© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Điểm nóngChính trị Việt Nam
Loạt bài: 50 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ
 1   2   3   4   5   6   7   8 
11.5.2004
Nguyễn Văn Lục
Sau Ðiện Biên Phủ
 
Vào ngày 9 tháng Năm năm 1954, một buỗi diễn binh được cử hành tại Hà Nội mừng kỷ niệm ngày quân đội Pháp thắng Ðức trong thế chiến thứ hai. Đối diện tượng đài chiến sĩ, một khán đài bằng gỗ được các cu ly Việt Nam dựng lên với rất nhiều cờ ba sọc xanh trắng đỏ. Không khí buổi lễ năm nay mất đi cái vẻ tưng bừng của ngày lễ ăn mừng chiến thắng. Có cái vẻ gượng gạo mặc dầu mọi người vẫn muốn tỏ ra mọi chuyện vẫn như bình thường. Thật ra, không ai trong số những quan chức Pháp và Việt đang được dẫn lên khán đài ngạc nhiên về việc mất Điện Biên Phủ. Người ta chờ cái tin nó đến như thể một điều không thể khác được. Mỗi ngày lại thêm những tin xấu được gửi về từ cái lòng chảo đó. Người ta thậm chí đã chờ nó đến. Mặc dù một vài ghế dành cho quan chức thuộc địa và bản xứ bỏ trống, buổi lễ vẫn tiến hành như không có gì xảy ra.

Ðội quân nhạc bắt đầu cử những bài hát thường lệ, trong đó có bài Hồn tử sĩ, để tưởng nhớ đồng đội đã hi sinh trong thế chiến thứ hai. Thường khi nghe những bài hát như thế, người ta cúi đầu, các mệnh phụ kín đáo lấy chiếc khăn nhỏ lau nhẹ khóe mắt. Song hôm đó, sự im lặng cùng nghi thức nghiêm cấn dường như chứa đựng một ý nghĩa nào đó khác thường.

Chưa ai trong bọn họ quên được trước đó hai hôm, vào ngày mồng 7 tháng Năm năm 1954, cách Hà Nội chừng 300 cây số đường chim bay về phía Bắc, trung úy Allaire nhận được lệnh của trung tá Bigeard phải buông súng. Allaire bàng hoàng không biết phải làm gì? Anh chưa bao giờ nghĩ đến chuyện phải đầu hàng. Tại sao có thể như thế được? Làm sao anh có thể nói với đồng đội điều đó? Anh gọi cho Bigeard thông báo đã nhận được lệnh nhưng yêu cầu trung tá gửi cho một lệnh viết tay. Bigeard bực mình song cũng chiều lòng cấp dưới. Ông trả lời "Được rồi, nhưng anh cho người của anh đến bộ chỉ huy". 15 phút sau, người lính nhảy dù, quần áo nhếch nhác, lấm bùn đất quay trở lại với mảnh giấy nguệch ngoạc mấy dòng chữ viết vội của Bigeard:"Gửi Allaire, ngừng chiến đấu vào lúc 17 giờ ba mươi. Hãy ngừng bắn. Không treo cờ trắng. Hẹn gặp lại." Ở bên dưới ghi thêm mấy chữ không phải là lệnh mà là sự tỏ bày thương xót: "Tội nghiệp đơn vị 6. Tội nghiệp những thằng con nhảy dù." Allaire nhét mảnh giấy vào túi mệt mỏi, chán nản văng tục: "Mẹ kiếp!". Tại cứ điểm Eliane 3, Allaire vén tay áo nhìn đồng hồ. Lúc ấy là 17 giờ. Cứ điểm sẽ bị chiếm lúc 17 h 30.

Ðại tướng Cogny [1] với vóc dáng cao lớn, chống gậy ba toong, trịnh trọng nhưng chậm chạp trong cung cách một vị tướng, đến bên tượng đài chiến sĩ đặt một ít cỏ và một vòng hoa nhỏ. Xong đâu đấy, ông gắn huy chương và dây huân chương cho một số sĩ quan và hạ sĩ quan. Những dây này đã đặt sẵn trên chiếc khay nhung do các sĩ quan tùy viên của ông bưng. Ông quàng dây huân chương chéo qua ngực những người sĩ quan ấy và ôm chúc mừng họ. Đây là lần cuối ông làm việc này. Xong, ông phất tay một cái ra hiệu, buổi diễn binh bắt đầu. Có một đại tá lén lấy chiếc mùi xoa trong túi áo lau nước mắt. Nỗi buồn thảm như đọc thấy trên khuôn mặt những người tham dự buổi lễ.

Những chiến binh nhảy dù, phần đông kéo lê đôi chân vì những vết thương cũ, cố nhịp bước theo đoàn trong tiếng nhạc quân hành, nghếch mặt về phía khán đài đang rầm rộ vỗ tay. Nhiều người trong số họ là những kẻ may mắn cuối cùng vì đã không bị gửi lên Điện Biên Phủ chỉ vì lí do giản dị là họ bị thương hoặc thuộc thành phần trù bị. Họ đi như những bóng ma, mặt đanh lại, lạnh lùng tiến bước. Họ là đại diện cuối cùng cho một đoàn quân chiến bại. Cách đó không xa, đồng đội của họ còn nằm la liệt trên cáng dọc hành lang tại nhà thương Lanessan [2] . Đó là những người sống sót được tải từ mặt trận về. Những thương binh làm sao quên được ngày 3 tháng Tư vừa qua, sau 90 giờ liên tục chiến đấu, Eliane 2 vẫn đứng vững. Buổi chiều đến lượt Huguette 6 bị tấn công. Tảng sáng mồng 4 tháng Tư, Việt Minh rút lui. Trận đánh ở Eliane tạm ngưng. Lúc đó Eliane đã cầm cự được 107 giờ. Buổi chiều, đến lượt Huguette 6 lại bị tấn công. Có 5 tiểu đoàn Việt Minh tấn đánh Huguette. Tiểu đoàn Clédic 2-1 được gửi đến tiếp viện. Họ bị chặn lại nhưng đã cố gắng vượt qua được phi đạo, đẩy lui cánh quân Việt Minh đang ở phía đó. Sáng mồng 5, Clédic chiếm lại được Huguette 6. Sau đó, hai đại đội đã tìm cách chiếm lại Eliane 1. Charles và Minaud đến tiếp tay. Vào lúc 23 giờ Bigeard quăng thêm vào hai đại đội. Họ bị phản công mạnh bởi binh đội Việt Minh. Bigeard quăng tiếp thêm hai đại đội nữa của Tiểu đoàn 5 dù Việt Nam, BPVN (bataillon de parachutistes Viet Nam) do Guilleminot và trung úy Phạm Văn Phú chỉ huy. Sau này trung úy Phú lên cấp tướng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng đến 30 tháng Tư, 1975 một lần nữa ông nếm mùi thất bại, đầu hàng Việt Minh. Sau đó ông đã tuẫn tiết.

Trong lúc đó ở Hà Nội, có nhiều dấu hiệu lạ. Pháp chưa thua trận Điện Biên Phủ mà người ta đã thấy đâu đó những tờ báo in lén ra ngày 2-5-1954 với măng sét cố chạy dài khẩu hiệu "Cương quyết chống văn hóa dâm ô trụy lạc". Một cái khẩu hiệu như thế có vẻ như lạc điệu và buồn cười trong tình thế hiện nay. Ai còn có tâm trí đâu để nghĩ đến những chiêu bài cải tiến xã hội như vậy. Người ta tự hỏi như thế có sớm quá chăng? Người Pháp vẫn còn đó. Mất Điện Biên Phủ nhưng chưa mất Hà Nội. Vì thế mà vào ngày 2-7-1954, tờ báo bị người Pháp bắt đình bản.

Những trí thức thành thị, công chức, tiểu tư sản cũng nhốn nháo cả lên. Họ bàn tán, hội họp, kẻ rục rịch bán nhà, kẻ chuẩn bị vào Nam. Đi hay ở là câu hỏi được đặt ra trong bọn họ. Phần đông họ tình nghuyện rút theo người Pháp. Nhưng trong lúc này thì hãy chờ và xem theo cái sự khôn ngoan bình thường của những kẻ có chút chữ nghĩa.

Thành phố Hà Nội lúc này tự nhiên có rất nhiều chợ trời bỏ túi mọc ra khắp nơi. Chỉ cần một cái bàn nhỏ, một chiếc khăn trải xuống đất, thế là một cửa hàng nhỏ đã chớp nhoáng ra đời. Người bán hàng là những mệnh phụ phu nhân, vợ các quan chức thầy thợ làm cho Tây, hay các thương gia. Họ thường ăn mặc sang trọng hơn kẻ đi mua hàng. Người ta bán đủ thứ: từ những thứ kềnh càng không mang đi được như tủ chè, sập gụ đến tủ gương, giường lò xo Hồng Kông. Người ta bán đủ thứ và mua đủ thứ từ đồ dùng đến quần áo, bút máy, đồng hồ xe đạp. Đối với dân tản cư vào thành phố thì họ không lạ gì những chợ trời như thế mọc lên chung quanh các vùng Phát Diệm, Bùi Chu, Hà Đông, Chợ Gạo, những nơi giáp ranh giữa vùng Tề và vùng Giải phóng. Những đối với dân Hà Nội hồi cư chính cống thì đây là chuyện khác thường. Nó báo hiệu những thay đổi lớn sắp xảy ra.

Và cứ như thế, kể từ sau khi Điện Biên Phủ thất thủ... Hà Nội sống trong cơn sốt đi hay ở. Và càng đến cái hẹn cuối cùng theo hiệp định Genève thì bầu không khí hoảng loạn càng gia tăng.

Hà Nội ngày 9 tháng Mười năm 1954 - đây là ngày hạn chót của cuộc triệt thoái binh đội Pháp ra khỏi Việt Nam. Vì thế mà chiều mồng 8 tháng Mười, một hạ sĩ người Pháp trong bộ binh phục đẹp nhất từ từ kéo lá cờ Pháp xuống, gấp lại và hôn nó một cách kính cẩn. Cực kỳ đơn giản, nhưng cũng đầy trang nghiêm. Một điệu nhạc buồn bã được tấu lên. Sự im lặng trải rộng. Một cơn dông tự đâu đến, gió thổi mạnh. Gió cộng với mưa tạt ào ào xuống sân đá banh Mangin - một sân vận động nghèo nàn với đường chạy đua bằng đất nhão nhoẹt, chỉ còn trơ lại cái cột cờ ở giữa sân. Có tiếng hô vang các khẩu lệnh nhà binh, chừng ba trăm người lính, súng trên tay làm theo lệnh. Vẫn bóng tướng Cogny ở đó, chững chạc, uy nghi. Dù trong thế của người bại trận, ông vẫn muốn thể hiện phong cách của một tay sĩ quan nhà nghề. Không ai có thể suy đoán được ông đang nghĩ gì. Có thể ông nhớ lại cái ngày 25 tháng Tư năm 1954, ông nhận được một Nghị định thông qua Bộ trưởng Chiến tranh P.De Chevigné với đầy đủ danh sách các đơn vị, các tiểu đoàn trú đóng ở Ðiện Biên Phủ được vinh danh [3] . Cái nghị định đó đến không đúng lúc. Quân đội dưới quyền ông kể như thua trận rồi. Nhưng bằng khen, những huân chương đó làm sao cứu vãn được tình thế. Ông cần thêm binh lính, cần thêm viện trợ súng ống thì không được. Nghĩ tới đó, ông không khỏi ngao ngán.

Vậy mà hôm nay, ông phải cử hành cái nghi thức cuối cùng của đời binh nghiệp, đại điện cho hơn 600 ngàn đồng đội của ông, những chiến binh đủ loại: Tây trắng, Tây lê dương, Tây rạch mặt, lính bảo an đoàn và toàn thể các binh chủng khác. Người ta nhận thấy một số lính trong binh đoàn số 3, binh đoàn đã thảm bại trong trận chiến Cao Bằng vào những năm 1950 gồm những binh sĩ đầy can đảm đã cố thủ cứ điểm có cái tên con gái rất đẹp là Isabelle đến phút cuối cùng. [4] Nhưng cái việc mà Cogny phải làm là đã ký những sự vụ lệnh truyền cho tất cả các công chức người Việt phải rời bỏ Hà Nội đi vào Nam, mọi phí tổn sẽ do nước Pháp và đồng minh của họ đài thọ. Hạm đội thứ bảy của Mỹ sẽ cung cấp máy bay và tàu thủy, thay vì dùng cho nhu cầu chiến tranh, nay dùng để chuyên chở những người di cư vào miền Nam đúng như tinh thần của bản tuyên cáo do tổng thống Eisenhower đã tuyên bố ngày 30 tháng 6 năm 1954 qua thông tấn xã AFP: "Nếu có hiệp định đình chiến thì Mỹ có một cuộc di tản để đưa dân miền Bắc vào Nam". Và điều đó đã xảy ra sau này.

Bốn giờ sáng ngày 9 tháng 10, năm 1954 [5] , Hà Nội đổi chủ. Nhiều người Pháp ra đi mà vẫn còn tự hỏi cái bọn "nhaque" đang tấp nập trên phố, túi gạo đeo chéo trên lưng thay cho dây quàng chiến thắng, làm cách nào mà thắng được họ. Lùi lại tám năm về trước, những người lính lê dương trên chiến xa bốn bánh cao su trấn giữ cửa ra vào sở Hành chánh, Tài chánh vào cái đêm 19.12.1946, bọn họ còn thấy bộ đội Việt Minh như các chú con nít, vứt lại những khẩu súng gỗ trên con đường đôi chạy dọc trước sở Hành chính Tài chính. Thật sự họ không tài nào hiểu được những chú con nít đó nay đang thay thế họ làm chủ Hà Nội.

Bên cạnh sự ra đi của quân đội Pháp, một số không nhỏ lên đến cả triệu người cũng ùn ùn ra đi theo quân đội viễn chinh Pháp. Sự thật, đối với người dân thành thị hay những công chức từng làm việc cho Pháp thì sự ra đi của họ là điều không tránh được. Song vô số những người dân quê, những nông dân thì vì lý do gì cũng ra đi bỏ theo vào Nam? Họ bị tuyên truyền chăng? Họ sợ cái gì? Họ là đám người cùng khổ, thứ cùng đinh của xã hội mà tại sao phải sợ? Họ nằm rải rác, vạ vật ở ga Hàng Cỏ, ở khu Nhà Hát Lớn. Phụ nữ, người già, trẻ con, họ nằm, ngồi chồm hỗm, nét mặt sợ hãi ngơ ngác. Họ nằm duỗi dài trên các vỉa hè, gối đầu lên các đồ đạc lỉnh kỉnh, nào nồi niêu, bát đĩa với trăm thứ linh tinh không đáng giá vài chục bạc. Tình trạng Hà Nội đầy căng thẳng... kẻ ra đi, người ở lại... Có một bầu không khí kinh hoàng với nhiều tin đồn thổi.

"Một tổ chức phá hoại nào đó, có hệ thống đã làm hỏng kho dầu xe buýt, phá hủy các máy móc và đánh sập chùa Một cột, ngôi chùa đầy giá trị lịch sử và tôn giáo hàng trăm năm. Theo lời những người di cư, hàng ngàn người khác thuộc địa phận Bùi Chu và Phát Diệm đang tìm cách chạy trốn, có khi phải trả 5000 quan Pháp cho một chỗ trên các thứ thuyền hoặc bè. Nhiều thuyền đã bị lật và đắm luôn trong các cơn bão đang làm dữ mấy ngày này." [6]

Và hàng trăm người di cư đã bị chết đuối trong tai nạn đó. Những nhận định ở trên của tác giả, giáo sư Trần Tam Tỉnh, nguyên giáo sư khảo cổ Đại Học Laval, Quebec thật có nhiều điều cần được kiểm chứng lại. Hà Nội vào thời điểm đó làm gì đã có xe buýt để có kho xăng dầu. Những người nông dân nghèo hèn, bữa no bữa đói ở Bùi Chu, Phát Diệm lấy tiền đâu ra đóng 5000 quan cho một chỗ đi. Mà tại sao không là tiền Đông Dương thay vì tiền quan Pháp? Tác giả Thập giá và lưỡi gươm có thể nào dùng những số liệu và tài liệu hoàn toàn xuyên tạc như thế được chăng? Cuốn sách của ông sau này đã được rất nhiều người sử dụng như một thứ bảo chứng nhằm biện minh cho quan điểm của họ mặc dù đó là một sự thật được ông đặt ra.

Trước khi rút lui, quân đội viễn chinh Pháp cướp bóc, phá phách nhiều cửa hàng lớn ở các phố Hàng Ngang, Phố Huế, Hàng Đào, Hàng Khay, Hàng Bài. Các hàng phở đều đóng cửa thin thít ngay từ chập tối vì sợ hãi. Cửa hàng sách báo của ông Phạm Khắc Quang ở phố Tràng Thi cũng đóng cửa. Chẳng biết chủ nhân đi hay ở? Nhà in Lê Cường ở phố Hàng Bồ cũng đóng im ỉm. Chẳng ai biết nữa. Chỉ có tòa đại sứ Mỹ ở phố Hai Bà Trưng là nhộn nhịp hơn cả. Kẻ ra nguời vào tấp nập, vội vã. Những tay say rượu đi ngoài đường vào quấy phá trong các tiệm rượu.

Có những đoàn xe nhà binh Pháp nối đuôi nhau ra khỏi thành phố cùng với binh đội Pháp và dân chúng. Ngược lại, có những binh đội Việt Minh xếp hàng một đi ngược chiều vào thành phố. Bọn người này không có cái vẻ gì là người chiến thắng, nhiều người còn tỏ ra rụt rè, ngượng ngập, vừa đi vừa hát vài câu để lên tinh thần, che lấp cái nhút nhát đó: "Một đoàn người trai hiên ngang, đeo trên vai nợ máu xương, vui ra đi không buồn nhớ thương" hay "Ra đi ra đi bảo tồn sông núi. Ra đi ra đi thà chết chớ lui."

Hà Nội: một rừng cờ đỏ, một rừng người, một rừng cánh tay giơ lên. Thật khó diễn tả cho hết những gì người ta nhìn thấy. Ðoàn lính Pháp trên những xe nhà binh chậm rãi nối đuôi nhau như một đàn rắn khổng lồ tiến về phía Bắc thành phố, hướng cầu P. Doumer. Kẻ ra, người vào. Tướng Cogny đứng đàng sau một chiếc xe Jeep bỏ mui giơ tay vẫy chào đám dân chúng hiếu kỳ bên đường. Ông duyệt một đám quân lính lê dương, ăn mặc chỉnh tề, huy chương, mề đai đeo đầy người. Không ai bảo đó là một đoàn binh thua trận. Hình như họ muốn dành cho ông một cái vinh dự chót của người làm tướng. Người ta nói rằng khi đến Hải Phòng, ông đã thỉnh cầu giám mục Hải Phòng cho kéo chuông nhà thờ Chính tòa để đón tiếp đoàn quân Pháp trên đường về nước. Chẳng hiểu ông có đòi hỏi giám mục phải kéo chuông Te Deum (Kinh tạ ơn) hay là De Profundis (Kinh cầu hồn) hay không?

Trong rừng người tiến vào thành phố, thật khó để biết ai là sĩ quan chỉ huy. Chẳng ai có thể nhận ra những đồng chí như Bùi Quang Tạo, Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Thái, Võ Nguyên Giáp, Lê Liêm. Người ta nhốn nhác tìm bóng dáng ông Giáp hay ông Hồ nhưng không thấy. Vài ngày sau, qua báo chí, người dân Hà Nội được biết các ông ấy đã về tới Hà Nội, nhưng ở đâu thì không ai hay.

Hà Nội đã thay đổi diện mạo. Người ta nhận thức ngay được phải ứng xử thế nào trong hoàn cảnh mới. Có một chút nhạy bén và sức lan truyền đến lạ lùng trong đám thị dân năm thành phần được cách mạng công nhận là thợ thuyền, nông dân, binh sĩ, tiểu tư sản và tiểu tư sản yêu nước. Các cô gái con nhà, yểu điệu thục nữ, mượt mà, quần lụa trắng, áo dài mà mỗi bước đi cố gắng vắt xéo từ bên này qua bên kia nay áo cánh nâu, quần đen, tay cầm lá cờ đỏ. Các bà mệnh phụ trước đây cứ một bước lại ngồi xe tay nay lạch bà lạch bạch ráng theo đoàn người đi tới. Mọi người hình như bằng mọi cách khuôn ép, tự sắp xếp mình vào năm thành phần trên. Ðường phố vốn nhỏ hẹp nay chật cứng người như nêm cối. Như tự phát, từng đám người như thế lũ lượt như những đám rước trên đường phố hết đám này đến đám khác. Trong đám đông ai đó hô "Hồ chủ tịch muôn năm!", thế là cả cái cỗ xe người đồng lượt vung cánh tay hô theo. Họ ùn ùn kéo đến Nhà Hát Lớn, đi qua rạp chiếu bóng Eden, nhà in Viễn Ðông, còn được gọi là nhà in Ideo, hướng về phía vườn hoa Con Cóc rồi Bắc Bộ phủ. Nổi bật là những đám thanh thiếu niên, không biết bằng cách nào và từ bao giờ, ăn mặc như hướng đạo mà mỗi em đều quàng một chiếc khăn quàng đỏ. Hình như cả thành phố chỉ có dân chúng chứ chưa có bóng dáng người lãnh đạo. Vậy mà cái guồng máy đó chạy đều, nhịp nhàng hăm mươi bốn trên hai mươi bốn. Thành phố như vô chủ, chỉ có đám đông, chỉ có người gặp người, người nhìn người, đi ngược, đi xuôi. Gặp nhau có lối chào mới: giơ nắm tay đồng lọat hô to "Muôn năm, muôn năm!". Chẳng có gì có thể tả hết được cái ngày như thế, cái khung cảnh như thế, cái vận hành, cái chuyển đổi, lột xác như thế.

Những đoàn người cuồn cuộn như dòng nước lớn không dứt, hết đám này đến đám khác cho mãi đến nửa khuya và bắt đầu lại vào sáng sớm ngày mai. Chính quyền mới trong một tíc tắc đồng hồ đã biến đổi đám người trước đây có thể là tiểu thương, viên chức của Pháp, nếu không nói là theo Tây, Việt gian của Tây trở thành một đám quần chúng hăng say mà không mất một ngày tập huấn.

Nay thì nhiều người mới có dịp được biết những chú bộ đội của những ngày đầu cuộc chiến 19 tháng 12 năm 1946. Cũng chính những chiến sĩ này, sau này thành binh đoàn 308, binh đoàn mà mỗi khi lính Pháp nghe thấy đều nể sợ, đã khai tử binh sĩ Pháp trong trận Điện Biên Phủ. Họ đi lộn xộn, không phải một cuộc diễn binh mà một đám rước quanh bờ hồ Hoàn Kiếm. Dễ cũng đến hai lượt đi quanh hồ hay đi một vòng rồi trở ngược lại. Mỗi lúc một phấn khích qua những bài hát, tiếng vỗ tay. Từng phút, đám thị dân Hà Nội lại hòa nhịp vào đám rước đó, cũng vỗ tay, cũng hát to, nhảy múa, có người chơi đàn măng đô lin, có tiếng người thổi ác mô ni ca. Nhưng cái phấn khích đó đã được điều động kín đáo, dàn dựng tính toán và điều khiển nhịp nhàng. Hàng trăm cánh tay, trăm cử chỉ, trăm lời nói nhân lên thành triệu những cử chỉ tự động, máy móc, đồng loạt. Hình như đông như thế, thu tóm lại vẫn chỉ là một người.

Ðó là cái biểu tượng cao và kỳ lạ, mê hoặc đã lôi cuốn cả thành phố. Đó là sức thôi miên đã biến cả thành phố tự đồng hóa mình vào chế độ. Hà Nội từ nay là hình ảnh của chế độ mới. Trong một thoáng giây, quá khứ cả trăm năm dưới sự đô hộ của người Pháp như những bọt xà bông tan biến mất. Thật ra cuộc chiến trong bốn năm đầu còn trong vòng tay của người Pháp, khi mà người Việt Minh chưa được trang bị, chưa có nổi một khẩu súng. Súng của họ, đạn của họ được cung cấp và nuôi dưỡng từ những cuộc đánh úp, công đồn. Khi mà đại tướng De Lattre chết vì ung thư vào trung tuần tháng Hai năm 1952, lúc mà trận chiến Hoà Bình còn đang tiếp diễn, số phận binh đội Pháp đã hầu như được quyết định rồi. Bảo Đại đã cay đắng viết: "Sau cái chết của Đại tướng De Lattre, tôi có cảm tưởng hòa bình chỉ là một hy vọng hão huyền" [7] . Chính phủ Pháp ở Paris, bộ tham mưu, tướng lãnh Pháp [8] tiếp tục cuộc phiêu lưu ở Việt Nam mà thực sự bị động không biết phải tiến lui làm sao. Chỉ còn một cách là kéo dài nó, đến đâu hay đến đó, tiến dần đến chỗ thảm bại.

Lời bào chữa nào cũng vô ích. Ðối với người Pháp thì họ phải thừa nhận rằng: Không có cứ điểm nào có thể cầm cự mãi được mà không bị mất, nếu nó thiếu sự yểm trợ từ bên ngoài. Về chiến thuật, họ đã tự chọn một cái lòng chảo để chôn mình vì ở cách xa cơ sở tiếp vận chính là Hà Nội 300 cây số và cách xa phi trường Uông Bí 400 cây số.

Ðối với binh đội Việt Minh của tướng Giáp thì câu sau đây có thể là thích hợp: "Lòng can đảm là sức mạnh của quân đội. Người ta muốn gắn cho nó những từ nào đi nữa thì đức tính quan trọng hàng đầu của một quân đội vẫn là lòng can đảm. Một thằng lính hèn thì chẳng khác gì người Công giáo thiếu niềm tin. Vì thế quân đội không thể là một quân đội hùng mạnh nếu thiếu lòng can đảm mà bất cứ ai cũng không thể nghi ngờ hoặc làm vấy bẩn nó được." [9] Quả đúng vậy! Quân đội Pháp có đủ các điều kiện để thắng binh đội của tướng Giáp, chỉ thiếu một điều: lòng can đảm.

© 2004 talawas



[1]Thành phần cấp chỉ huy của Pháp lúc bấy giờ là tướng Navarre, Tổng tư lệnh, tướng Cogny, tư lệnh Bắc Kỳ, tướng Jean Gilles, tư lệnh dù (ông là người đã thắng tướng Giáp vào 25 tháng 11 năm 1952, trong vùng lòng chảo xứ Thái, giữa Nghiã Lộ và Sơn La, gọi là Nà Sản. Trong trận đánh này, quân Pháp đã áp dụng kỹ thuật đào địa đạo, hầm trú ẩn chờ quân của tướng Giáp, có lúc đánh xáp lá cà với bộ đội trong 6 ngày. Cuối cùng bộ đội tướng Giáp đã phải rút lui với thiệt hại nặng về người. Trận này đã cho phép ông đeo ngôi sao cấp tướng. Người thay thế Gilles ở Nà Sản là Berteil nhiệt tình ủng hộ chiến thuật này khi Navarre bất thần ghé thăm Nà Sản. Riêng tướng Gilles thì dè dặt, vì ông thích đánh những trận với không gian trải rộng, không bị chôn chặt vào một chỗ, phải trông chờ vào tiếp vận. Các tướng Dechaux, tư lệnh không quân, tướng Bodet, phụ tá tướng Navarre, nói chung, ít ai ra mặt ủng hộ kế hoạch của Navarre.

[2]Sau này cũng chính nơi đây, mỗi ngày nhận đều đều đám tù binh được thả ra từ Việt Trì. Họ như những thây ma, da bọc xương vì thiếu ăn, bệnh tật. Họ gồm 11721 người bị thương, hoặc bị bắt làm tù binh. Chỉ có 3290 trở về. Còn lại 7801 người kia số phận ra sao, không ai hay biết. Mendes France, thủ tướng Pháp, trong Hội nghị Genève ra hạn một tháng, cuộc hội đàm phải kết thúc. Vì thế, ông tránh né đề cập đến hiện trạng tù binh còn nằm trong tay Việt Minh. Ông mặc xác số phận họ, cũng không nhắc đến họ với phía bên kia sợ gây trở ngại cho tiến trình đàm phán. Trong khi đó, một số tù binh Việt Minh được thả về, mạnh khỏe, to béo, mặc đồ của Sở Hành chính tài chính phát.. Trên xe trở về, họ cởi quần áo vứt trả lại, chỉ mặc một cái quần đùi, ném trả lại đồ ăn bánh mì. Một trong những tù binh đó, tướng Nguyễn Chuông, nguyên tiểu đoàn trưởng thuộc đại đoàn 312, trong cuộc phỏng vấn của đài BBC cho biết ông là cấp chỉ huy Việt Minh cao cấp nhất bị bắt, được một Tuyên úy Pháp và người Pháp đối xử tử tế. Khi trở về thì "gặp vất vả" từ phía quân ta. Ông bị ngưng chức, ngưng sinh hoạt đảng vài năm. Sau này ông là sư trưởng quân đội miền Bắc đánh Sư đoàn 5 Quân lực Việt Nam cộng hòa.

[3]Trích lại trong annexe 1, J.O ngày 25 tháng tư năm 1954, trong Les 170 jours de Diên Biên Phu, Erwan Bergot, Presse de la Cité, 1979.
Nghị định 18
Theo đề nghị của Thứ trưởng Bộ Chiến tranh. Bộ trưởng Bộ quốc phòng và quân lực.
Được tuyên dương của quân đội Đông Dương. Để chấp hành.
Đội quân đồn trú tại Điện Biên Phủ. Từ nhiều tuần nay, dưới quyền chỉ huy của đại tá De Castrie, quân đội Liên Hiệp Pháp đẩy lùi được nhiều cuộc tấn công mãnh liệt ngày và đêm của một quân địch đông đảo hơn về số lượng người.
Sự hi sinh dũng cảm của những người đã nằm xuống cùng với sự chiến đấu kiên cường của những chiến sĩ đã đem lại vinh quang cho danh dự quân đội chúng ta.
Hợp nhất trong tình chiến thắng, sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ đã được sự ngưỡng mộ của thế giới tự do, sự tự hào lòng biết ơn của nước Pháp. Lòng can đảm của họ mãi mãi vẫn là những tấm gương mẫu mực.
Sự tuyên dưong này gồm có huân chương chiến tranh về các cuộc hành quân hải ngoại với nhành dương liễu.
Paris ngày 7 tháng 4 năm 1954.

Ký tên : R. Pleven
Trưởng Bộ Chiến tranh: Ký tên: P. de Chevigne

[4]Chiến dịch Castor thực sự mở màn bằng cuộc không vận lớn nhất trong cuộc chiến tranh này vào ngày 20-11-1953 với khoảng 1500 lính dù được đổ xuống trong vòng chảo Điện Biên Phủ. Tướng De Castries đến Điện Biên Phủ vào ngày 07-12-1953. Vào khoảng từ tháng 01 đến tháng 02, khi các cứ điểm đã được thiết lập, ông đã đặt một số tên cho 49 cứ điểm bắt đầu bằng những tên con gái như Anne-Marie, Béatrice, Claudine, Dominique, Eliane, Françoise, Huguette, Isabelle. Béatrice là cứ điểm nằm ở phía Bắc, cứ điểm đầu tiên lãnh trận mưa pháo với khoảng 5000 trái rớt xuống từ 5 giờ 15 phút chiều ngày 13 tháng 3. Hai giờ sáng ngày 14 tháng 03, cứ điểm Béatrice bị xoá tên. Có một số người viết dùng những tên cứ điểm con gái này để ám chỉ De Castries là loại ham mê cờ bạc và trai gái. Thật ra việc thất trận đủ là một tủi nhục rồi, chả cần thêm những chuyện bôi nhọ đó.

[5]Một số nội dung này phỏng theo cuốn La guerre, L'enlissement, L'humiliation, L'aventure của Lucien Bodard, Bernard Grasset, Paris 1997.

[6]Thập giá và lưỡi gươm Trần Tam Tỉnh, NXB Trẻ, T.P Hồ Chí Minh, 1988, trang 108-109.

[7]Le Dragon d'Annam, NXB Plon, 1979, trang 293.

[8]Ðặc biệt tướng Giáp, kẻ thắng trận, vị tướng duy nhất trong bộ đội Việt Minh có những đánh giá khá cao với tư cách của một kẻ làm tướng đối với kẻ thù của mình. Ông viết:"Trước đây, ta thường hiểu sức mạnh của địch là ở vũ khí, trang bị hiện đại, chỗ yếu của địch là tinh thần, một công cụ xâm lược, một đội quân đánh thuê. Nay ta đã thấy rõ thêm cái mạnh của một quân đội nhà nghề. Chỉ huy Pháp đều được đào tạo chính quy theo chuyên ngành từ những trường quân sự có kinh nghiệm lâu đời. Quân đội Pháp có một đội ngũ chuyên môn về binh khí kỹ thuật. Binh sĩ đều được huấn luyện kỹ trước khi tung ra chiến trường. Cách đào tạo này kết hợp với những vũ khí hiện đại phát huy cao độ sức mạnh trong những trận đánh lớn." (Trích trong Ðường tới Điện Biên Phủ, đại tướng Võ Nguyên Giáp, Hữu Mai thể hiện, NXB Quân đội nhân dân, Hanoi, 2001, trang 298).

[9] Dẫn theo Erwan Bergot, Les 170 jours de Diên Biên Phu, NXB Presse de la Cité, 1979, trang 7)