng đến trước một thánh đường, hùng dũng xẻ hông một đồi đất đỏ, rồi mạnh dạn vượt qua đầm nước xanh. Chiếc cầu sắt nhỏ nhắn như đồ chơi, và mỗi lần chiếc xe tí hon đi qua, cây cầu oằn mình chịu đựng, tiếng xương xóc loảng xoảng vang tận đến đỉnh núi nầy. Vi quên những ý tưởng tạp nhạp lúc nãy, bảo Tuấn:

"Trên cao nhìn xuống có khác. Thứ gì cũng giống như đồ chơi của trẻ con. Anh trông mấy chiếc xe chạy có vui không. Y như xe nhựa họ bán dưới chợ".

Tuấn cũng nói:

"Ừ còn mấy người nầy nữa. Như kiến bò. Con kiến bò chậm chạp chỗ trước nhà thờ nầy là người đi bộ. Hai con kiến bò nhanh hơn chút xíu nầy chắc là người đi xe đạp. Còn chỗ kia, đi xe gắn máy".

"Cái đầm nầy nữa, em tưởng rộng lắm, hoá ra chỉ là một vũng nước cạnh mà thôi".

Tuấn cúi xuống nhặt một hòn đá dưới chân, tìm thế đứng thuận tiện để ném mạnh xuống chân núi. Vi hỏi:

"Anh định làm cái gì vậy?"

"Thấy cái đầm gần quá. Chắc ném viên đá nầy thế nào cũng rơi tõm xuống nước".

Vi nửa tin nửa ngờ, tìm cách hạ bớt sự kiêu căng của Tuấn. Nàng bật cười khi nhìn viên sỏi trong tay Tuấn:

"Viên cuội tí teo nầy mà anh dám bảo là viên đá. Cuội khác đá khác. Đá là những phiến lớn, có thể dùng để xây tường. Còn cuội là những viên đá nhỏ dưới lòng suối, bị nước chảy mài nhẵn các góc cạnh. À mà này, sao trên đỉnh cao lại có cuội anh Tuấn hỉ?"

Tuấn hạ tay xuống, nhìn kỹ lại mới thấy Vi nhận xét đúng. Chàng đang cầm một hòn đá tròn láng đẹp, như những viên đá đủ hình dạng bà ngoại vẫn thường dùng để dằn các thạp dưa cải ở thôn quê thời nhỏ. Tuấn không biết giải thích thế nào, chỉ đáp bừa:

"Có thể nước mưa cũng làm cho đá mòn đi".

Vi cãi:

"Không thể được. Chỉ đá suối mới thế nầy. Chắc chỗ mình đứng đây ngày trước là lòng suối. Rồi qua bao nhiêu niên đại, trời đất rung chuyển, suối sâu nổi lên thành đỉnh núi cao. Thương hải biến vi tang điền mà. Anh thấy không". "Vi nói chữ nho không thua gì bà Đoàn Thị Điểm". "Em nói giỡn. Mới học lõm của thầy Việt văn hồi chiều hôm qua đấy".

Tuấn cảm thấy thích thú vì vẻ nhanh nhẩu, giọng nói tíu tít của Vi, giọng của Vi, Tuấn nghĩ, có cái gì vừa giống với tiếng chim bồ câu gù những buổi trưa vắng, vừa giống tiếng chim sẻ ríu rít ở cây vông đầu phố. Tuấn nói:

"Tưởng tượng mình đang đứng thế nầy, trời đất chợt ngả nghiêng, và chóp núi thành ra lòng sông sâu thì vui lắm hỉ?"

Vi lim dim cặp mắt tưởng tượng cảnh vũ trụ biến đổi ấy, tưởng tượng cơn đại hồng thủy của ngày tận thế. Nàng chậm rãi nói:

"Vui gì. Sóng chắc lớn lắm. Mình không bơi nổi đâu".

Tuấn bỏ Vi chạy lại ôm chân cây thánh giá bằng gỗ, quay về phía Vi nói:

"Thì ôm lấy cây thánh giá nầy cũng đủ sống. Gỗ nổi trên mặt nước. Lại thêm Đức Chúa Trời nhìn xuống..."

"Anh đừng làm thế. Vi không thích".

Nét mặt Vi khiến Tuấn e ngại, tự hiểu nên dừng lại. Đi quá một chút nữa là vỡ. Tuấn nhảy xuống chỗ đất bằng phẳng cạnh Vi, chuộc lỗi bằng cách trở lại ý tưởng khiến nàng thích thú ban đầu:

"Đố Vi biết Tuấn quăng viên cuội nầy tới đầm không?"

Vi làm hoà:

"Chưa chắc".

"Nói cho dứt khoát đi. Một là chắc hai là không. Coi kìa, cái đầm hẹp như một vũng nước tù. Con đường như sợi chỉ. Cây cầu òi ẹp. Chỉ cần vung tay mạnh một cái, viên cuội rơi tõm xuống đầm liền".

Giọng tự tin của Tuấn đưa đẩy Vi chọn lập trường đối nghịch. Vi bĩu môi thách thức:

"Không. Nhất định không. Sức anh bao nhiêu mà đòi ném được đến tận bờ đầm".

Tuấn không nói gì, dùng hết sức bình sinh quăng mạnh viên cuội về hướng đầm. Viên cuội rơi đâu đó, ở lưng chừng núi. Không tạo lấy một tiếng vọng nhỏ. Và còn xa, xa lắm mới tới được bờ nước xanh. Vi cười ròn rã để chế giễu Tuấn. Tuấn cúi xuống định lượm một viên cuội khác nhưng nghĩ dù cố gắng thế nào cũng vô ích nên lại thôi. Vi thôi cười, đưa ra nhận xét:

"Tại sao đá chạm vào vách đá mà không có tiếng vọng lại anh Tuấn hỉ?"

Tuấn trả lời ỡm ờ:

"Có lẽ nó rơi vào một bụi chim chim".

Vi chợt cười rộ, tinh nghịch:

"Hay anh ném mạnh tay quá, nó rơi tuột vào hư không rồi".

Tuấn không trả lời được, chỉ biết cười trừ. Mãi một lúc sau anh chàng mới nói:

"Có lẽ thế. Khi nào chỗ nầy thành suối, tiếng cuội mới dội đến tai Vi".

Vi bĩu môi:

"Lại xạo".

Tuấn nhìn môi dưới của Vi vều ra, đôi mắt đen sáng, da mặt hồng, mái tóc rối dán mỏng lên khuôn mặt rịn ướt mồ hôi, ngây ngất đứng nhìn quên cả phép lịch sự, Vi nói lảng:

"Chỗ nầy bắt đầu bị nắng rồi. Nóng dễ sợ. Qua bên kia chắc có bóng mát". Rồi không chờ Tuấn trả lời, Vi vịn bờ đá chuyền qua bên kia đỉnh núi. Bóng mát phủ lên trên một vùng đất phẳng khác hẹp hơn giữa hai vách đá dựng. Bên kia cách không bao xa bao nhiêu là một đỉnh núi khác, vì vậy gió đồng nội bị dồn vào khe đá này kêu vù vù. Tuấn theo kịp Vi nhảy vào chỗ bóng mát, nói:

"Đây là đỉnh gió hú, Vi thấy đúng không?"

Vi không trả lời vì đang bối rối giữ chặt lấy vạt áo dài. Gió thổi mạnh, dán chặt vải quần mỏng lên người Vi. Thấy Tuấn vẫn đăm đăm nhìn mình, Vi chỉ vào vách đá nói:

"Người ta mang cả sơn lên đây đề chữ lưu niệm nữa, thấy không".

Tuấn nhìn theo hướng Vi chỉ. Trên vách đá, chữ nghĩa đủ cỡ đủ kiểu kẽ ngang kẽ dọc chằng chịt, chữ nọ quấn quít lấy chữ kia. Gần chỗ Tuấn đứng nhất, có ba chữ sơn đỏ đề: HOÀ KHÁNH PHI. Tuấn nói:

"Đây chắc là tên ba cậu con trai lên đây tìm cảm giác mạnh. Lên đây làm người hùng. Làm nhà chinh phục".

Vi ngồi xuống cho gió khỏi thổi mạnh vào áo quần, trả lời:

"Sao anh biết con trai? Chỉ có con trai leo núi được thôi sao? Hoà, Khánh, Phi có thể là tên con gái".

"Hoà với Khánh có thể là con gái được đi. Nhưng Phi? Con gái mà thích bay à?"

"Vậy thì một chàng trai và hai cô gái".

"Thằng con trai nào ngu thế?"

"Vậy sao mới khôn?"

Tuấn nhìn Vi định nói, nhưng không dám. Chàng chuyển sang chuyện khác:

"Thôi. Còn chữ nầy nữa: ÂN ĐỀN OÁN TRẢ. Bên dưới lại có một mũi tên xuyên ngang qua trái tim. Máu nhỏ giọt. Chắc chắn của một thằng thất tình, bị đá đau đâm ra cay cú hận đời".

Vi cười:

"Đâm trúng tim thì chết ngoẻo rồi còn đâu nữa mà oán hận".

"Còn một lô các chữ viết tắt quấn quít lấy nhau thì dễ đoán quá rồi. NTN là Nga, là Nhung, là Nguyện, là Nguyệt. T là Tiêu, là Tân, là Tài, là Tiến, là... là..."

Tuấn tìm không ra tên một người con trai vần T. nào khác, cố kéo dài thì giờ để hoãn binh. Vi buột miệng nói:

"Là Tuấn nữa. Nga Tuấn, Nguyện Tuấn, Nhung Tuấn, Nguyệt Tuấn".

Vi vừa nói vừa cười tinh nghịch. Nụ cười đó khiến Tuấn bạo dạn hơn, Tuấn nói:

"Mình quên không đem sơn theo viết lưu niệm chơi".

Vi mím môi, ngập ngừng một lúc, cuối cùng đánh bạo hỏi:

"Viết thứ gì?"

"Thứ gì không được. Mình ghi ngày hôm nay 29 tháng 5. Mình ghi địa điểm, Đỉnh gió hú".

Vi trề môi chê:

"Không có nghĩa gì cả".

"Không cần ai hiểu. Chỉ cần hai người nhớ tới một ngày, một đỉnh cao là đủ".

Vi im lặng không nói gì. Một lúc, nàng chỉ xuống bãi tha ma bên dưới núi:

"Ở đây có một nghĩa địa mà lâu nay Vi không biết. Chết chôn ở đây sướng hơn ngoài nghĩa địa Phật giáo. Gần đỉnh núi cao, mình thấy phiêu diêu".

Nói xong, Vi mới hiểu mình đang nói gì, rồi cái nhìn của Vi xác định dần. Vi chú ý nhìn. Đằng dưới xa kia, bên cạnh nghĩa địa, một người đàn bà và một đứa con nít đang lượm những viên đá rải rác trong thung lũng dồn lại thành đống để bán cho các nhà thầu xây cất. Hai mẹ con (Vi đoán vậy) đứng xa quăng từng viên đá lại đống đá đã cao. Tiếng đá chạm vào nhau nghe nhỏ mà thanh, nhưng tiếng động đi chậm nên họ thu tay về Vi mới nghe âm vọng lên đỉnh núi. Vi thích thú nhớ lại lời ba hoa của Tuấn khi nãy, cười bảo chàng:

"Anh thấy không, tiếng đá chạm vào nhau vẫn dội lên tới đây, tuy có hơi chậm một chút. Chỉ có viên cuội nhỏ của anh là bặt tăm. Chắc chắn nó vào hư vô rồi".

Tuấn cười giả lả:

"Thôi đừng nói mỉa nhau nữa. Đá chạm vào đá, tất nhiên phải kêu lớn. Vi coi đây này".

Tuấn nhặt một cục đá nhọn lên, đập mạnh vào vách đá dựng. Tiếng chạm khô, chói, sắc sảo y như tiếng vọng từ khu nghĩa địa. Nhưng Tuấn hơi lấy làm lạ. Vách đá thật cứng. Cả viên đá nhọn cũng vậy. Tuy Tuấn cố ý đập mạnh để giải toả sự bực bội vẫn không có chút bụi đá nào toả ra. Tuấn nói:

"Chà. Không biết loại đá gì mà cứng dữ. À, phải rồi. Vi này".

"Cái gì, anh?"

"Mình không đem theo sơn, thì lấy đá nhọn khắc chữ lên chỗ gió hú nầy để lưu niệm".

Vi ngần ngừ sợ Tuấn giăng một cái bẫy nguy hiểm khác. Tuy vậy Vi vẫn hỏi nhỏ:

"Anh khắc chữ gì?"

"Đá cứng quá. Mình khắc cái gì đơn giản. Hai chữ V.T. chẳng hạn".

Vi cố ý xuyên tạc để che giấu e thẹn:

"Vũ Tuấn. Còn thiếu chữ Đức nữa. Vũ Đức Tuấn. Anh phải khắc đủ ba chữ Vũ Đức Tuấn".

Tuấn cười nhẹ, nhìn Vi đang đứng dựa vào bờ đá:

"Hay khắc chữ T.V. vậy".

"Ai mượn anh khắc tên trường của Vi làm gì. Em học Trinh Vương, ai không biết".

Tuấn hơi bực bội, giọng nói chen chút ít phẫn nộ:

"Ai muốn hiểu sao thì hiểu. Ai muốn giả bộ mù thì cho mù luôn. Đây cứ khắc".

Tuấn dùng cả sức mạnh hai cánh tay để ấn cạnh viên đá nhọn vào vách núi. Vi đứng nhìn Tuấn, cười khiêu khích. Tuấn liếc nhìn Vi, thấy gió hất cả mái tóc Vi ra phía sau lưng, phơi trọn khuôn mặt trái soan ửng hồng. Tuấn hăm hở vạch lại nét ngang của chữ T, nhưng viên đá chợt lên vách núi khiến chàng ngã quỵ sang bên phải.

Vi cười, giọng thách thức:

"Sức mấy".

Tuấn chống tay đứng dậy, ngước lên nhìn Vi. Bấy giờ gió thổi mạnh hơn, thổi bay hai vạt áo trắng của Vi lên trời, phất phới như hai chiếc cánh thiên thần, trong khi vải quần mỏng mịn dán chặt lên mông, lên đùi nàng. Tuấn cảm thấy choáng váng, tim đập mạnh, máu nóng bừng bừng. Chàng muốn quì lạy trước mặt Vi nhưng đồng thời cũng muốn sống trọn cái mãnh liệt của gió hú. Vi thấy đôi mắt Tuấn nhìn mình khác thường, sợ hãi kéo vạt áo lại giữ chặt không cho gió cợt. Tuấn ấp úng một lúc, rồi nói trong mê cuồng:

"Không khắc được lên đá, thì khắc lên da thịt của Tuấn vậy. Tuấn viết tên trường TV lên cánh tay nầy, được không?"

Vi chưa kịp hiểu, thì Tuấn đã dùng đá nhọn vạch lên cánh tay trái. Nét ngang chữ T làm Tuấn đau nhói. Nét dọc chữ T làm Tuấn xót xa. Nhưng đau đớn dần quen, chàng vạch chữ V lên da thịt với tất cả ngây ngất. Tuấn đưa cánh tay có hai chữ TV rướm máu đỏ về phía Vi. Vi sợ đến nổi gai ốc, nhìn xuống chân núi muốn trốn nhưng hai bàn chân cứ dính chặt lên mặt đất, chết đứng trong đê mê. Nàng khuỵu xuống lúc nào không hay, trước mắt trời đất đảo điên. Tuấn vội vã ném đá đến ôm lấy Vi. Chàng cảm thấy Vi mềm nhũn trong tay mình, đầu ngã ra phía sau để tóc bay quấn quanh cổ, mắt đờ đẫn. Tuấn không ngần ngại nữa, dúi mặt vào cổ vào tóc Vi, nếm vị mặn của mồ hôi và nước mắt trên chiếc cằm mềm của Vi, tham lam chiếm lấy đôi môi hờ của Vi. Vi khóc lặng lẽ, và cả Tuấn cũng khóc tự lúc nào không hay. Chàng giữ Vi như vậy khá lâu, thật lâu, chìm đắm trong tiếng gió hú và trong đám mây cuồn cuộn của hoang mang. Nếu mặt trời không lên quá đỉnh núi và chiếu thẳng vào hai người, chắc Tuấn và Vi cứ ngồi hoài như hai pho tượng bần thần. Vi ý thức được thực tại trước, e dè gỡ vòng tay Tuần rồi đứng dậy. Tuấn vẫn ngồi trên mặt đất như cũ, đôi tay mở rộng ôm lấy khoảng không, ngước nhìn Vi trước mặt, Tuấn thì thào:

"Em nói phải lắm. Trinh Vương. Chính em là Trinh Vương. Hai chữ nầy ghi đậm trong da thịt Tuấn hình ảnh Trinh Vương, một thủa..."

Vi sợ hãi quay mặt đi không dám nhìn cánh tay và gương mặt Tuấn. Chờ một lúc lâu không thấy Tuấn nói tiếp điều gì, Vi không quay lại, nói với Tuấn:

"Thôi mình về trưa rồi. Chắc ba anh đợi xe".

Từ đó hai người thất thểu bước xuống dốc núi, tâm hồn cùng rã rời ê chề. Cả Vi lẫn Tuấn đều không hiểu rõ kinh nghiệm xa lạ mình vừa trải qua, không thể biết đó là niềm hoan lạc giả tạo hay là nỗi khổ đau thật sự. Cả hai đều hoang mang, tiếc nuối đến xót xa, sợ hãi một thứ mây lạc trên nền trời thơ ấu quen thuộc. Đi ngang qua cây thập tự, Vi không dám ngước nhìn, chỉ chú ý bước chân mình. Còn Tuấn thì muốn thoát khỏi trạng thái mập mờ, muốn dứt khoát xa đỉnh gió hú để trở lại lũng thấp ồn ào. Chàng nói bâng quơ:

"Chiếc Honda còn kia".

Vi nhìn xuống phía chiếc cầu sắt, công nhận lời Tuấn nói đúng. Cái xe gắn máy Nhật màu đỏ vẫn còn dựng gần bên trạm canh. Nhưng ở trước trạm, xe cộ nối đuôi nhau chờ. Càng xuống thấp, Vi càng phân biệt rõ thêm hình dáng những người lính quân cảnh đang đi qua đi lại bên này cầu.
Vi thắc mắc hỏi:

"Sao lính họ tụ tập đông quá vậy anh? Toàn là quân cảnh".

Tuấn giật mình, nhìn chăm chú về phía chiếc xe. Chàng hiểu rõ tại sao quân cảnh canh gác nghiêm ngặt con đường độc đạo ra khỏi thành phố. Hôm qua là ngày chót tất cả thanh niên lứa tuổi Tuấn phải trình diện ở trại nhập ngũ. Tuấn đã sống qua một đêm bất hợp pháp, và dối cha để sống thêm một buổi sáng bên lề pháp luật, bên trên nhân gian. Bây giờ Tuấn mới biết mình đã dại dột khi khoá xe gởi ngay sau trạm canh cầu. Làm thế nào bây giờ?

Chàng muốn lẩn lút đi vào lối cấm để tìm lại lần nữa cảm giác xa lạ trên đỉnh gió hú, cái cảm giác làm Tuấn vừa run rẩy sợ hãi vừa ngây ngất đam mê.

Tuấn nhìn Vi đang lặng lẽ bước trên con đường quanh co giữa những bụi chim chim xơ xác. Tuấn gọi:

"Vi nầy?"

"Cái gì anh?"

"Có giận Tuấn không?"

Vi ngập ngừng:

"Em không biết. Anh hung dữ quá làm Vi sợ. Cánh tay có đau lắm không?"

"Thấm gì. Tại anh bực bội. Bực bội mình chớ không phải tại Vi đâu. nhưng thôi. Bây giờ cho Tuấn nhờ một chút được không?"

Vi dừng lại, giọng nói quả quyết vì không sợ bất cứ bẫy ngầm nào của Tuấn nữa:

"Được chứ. Anh nhờ Vi chuyện gì?"

"Tuấn trình diện trễ. Bây giờ ra lấy xe, bị quân cảnh tóm là cái chắc. Tuấn đi dọc mé núi, lặn theo ngả nầy. Vi ra đem giùm cái Honda về trường đợi Tuấn, được không?"

Vi đáp liều:

"Được mà. Đưa chìa khoá cho Vi".

Nàng quên hỏi rõ chìa khoá nào mở dây xích trước, chìa nào mở dây xích sau. Vi cũng chưa phân biệt được chìa khóc máy và chìa khoá cổ. Vì vậy lúc đến trạm canh Vi hì hục mãi vẫn chưa mở hết được các ổ khoá. Mấy người lính quân cảnh tinh nghịch bu quanh Vi, chẳng những không giúp đỡ mà còn chống nạnh đứng cười. Vi bối rối thêm. Nàng thở phào nhẹ nhõm lúc mở hết được các ổ khoá. Vi vội vã dắt xe tránh khỏi đồn canh. Đến phía bên kia đường, Vi lên yên đạp mạnh cần đề nhiều lần, nhưng vì không quen tay ga, xe không nổ. Trong khi đó, mặt trời lên cao, ánh nắng càng gay gắt. Mồ hôi ướt cả lưng áo dài của Vi.

Nàng dắt chiếc xe của ba Tuấn đi dọc theo quốc lộ, lòng chùng lại. Mồ hôi nhỏ từng giọt trên má. Khi một dòng nước ấm chảy xuống môi, và Vi nếm thấy vị mặn, nàng mới biết mình đã khóc. Nhưng Vi chưa rõ vì sao, nên lòng cứ bập bềnh hoang mang, mãi mãi, hoài hoài.
Nguồn: Bão rá»›t, Nguyá»…n Má»™ng Giác, in tại Trí Đăng, 21/1/1 Nguyá»…n Thiện Thuật, Sài Gòn 3, số lượng ấn bản 1500 cuốn. Giấy phép xuất bản số 2267/PTUDV/KBCNT/KSALP cấp ngày 25-6-1973. Phát hành ngày 15-9-1973. Bản Ä‘iện tá»­ do talawas thá»±c hiện.