© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
5.8.2004
Phạm Thị Hoài
Marie Sến
tiểu thuyết
 1   2   3   4   5   6 
 
Chương Chín
Văn chương. Những sung sướng và đau khổ của một tiểu thuyết gia

Mỗi thằng lao vào một việc. Chúng tôi phải chứng minh mình. Sến không mê đời thanh đạm của Đoài, vậy anh chàng phải giàu sụ lên. Sến không thích thằng Đủ lỗ mãng, vậy nó phải thành trí thức. Sến không bằng lòng thằng Hồng cơ hội, vậy nó phải thành super lương thiện. Sến không đồng ý ông Thân ôn hoà, vậy ông phải làm một cái gì đó cực đoan. Sến không ưa thằng Tân trí thức trùm chăn, vậy nó phải lao vào đời thực. Còn tôi phải tích cực vì Sến không thích tôi lười. Ôi tình yêu của chúng tôi cuối thể kỉ hai mươi sặc mùi truyện cũ mốc meo, mùi hiệp khách và giai nhân, như thế là chúng tôi trai nước Nam quyết tiến bộ trên cơ sở một lac hậu. Trông bề ngoài có thể cả sáu thằng đều là công dân thời đại, không lạ cái computer, biết đổi đô đê ra đồng, đã thôi chùi đít bằng giấy báo và chấp nhận phần nào luật giao thông, nhưng bên trong, tôi đảm bảo rằng trái tim thằng nào cũng tụt lại vài thế kỉ và sự chậm tiến của nó còn làm chúng tôi kiêu hãnh. Tôi không nói ngoa, tiến bộ và lạc hậu ở đất nước này quan hệ với nhau kì khôi lắm.

Tôi nghĩ đến việc viết văn. Là sự bận rộn dễ tha thứ nhất trong phạm vi lí tưởng thong thả của phương Đông. Vả lại theo thiển ý tôi, đấy là khả năng vượt rào chắc ăn cho một thằng trí thức Việt kém sự nghiệp. Ở đó hắn chẳng có gì để mất. Dẫu không hẳn có tài nhưng có tâm và liên tục sản xuất thì thể diện của hắn cũng dầy lên thuận với số trang. Tôi nghe nói chữ “tâm” đáng ba chữ “tài”. Chính là những nhà văn có tài bị rủa là thiếu tâm, chứ chưa bao giờ một nhà văn có tâm bị trách là thiếu tài. Vậy là có thể yên lòng. Nếu lấy chữ “tài” làm đầu thì bố ai dám cầm bút nữa! Ngoài ra nhà văn Việt không bắt buộc phải thành đạt. Nhà văn Việt được quyền không có bạn đọc. Và nếu không xuất chúng thì suốt đời chẳng sợ búa rìu của dư luận và chính quyền.

Tôi chưa từng thấy một nhà văn Việt có khuynh hướng làm học giả, sách của họ chật cứng những tình tiết phức tạp và đa cảm của cuộc đời, học thức không len vào nổi, học thức ở đó không đúng chỗ, có chăng thì như một lớp kem mỏng phun hoa lên bề mặt mà thôi. Giới phê bình khen xỏ ai thì bảo đấy là một tác giả thông minh và có học thức. Trong khi đó, sở thích ngầm của tuyệt đại đa số các học giả Việt là làm nhà văn và công khai làm nhà thơ. Tôi cũng thế. Tôi có dăm chục bài thơ và đã nhiều lần suýt viết sách. Tôi khoái hình dung là được tự do không ai quấy nhiễu. Một mình với giấy bút! Có chỗ nào người ta được tự do như thế không? Thuở bé tôi thích đi cầu tiêu thật lâu, cầu tiêu xóm tôi là một dãy nhiều chuồng xí, tôi luôn chọn một chuồng xí bị mất cửa, cầm một cái que dài thò ra ngoài rung rung để báo hiệu có người, thế là chẳng ai quấy rầy tôi. Nếu ngồi trong chuồng xí có cửa, nhưng cửa chẳng bao giờ đủ móc, tôi sẽ luôn phải hắng giọng hoặc nơm nớp lo ngại bị bắt quả tang đang tận hưởng tự do. Thuở bé tôi không thấy cầu tiêu xóm tôi là đáng kinh hoàng.

Lần này tôi vượt qua được ranh giới của sẽ viết viết, cũng như khi người ta quyết định ra đường đi ăn xin, rồi từ lúc quyết định đến lúc chìa được bàn tay ra và mồm xin bố thí là một đường ranh, vượt qua rồi thì không có gì trở ngại nữa. Người thúc vào lưng tôi hẳn là Sến như bạn đọc đã rõ. Người khích lệ tôi là Đoài. Từ hôm được hắn nhận xét là không có lí tưởng, tôi tự nhủ cầm bút là hoàn toàn thích hợp. Tôi vẫn yêu Nguyễn Du vì lẽ ông không tiết lộ lí tưởng, ông sợ những tiếng ồn, một người châu Á điển hình không ưa bộc lộ tình cảm, lâu lâu thì thốt lên một tiếng, xé lòng. Tôi cũng yêu Nguyễn Tuân trước bốn lăm, người này ồn ào hơn, quấy rầy độc giả nhiều hơn, một người Á vừa nhiễm tính Tây cứ thật thà lộn trái mình ra như lộn túi quần, bày tỏ, phân trần, ngang phè phè, tha thiết. Ông không hướng dẫn ai, không hướng dẫn cả chính mình. Viết như thế là sướng cho mình và sướng cho người đọc. Tôi không có ý định đau đớn vật vã với con chứ. Không có tôi thì các nhà văn Việt Nam cũng vật vã mấy ngàn năm rồi và sẽ còn vật vã nữa, như bị lịch sử hành hạ, như mình tự hành mình. Căn bệnh quốc gia này cũng miễn trừ như aids. Không, tôi không thích được đóng dấu positive, có thể dịch là đóng dấu “tích cực” tí nào.

Tôi sẽ không viết sách khoa học, đấy là việc của các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ và phó tiến sĩ, xưa nay chưa bao giờ một phó nghiên cứu viên xoàng lại cả gan làm tác giả. Mỗi năm tôi nộp cho Ban chuyên môn hai bài nghiên cứu bài thu hoạch gì đó chẳng ai buồn ngó. Hoặc chép lại bài từ những năm trước, cập nhật hoá vài khái niệm, thế là đời Viện sĩ của tôi được bình yên. Bây giờ ngồi xem lại luận án tốt nghiệp đại học tôi cứ ngạc nhiên: hai trăm trang ấy do tôi viết ra. Người ta bảo tuổi trẻ không biết sợ là có lí. Nếu muốn thành một phó tiến sĩ tôi phải viết thêm hai trăm trang nữa và lê gót qua cửa nhà các giáo sư phản biện luôn luôn. Rồi thì minimom, chẳng may rơi vào bàn của vợ thằng Hồng thì hết đường rút. Triết học biện chứng của chị ta là một đồng tiền hai mặt, một con dao hai lưỡi, không chạy đâu cho thoát. Rồi lên thực đơn cho lễ bảo vệ thử. Xin vợ một triệu và một trăm gói kẹo sô cô la. Rồi lên thực đơn cho lễ bảo vệ chính thức. Xin vợ hai triệu và hai trăm gói kẹo sô cô la. Tên mình thì dài ra ba chữ cái PTS. Cột sống của vợ bên dây chuyền của xưởng bánh kẹo thì ngắn lại.

Tạm biệt các Viện sĩ, tôi đi làm nhà văn. Tôi chưa biết sẽ viết gì nhưng nhất định không kể chuyện đời lao nô của hai chàng chủ quán Apocalypse Now. Tất cả những gì có thể thuật lại bằng miệng thì không cần viết ra nữa, những chuyện li kì bóc lột đĩ điếm buôn lậu Mafia chém giết quốc tế hai thanh niên ấy đã bật ra đằng lưỡi thì ngòi bút tôi là thừa. Vả lại đó không phải là cuộc đời tôi, tôi không thấy mình có lí do gì nhảy vào đó, trừ phi để trình làng một thiên phóng sự xã hội động trời. Nhưng đã nói, nhổ một cái lông chân mà làm làm lợi cho thiên hạ tôi cũng không, tôi không có ý định ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng. Cuộc cách mạng này là của cá nhân tôi. Cho Sến. Có thể cũng cho tôi. Ngoài ra không dính gì đến ai. Nguyễn Du có nguy cơ ngày càng xa lạ vì ông phải mướn cả sân khấu lẫn vai tuồng để cải trang xuất hiện riêng cho những cặp mắt tinh tường nhất. Khi được xưng tôi và làm tôi, Nguyễn Tuân đầy quyến rũ. Từ khi xưng chúng tôi và làm người ta thì ông mất sức thuyết phục, thành ngay văn nghệ mậu dịch, phiếu C.

Tôi viết: “Một con giun trắng đi dạo trong sân gặp một con giun đen.” rồi ngồi nửa ngày nghĩ những đối thoại thâm thuý khác nhau của hai con giun. Nếu con giun trắng hỏi vì sao con giun đen đen thì con giun đen đáp vì sao con giun trắng trắng. Tôi cũng cho hai con giun nói về con người. Nhưng truyện hai con giun thông thái theo truyền thống ngụ ngôn phương Đông còn chán hơn những bài nghiên cứu của tôi; ở đó tôi chép lại tôi, ở đây tôi chép lại cả một chương dài văn học sử của thiên hạ. Thực ra niềm vui duy nhất của tôi là được viết: “một con giun đi dạo trong sân”, tôi thưởng thức hình ảnh con giun của tôi đi dạo, đi dạo, trong sân, tôi thấy con giun này có sức thuyết phục, đáng tin, thỉnh thoảng tôi có thể nhớ đến nó ngộ nghĩnh, thấy trong lòng vui vui, cười một mình, và chỉ thế mà thôi. Tôi không có lí do gì để kéo dài câu chuyện, không cần viết gì thêm và phải đặt một dấu chấm rất tự nhiên ở sau từ “sân”. Chỉ yêu một dáng đi mà phải cưới một người vợ là cái chết của tiểu đăng khoa, chỉ sướng bảy chữ mà tuôn ra vạn chữ là cái chết đại đăng khoa. Tôi không có ý định viết để chết. Không có tôi thì rất nhiều nhà văn Việt Nam cũng đã chết đi chết lại nhiều lần trên trang giấy. Họ thổ tâm huyết. Họ hiến dâng đời mình. Chừng ấy cái chết là đủ làm đám tang tập thể linh đình cho một nền văn học tập thể.

Sau hai con giun bịa, tôi thử viết về môi trường thật quanh tôi như sau:

Các nhà khoa học xã hội trong cơn lốc.

Đấy là một cơn lốc tệ hại. Nếu nó giày xéo tan nát các trang sách khả kính của nền khoa học xã hội, ầm ầm cuốn sạch các Viện lớn Viện nhỏ, các Hội đồng khoa học và Hội đồng chuyên viên cao cấp, các giáo sư cấp I và giáo sư cấp II, các tiến sĩ và phó tiến sĩ, các thư kí khoa học và các nghiên cứu viên, các tư liệu viên và các thi cử viên, các bàn bạc viên và đấu đá viên, các tập sự viên cũng là các nhân viên bộ máy chức năng ra ngoài biển Đông, vùi sâu chôn chặt ở đó, để lại một hiện trường trống trơn thê thảm, thì ít nhất chúng ta rồi cũng có lúc được hoàn hồn mà bắt tay vào công việc mới. Quốc gia một ngày không thể thiếu khoa học xã hội. Chúng ta sẽ được thật sự bận rộn. Còn nếu nó là một cơn lốc ngầm như tính tình người phương Đông, bề ngoài tuyệt phẳng lặng nhưng âm ỉ công phá, đục ruỗng, reo rắc ung thư, thì chúng ta được an nhàn. Đằng này nó chẳng Đông chẳng Tây, chẳng nổi chẳng chìm, chẳng cho ta bận rộn, chẳng cho ta an toàn, nó là một cơn lốc tệ hại.

Quả là tệ hại. Nó dám làm phiền cả các giáo sư là những người đã mọc rễ sâu lắm vào mảnh đất khoa học. Với già nửa thế kỉ sau lưng, họ đã kinh qua bao nhiêu lần viết tự kiểm điểm và sơ yếu lí lịch, đấy là những trước tác giàu thông tin và đậm đà cảm xúc hơn bất kì công trình khoa học nào. Họ đã trôi dạt theo biết bao tan hợp của bộ máy ngiên cứu, khắc nhập khắc xuất, khắc vọt lên ngôi khắc nằm trên thớt. Đã võ nghệ cao cường bò từ bìa E, một tháng sáu lạng thịt, lên dần các vần chữ cái cao hơn. Đã sinh tử từ đợt công nhận học hàm này đến đợt phong chức kia. Đã sắm đầy mấy ngăn kéo các giấy mời họp hội nghị, tất nhiên cả hội ở nghị nước ngoài. Đã quen e hèm trước đám đông. Đã làm chủ cả trong lúc ngủ các quy luật vận động và phát triển xã hội. Họ vô cùng thông thái. Trước khi khởi đầu một công trình khoa học họ đã biết rõ các kết luận từ lâu, việc chứng minh những kết luận ấy chỉ còn là vấn đề của sức lao động. Họ lại có một sức lao động phi thường. Rất nhiều giáo sư đã bỏ ra một đời cặm cụi để chứng minh những điều mà lũ ngoại đạo chúng ta coi là hiển nhiên.

Vậy mà bây giờ cơn lốc tệ hại ấy đến phá bĩnh. Nó chẳng làm gì được đâu nhưng cũng gây nhiễu nhương ít nhiều. Vài năm gần đây số lượng giáo sư khoa học xã hội tăng gấp bội, vô khối người hôm trước ta còn tưởng là một tay nói leo, hôm sau đã thực sự là giáo sư rồi. Danh hiệu này đã phong là không bãi đi được…»

Thật là một khổ sai. Bạn đọc hẳn thấy là tôi đã thử một cú làm nhà văn có trách nhiệm, mãi suy tư về những vấn đề thời sự nóng hổi của nước nhà… Nhưng viết như thế là rởm, vì thực ra tôi không có lí tưởng trách nhiệm gì hết. Viết như thế là cùng cấp độ với hô những khẩu hiệu láo toét. Là như những hồi kí nào đó rất phi thường. Nhưng quan trọng hơn cả: viết như thế là chép ra giấy cuốn sách đã hiện rõ trong đầu. Chép lại cái mình đã biết quá rõ thì còn gì là vui thú nữa!

Xin đủ cơn lốc đã biết. Viết sướng phải như là phiêu lưu: ngả nào quen thì tránh, cứ xứ lạ mà nhằm. Viết sướng phải như là yêu Sến: không biết lúc nào phải lòng nàng, có thể mệt mỏi, có thể hoài công, có thể phụ người và người phụ lại, nhưng là yêu, là sống. Nghĩa là không biết chữ sắp tới, dòng sắp tới, chương sắp tới sẽ ra sao, nhưng một lòng chờ đợi, háo hức, một lòng tin vào chính mình và tin vào đời. Có thể thất bại, nhưng là học, là tìm. Tôi không thể viết một cuốn sách đã biết. Lí thuyết của tôi là viết như yêu Sến, và cuốn sách của tôi sẽ phải là chuyện chúng tôi yêu Sến.

Ôi Marie Sến của tôi, con công yêu đời, tôi đâu ngờ đời tôi có lúc quên cái sự nhàn, quên rằng mình không thể tỉ mỉ và kiên nhẫn, để ngồi bồng bột mải miết viết một áng văn. Bằng tiếng Việt hiện đại nhé. Cứ xoè đuôi vươn cổ hồn nhiên, con công ơi, em đẩy chúng tôi vào thế tự mình phải vượt lên mình. Tôi bầu em làm tổng bí thư, tôi bầu em làm chủ tịch nước, làm quốc hội, cho nước mình dân chủ phồn vinh và trìu mến văn chương. Tôi lặn lội qua từng chữ, từng dòng, từng trang, từng chương chưa biết. Tôi dựng nên em, nhân vật chính của sách tôi, duy nhất từ âm thanh của cái tên Marie Sến. Tôi đuổi theo một xúc cảm mơ hồ do cái tên ấy gây ra, chỉ một xúc cảm mà thôi và nó dẫn đến đâu tôi không biết, nhưng tôi hoàn toàn vững tin vào tầm vóc của nó. Đây có thể là sách trinh thám vì tôi làm con chó cảnh sát chỉ ngửi một cái tên rơi ở hiện trường để lần theo đánh hơi em. Vụ án Marie Sến là một vụ án chưa xong. Xong rồi thì còn gì vui thú nữa.

Tôi không nghĩ rằng người ta viết để tự giải phóng khỏi một cái gì. Tôi viết để buộc thêm vào mình những cái nợ chưa biết. Trước khi bắt đầu cuốn sách về yêu Sến, tình yêu của tôi nhàn tênh không vướng bận, tôi tự do, đời tôi yên bình, những cơn ghen là thứ khó chịu nhất cũng có thể được coi là lợi nhuận của tâm hồn. Giờ đây mỗi chữ, mỗi dòng, mỗi trang, mỗi chương đè lên tôi, nhưng tôi sướng cái sức nặng của chúng, tôi vui vẻ được mất tự do nội bộ như thế.

Tôi cũng không nghĩ người ta viết cho đời. Các cụ ngày xưa vốn trọng chữ khiêm, “không có kiêu, không có phóng túng nữa mới có thể thành đức. Khi đức nghiệp đã tiến, công danh tất phải thành.” Mà sao cứ mải mê làm thứ văn chương cho đạo, cho đời? Cứ theo thiển ý tôi, người viết nào xác định rằng đời cần văn mình thì khí kiêu hẳn là bốc lên cao lắm. Nhưng khí kiêu không phải là cái đáng ngại nhất. Đôi khi văn kiêu cũng đánh thức độc giả đang ngủ gật, và làm sống động cái nền văn chương quá mực thước này. Tôi không nhất thiết mê chữ khiêm.

Đáng ngại nhất là sự giả tạo. Trăm người viết thì may lắm một người có thể tránh được nó. Có thể thôi. Nó lại cũng như aids, đặc biệt ưa truyền vào những người ăn nằm không phòng ngừa gì với những lí tưởng, những phong trào, những giáo điều, ăn nằm không phòng ngừa và đẻ bừa những đứa con thiếu tháng. Vì sao sách của phần lớn những nhà văn dấn thân cho sự thật thường ngẫu nhiên có vị hài hước ngoài ý định của tác giả? Những sách ấy rất muốn thật mà hiếm khi được thật và tác giả càng hăng hái trình bày sự thật bao nhiêu thì sự thật càng trốn đi bấy nhiêu? Sự thật là một người đẹp nhạy cảm và khó tính. Nàng biết giá của mình lắm, nhà văn đâu chỉ có lòng thành là tậu nổi. Vả lại nàng được yêu từ ngàn đời nay, nàng quá từng trải trong tình yêu của người đời, nàng cho phép mình kiêu kì và quay lưng lại những người hâm mộ nàng quá đáng, nàng biết rõ lời tỏ tình của mỗi chúng ta với nàng thực ra phải hiểu như thế nào. Cho nên tôi là người cuối cùng dám tương tư nàng. Nếu nàng ngồi trong bếp với vợ tôi, và vợ tôi cũng cầm tay nàng van nàng thương lấy tôi thì nàng sự thật sẽ xử sự ra sao nhỉ? Tay mơ như tôi thậm chí có hi vọng gì phát hiện ra nàng giữa cuộc đời này mà phải lòng!

Tôi chỉ viết một cuốn sách cho tình yêu Sến. Có thể cũng cho tôi, hoặc cho Sến, nhưng trước hết là cho tình yêu Sến, theo tôi đấy là một sự khác nhau rất lớn. Tôi phải nối dài cán bút thò ra ngoài rung rung để báo hiệu rằng đây là lãnh địa riêng tư, cấm người ngoài.

Lúc nghe nói tôi viết một cuốn sách, Sến lập tức sáng mắt lên, Sến ngưỡng mộ các nhà văn mặc dù em cho Nguyễn Tuân và Vũ Bằng là hai tiệm phở. Bây giờ tôi có cảm giác là Sến kính trọng tôi. Lẽ ra toàn bộ các nhà văn thế giới nên nhập quốc tịch Việt Nam, ở đất nước này văn chương vẫn luôn là một cái gì đặc biệt. Nhân dân thì sùng kính và không có thì giờ đọc. Chính quyền thì hộ tống luôn luôn. Chúng tôi ngồi trong công viên Lê Nin, Sến tuột khỏi ghế băng, ngả nằm trên cỏ. Tôi thấy mình có phận sự của gió hồ cúi vờn mấy sợi tóc em, hôm nay tóc dài thiếu nữ. Vừa được kính trọng vừa ở tư thế nhìn xuống, tôi mới thật rõ làm một đàn ông ở bên trên một đàn bà là sướng như thế nào. Hợp tự nhiên như thế nào. Thằng gia trưởng trong tôi như vậy sẽ sống sót sang thế kỉ hăm mốt. Sến hỏi tiểu thuyết hở anh. Ừ, tiểu thuyết. Tiểu thuyết gia thì được hôn lên môi ấy, môi phồng như bánh đa, răng như mãnh thú cắn cắn nhả nhả. Tôi ngửi ra mùi thèm hăng hắc ngòn ngọt. Mắt Sến thất thần. Mắt Sến ráo riết canh chừng, không cho tôi vào quá gần, không cho tôi bỏ đi. Tôi xoay lưng lại một bà hàng nước trà rong và một cậu bé câu cá lậu. Những lần hôn trước là hôn cuống quýt, răng gặp răng nhiều hơn môi gặp môi; là hôn lịch sự có giáo dục, môi gặp môi là xong như tay bắt tay. Lần này tôi sục vào miêng Sến, Sến sục vào miệng tôi. Lưỡi tôi dài tổng cộng mười bảy phân, em chỉ nhả ra khi hai đứa sắp nghẹn. Tôi ngẩn tò te trước hai cánh áo cứ từ từ vén lên như màn sân khấu, ngực em bày chật mắt tôi, mươi phút dài tôi mụ mị ngắm nghía, tôi thằng đàn ông không có chỗ nào trong người kì vĩ như thể để mà tặng mắt em. Đành làm người có lỗi, tôi bắt đầu mơn man. Thì hai đầu vú đã lại như hai hòn đạn. Bây giờ tôi biết vì sao người ta mê những Kim Tự Tháp, vì sao người ta âu yếm nặn bóp những chiếc oản đặt lên bàn thờ. Tôi thầm thì những lời khen lịch sự. Thực ra tôi muốn nói những lời tục tĩu cho thoả, cho đã, cho đúng với sự việc, cho không giả tạo. Nhưng Sến cứ “đừng anh đừng anh đừng”, tôi nói tục làm sao được. Người ta thế nào lộ cả ra trong lúc yêu. Thằng Hồng chắc gọi vú vợ nó là hai trái tuyết lê, đầu vú là hai nhũ hoa. Ông Thân chắc dùng từ khách quan là bộ ngực. Đoài chắc sẽ xin sờ tí. Đủ hẳn là phải bóp vú và Tân thì gộp chung vào toà thiên nhiên. Ôi viết cũng như là yêu, khi nào thì tục khi nào thì thanh?

Chúng tôi ngồi trong công viên Lê Nin, tôi tiểu thuyết gia được hết mọi diễm phúc trên em, chỉ trừ không được trong em, nói theo cách lịch sự. Sến để dành cho đêm tân hôn hay sao? Không phải, tính em không thích để dành. Sến sợ tôi khinh hay sao? Không phải, bao nhiêu nhục dục nơi em, em đã buông ra, bông hoa đĩ của tôi, bao nhiêu cánh em xoè cả ra rồi và toả hương thèm hăng hắc ngòn ngọt. Tôi thì mê đi vẻ đẹp của Sến. Sến mê đi trong lạc thú của chính xác thịt mình. Tay tôi đâu thuộc về tôi, em túm được nó em dẫn nó đi vào hang em. Rồi rung lên như dây đàn bầu. Rồi nằm yên, miệng cười, mắt đi chơi trên vòm sấu. Không, Sến không sợ tôi khinh. Tôi ngồi đó vơ vẩn ngạc nhiên vì sự ích kỉ thẳng thắn của Sến: hoá ra thằng gia trưởng sống dai trong tôi với em chỉ là một thằng hầu, một thằng hầu hạnh phúc. Bao giờ thì tôi thôi ngạc nhiên về em, câu đố tên là Marie Sến? Tôi kết luận rằng Sến dành diễm phúc cuối cùng cho giây phút tôi, tiểu thuyết gia, hoàn thành tác phâm. Xin bạn đọc hãy cùng tôi kiên nhẫn! Tôi chẳng phải là người duy nhất chờ chực, có Sến trong tay mà chẳng bao giờ vào nổi Sến. Tất cả chúng tôi, cha và con, đồng nghiệp và láng giềng, trong biên chế và ngoài biên chế, nhà quê và tỉnh thành, người và ma, sẽ gặp nhau tuốt tuồn tuột trong vũng yêu tập thể quái dị tên là Marie Sến. Sẽ ngụp lặn trong đó. Sẽ tăng ga cho cỗ máy dục tình của mình gầm rú. Trong một cuộc chạy không tải. Chạy suông.


Chương Mười
Dấn thân. Những cuộc thoát xác trong một nhà tắm ở cạnh nước Mĩ

Sau cuộc chơi động tiên ở công viên Lê Nin tôi nài được địa chỉ Sến ở phố Láng Hạ. Không phải để rình mò, ở địa vị chồng Sến chắc tôi nuôi ba con béc-giê, mỗi con một góc canh cái hình tam giác tươi thắm giữa hai đùi vợ. Không phải để khám phá Sến trong chính căn nhà em ở: phòng khách tôi đã nhìn thấy trong xiêm áo tóc tai Sến thay đổi xoành xoạch; nhà bếp trong sự ăn quà luôn miệng, và đã mon men một tay vào buồng ngủ nồng nặc mùi thèm. Không, tôi không cần khám phá. Tôi cần địa chỉ Sến như cần sổ lương hưu. Lương ấy chẳng đủ mua hoa tai cho Vân và Kiều, nhưng như đã nói, tình yêu của tôi là tình yêu của một thằng cán bộ trong biên chế. Tôi cũng cầm chắc những thằng khác phải có địa chỉ Sến. Nhu cầu an toàn của đàn ông Việt về một phương diện nhất định là đứng đầu thế giới. Chúng cóc run bởi dây điện hở nhập nhoằng một đống ở nhà và xe không phanh ngoài đường, chúng điềm nhiên phá đê Yên Phụ xây biệt thự, chúng đi lính để chết như bỡn và nếu còn sống trở về thì ngồi ngay trên ổ thổ tả uống bia. Nhưng chẳng thằng nào dám yêu không địa chỉ.

Đấy là một hôm chủ nhật, tôi định vãn cảnh chùa Láng, rồi thế nào đó lại trố mắt nhìn lá cờ Mĩ trước một toà nhà kính và há mồm đánh vần dòng chữ sơn đỏ trên cửa sổ tầng dưới của ngôi nhà hai tầng kế bên: “Marie Sến - Tắm nóng lạnh”. Sướng đời chưa! Cái tên tôi đặt cho riêng nàng, tên Tây, có mùi tháp Ép Phanh nghiêm chỉnh, bây giờ tênh hênh ở chốn này, mẹ kiếp - tắm nóng lạnh! Tên Tây và Tây bồi trong thành phố phải nhất quán đi kèm với shop, hotel, restaurant, bank, company, gallery, tự nhiên đùng đùng một cái tên nhà tắm côsanhsinoa nghe dơ quá!

Tôi xem lại địa chỉ cho chắc chắn rồi ngồi nửa tiếng ở quán nước nghe ngóng. Tầng trên thấp thoáng bóng người, tầng dưới chỉ có một bà già chạy ra chạy vào tiếp khách. Không có chó, không có tiếng trẻ, không giống một gia đình. Một bụi nhài trên ban công. Một gốc ngọc lan. Một điện thờ trên sân thượng.

Tôi quyết định tiến vào. Tôi quyết định từ giờ phút này làm thằng đàn ông sạch nhất Hà Nội. Thế là Phật tại tâm, đón thu tôi tắm hai suất nước nóng trong hai chiếc siêu điện Liên Xô pha vào hai chiếc sô sáu lít. Ở buồng bên một đôi nam nữ vừa yêu nhau rất ồn đang dội ào ào cho tang chứng của tình yêu trôi hết ra cống lộ thiên đường Láng Hạ. Tôi nổi cơn thèm. Chú bé của tôi đâm thẳng vào trái tim bị trúng tên rỏ máu đỏ trên tường men trắng. Nhưng trái tim chết tiệt chẳng nhún vào tường, nó chát chúa đẩy tôi ngã ngồi theo bức tường sau lưng. Ngồi lịm ở đấy tôi hình dung tốt, mỗi ngày nơi đây bao nhiêu tình yêu, bao nhiêu tội lỗi, bao nhiêu vi trùng giang mai và bao nhiêu ý thức vệ sinh trộn đều vào nhau, sủi bọt, trôi tràn trề ra cống. Năm phút sau, dòng sinh lực ngầu ngầu ấy sẽ diễu sát qua chiếc cổng có hàng rào điện tử của đại sứ quán mới toanh của nước Mĩ, và nửa tiếng nữa nó sẽ ra nhập mạng mạch ngầm. Chậm nhất là đêm nay, vào giờ bơm nước, tôi sẽ gí mũi vào bể chứa ở nhà để được lọc mùi Marie Sến giữa mùi cơ-lo hoả mù: vòng luân hồi kì diêụ giữa dương gian này là của một bọn vô thần mê mải sống.

Tôi ngồi thật lâu trên nền đá hoa trong đẫm nước mù mịt hơi và ngai ngái mùi Camay. Tôi ngồi thương Sến và nghi vấn: chồng em đâu, con em đâu, tương lai em đâu mà dựng một ngôi lầu cho thiên hạ tắm thuê mỗi suất lãi năm trăm đồng? Hay kinh doanh với em chỉ là một cái cớ? Ở ngay cạnh nước Mĩ, mỗi phân vuông mặt đường là một thỏi kim cương, em có thể thành bà hoàng, sáng chẳng kém nữ thần Tự Do, sao lại ngự trên hai cái buồng nửa nhà tắm nửa nhà thổ xoàng xĩnh này? Hay ngoài bổn phận làm nữ điệp viên quốc tế cho chúng tôi sáu cường quốc rởm, em thật sự là một chòi canh chừng nước Mĩ, một tiền đồn của văn minh châu Á?

Bao nhiêu câu hỏi. Để bạn đọc khỏi mất công chờ đợi, tôi xin thưa trước là những nghi vấn của tôi cho đến dòng cuối của cuốn tiểu thuyết này cũng không được soi sáng. Trước sau Marie Sến vẫn là một câu đố, giải được đoạn này thì đoạn kia càng bí hiểm hơn. Xin bạn đọc hãy cùng tôi bỏ đi cái tính ham cắt nghĩa mọi vấn đề, hãy cùng tôi ngồi hóng guốc Sến trên trên lầu, đôi guốc cuối thế kỉ, đôi guốc đẹp nhất phố Cầu Gỗ, vâng trong đôi guốc tôi chú ý nhất cái chật chật của đôi quai, và có ngồi tù hay dưới âm phủ tôi vẫn nghe ra cái âm thanh ròn rã tung hoành mang số chín của gót em. Đây rồi: trên đầu tôi Sến đi thành vòng tròn càng ngày càng hẹp. Sến nhảy. Một bài van sờ. Trời ơi tôi chóng mặt, tôi văng đầu vào cả bốn bức tường ngay dưới chân em. Bây giờ thì cả hai chiếc guốc chụm lại giữa đỉnh đầu tôi. Đế nhựa đóng đinh gõ vào huyệt bách hội. Rồi lần lượt từng chiếc rơi nghiêng xuống sàn. Tiếng rơi rất mỏng. Tôi bật dậy. Nghĩa là Sến ngã. Có thể là bất tỉnh. Tôi chưa bao giờ được bồng một người đàn bà bất tỉnh, không biết nặng hay nhẹ hơn lúc thường? Tôi vơ khăn bông, đạp cửa, băng qua bà già đã phục vụ hai siêu nước nóng bây giờ ngồi ở chân cầu thang nhặt rau. Tôi vọt lên lầu.

Mươi phút dài tôi cứ tồng ngồng chắn ngang khung cửa. Sến nằm trên gối cao, áo ki-mô-nô Hàng Gai mỗi tà một ngả, và ở giữa là ấm Tân quay lưng ra ngoài. Với thằng nhãi này tôi chưa từng tồn tại đã đành, bây giờ cả giàn thượng lưu trí thức Hà Nội có đứng đây cũng không là một ảnh hưởng nào hết. Như một đứa trẻ như một con thú nó vùi vào Sến, như ăn thua trên chiếu bạc, như tử thủ giữ cờ trên chốt. Hoàn toàn chân thành và hiện thực. Không bịa không vay mượn không nhàm chút nào. Không phải thằng Tân của mọi ngày, thằng Tân khinh thân và khinh mọi lạc thú ăn ngủ đụ ị ở đời.

Mắt Sến gặp mắt tôi, và từ lúc đó đến khi tôi chạy trốn, đôi mắt em mở lớn chiếu tướng tôi, không bỏ qua một cử động nào của tôi và của chú bé lại trỗi dậy kinh hoàng dưới chiếc khăn bông quấn hờ. Nếu có thể, tôi đã suỵt nó như suỵt chó. Đừng bứt xích xông ra như thế. Nhưng suỵt làm sao được. Sến đang vươn dài chiếc cần cổ phu nhân, chân chùa Một Cột, giúp thằng Tân trượt dần xuống ngực để em nhìn tôi được rõ hơn. Thách thức hơn. Em lại chầm chậm đẩy đầu nó tóc dài bê bết xuống mãi, đồng thời hai đùi toả ra một góc một trăm độ vững chãi. Rồi để nó ở đấy chết đuối, hai tay em bắt đầu đàng hoàng thủ dâm hai vú. Hai hòn đạn nâu nâu hồng hồng sắp vọt khỏi nòng chĩa thẳng vào tôi. Mắt Sến vẫn không rời tôi. Như mời. Như cấm. Như thế mươi giây, kịp cho tôi nhận xét rằng đàn bà tự làm sướng mình khéo hơn và tha thiết hơn ta làm họ sướng. Rồi thằng Tân bỗng giật đùng đùng như một con gà vừa bị cắt tiết và bật khóc thút thít. Mũi khụt khịt, quệt như trẻ nhóc vào ki-mô-nô.

Chính là tôi nhắm mắt giật lùi bỏ chạy. Tôi xin thêm một suất tắm lạnh. Trên lầu guốc Sến không khua. Buồng bên cạnh cũng thôi dội nước. Sau cơn big bang của thằng Tân, chiều chủ nhật lẽ ra hiến Phật của tôi tuyệt vời tĩnh lặng.

Một trăm ngày sau đó tôi không tắm. Trọn mùa thu thiêng liêng của dân tộc không tắm. Một mùa thu dài với hai tháng Tám, trời xanh nắng vàng ngất ngây. Chiều nào vào đúng giờ ấy tôi cũng lượn qua phố Láng Hạ, đạp xe chậm qua đại sứ quán Mĩ. Có lẽ hình ảnh tôi bẩn như hủi, với bụi Hà Nội trộn cùng mồ hôi, khói thuốc lào, và những tế bào chết trên da một lớp nhiều mi li mét đã được CIA ghi nhớ, có lẽ A14 của Bộ Nội Vụ cũng đã quen mùi chua khắm của áo quần tôi một trăm ngày không thay. Mỗi ngày bẩn hơn bốc mùi hơn là mỗi thoả mãn toàn diện: tôi thách thức tôi nhé, tôi thách thức tất cả các cậu ấm và em, thách thức môi trường trời thu trong leo lẻo và heo may khe khẽ, thách thức cả chính trị ở tầm quốc tế. Tôi đã tìm ra cách nổi loạn thích hợp nhất cho những thằng trai Việt gặp bước đường cùng.

Đủ một trăm ngày, tôi hùng dũng vèo qua nước Mĩ, xông thẳng vào nhà tắm côsanhsinoa. Sự khốn cùng của tôi là một quả trứng trăm năm, bùn và trấu và muối và nấm mốc meo đóng cứng bên ngoài còn bên trong đen sì và thoảng mùi nước giải. Tôi xin một trăm suất nước nóng đựng trong một trăm chiếc siêu điện Liên Xô. Trong này phải hoá vạc dầu cho tôi lột da tôi, cống nổi ngoài kia phải sôi sùng sục. Tôi sẽ đỏ hỏn đi lên lầu. Như một em bé tinh khôi. Một ngàn lần trinh trắng hơn thằng Tân (rõ ràng Sến chuộng trai tân nhé!). Tôi sẽ thoát xác. Không phải tôi của mọi ngày (rõ ràng Sến ưa sự thay đổi!). Ô kê, Sến sẽ được thấy, tuột vỏ ra quả trứng của tôi quý giá như thế nào!

Lần này không phải thằng Tân, mà bố nó, ông Thân, gối đầu trong lòng Sến. Ông hàng xóm khả kính của tôi nằm như một cái xác, nước mắt chảy buồn thảm xuống khu rừng mà tôi đoán chắc là giờ nào trong ngày cũng ẩm ướt của Sến. Chỉ nước mắt ông là còn sống còn chảy, ông dường như đã ra hẳn khỏi cuộc đời, lại một vụ thoát xác, tôi đoán thế, nếu không sao lại nằm như tĩnh vật thế kia bên cái toà thiên nhiên sẵn đúc dầy dầy tên là Marie Sến? Sến chẳng buồn nhìn tôi. Sự nghiệp của Sến lúc này là ủ hai bàn tay vô hồn của ông Thân vào hai bầu ngực em vừa đẹp vừa hiền thiết tha. Tôi lạnh cóng từ lúc nào. Chú bé của tôi tái mét và run cầm cập. Mùa đông về là mùa cưới, trai gái ủ nhau vào giường nệm mới, đâu phải mùa cho tôi làm người thứ ba bên rìa, ngắm ai cố sưởi cuộc đời ai đang nguội. Bức tĩnh vật mấp mé cõi âm hôm nay là người cha, và pha con heo giãy giụa trăm ngày trước là thằng con dường như không đơn thuần chỉ có một liên hệ máu mủ. Như thể sau cơn đại bùng nổ của thằng con thì vạn vật mở ra để trăm ngày sau khép vào với người cha. Như thể lễ phóng tinh lần đầu tiên trong đời thằng con đánh dấu sự bất lực của người cha. Như thể trong căn lầu này, thèm sống và thèm chết mỗi thứ treo trên một đầu vú Sến cân bằng. Sự khốn cùng ấp ủ trăm ngày trăm năm của tôi, sự ghen tuông chật chội bệnh hoạn bản xứ dơ dáy của tôi, ở khoảng cách chưa đầy gang tấc giữa hai đầu vú ấy mới trơ trẽn làm sao. Mới ngu làm sao.

Ở nhà, vợ tôi và bà Mùi đang lau nước mắt cho nhau. Nước mắt họ cũng buồn thảm như nước mắt trên lầu Sến và không có bộ ngực đàn ông đẹp đẽ nào ủ họ vào. Tôi thốt tỉnh từ cơn khổ nhục hôi hám trăm ngày của mình. Tôi hỏi, thằng Tân làm sao hả? Bây giờ tôi chợt nhận ra, từ hôm ấy nó biến khỏi khu cầu thang này và để trống vị trí tháp tùng phái giáo sư ở Viện những sáng thứ hai và sáng thứ năm. Thế là nó học được ở phái giáo sư sự ra đi lặng lẽ.

Hai người đàn bà oà lên một lần nữa, vái một lần nữa vào hư không, gục một lần nữa vào nhau chứ không vào tôi. Tôi chưa bao giờ là một chỗ dựa.

Thằng Tân sang Nga, qua Tiệp, rồi vượt rừng nhập trại bên Đức. Nó chưa kịp bán một điếu thuốc trốn thuế nào. Nó là trai Hà Nội đi tìm đồng hương giữa Berlin để trước hết uống Johnnie Walker và lái xe hơi không có bằng. Thế thôi. Vụ dấn thân khiêm tốn này nhìn từ cái xó Hà Nội cũng gây tốt một ấn tượng. Cũng mang tầm quốc tế. Thế thôi. Một đời trai. Lãnh đủ một băng đạn oan giữa trời Tây, đạn Liên Xô cũ; chết trong một căn nhà cao tầng, nhà Đông Đức cũ; cho những điếu thuốc Golden American đến từ Ba Lan và do người Nghệ Tĩnh kiểm soát. Chết dưới một cái tên giả. Tên của thằng Đủ. Chết phi pháp bởi người Việt, theo kiểu Việt pha màu Chicago những năm hai mươi và màu Russia những năm chín mươi. Chết ở bên đó, nước mắt chảy ở bên này. Nếu ở nhà rơi xuống gầm một chiếc xe, ít ra thằng Tân cũng được một đám tang với toàn vòng hoa trắng, dù vốn liếng trai tân đã trao vào Sến; ít ra cũng được nghe từ cõi bên này bài điếu văn của Viện vô cùng thương tiếc một nhà khoa học trẻ đầy triển vọng. Và chắc chắn sẽ được A25 của Bộ Nội Vụ hộ tống: những trí thức cấp tiến ôn hoà, những trí thức cấp tiến cực đoan, những giáo sư ăn mặc sặc sỡ, những quý tộc Nga thế kỉ mười chín nói tiếng Pháp, tất cả giàn thượng lưu trí thức Hà Nội sẽ hiện diện. Là một sự kiện có hồ sơ.

Đằng này chỉ có nước mắt của mấy người đàn bà vô danh khóc sai địa chỉ, vì cái xác tên là Đủ không chịu ướp vào muối của tình thương dành cho thằng trai tên là Tân.

Tôi lại đi Apocalypse Now uống rượu với hai ông trẻ. Uống đi anh uống đi, bọn em kể chuyện đời lao nô anh nghe, đáng mấy cái tiểu thuyết. Uống đi anh rượu ngon, nhà văn các anh rách bỏ mẹ. Hai đứa tính chuyện bán quán quay lại Đức. Nói gì thì nói, bên ấy đời văn minh sạch sẽ mỗi tuần gội đầu hai lần là đủ, ở Hà Nội mỗi ngày gội hai lần vẫn ra nước đen sì. Nói gì thì nói, bên ấy làm một ngày bằng bên này làm cả tháng, đứng đường hai năm là mua được Hồ Tây. Bọn em lên Hồ Tây biệt thự tám phòng, anh và chị gì dịch vụ tình cảm vô tư đi, có bọn em hậu thuẫn. Mẹ nó chứ, ngày xưa Đông Đức chơi được, bây giờ Tây Đức mà rét à!

Tôi chúc hai đứa trai Hà Nội sớm giành lại Berlin từ tay người Quảng Bình, Nghệ Tĩnh. Để báo thù cho thằng Tân. Tôi bỗng nhiên thành một thằng nặng máu đồng hương, nặng tình hàng xóm. Rồi buổi tối, tôi lại về trút vào vợ tôi chiếc vỏ Coca Cola bẹp rúm tội nghiệp bao nhiêu là tình thương. Một chiếc hoa tai vàng của cô ấy đã ứng ra hùn cho thằng Tân đi Tây. Chiếc còn lại góp vào mua vé cho hồn nó khuân tro nó về Hà Nội. Nghe nói lượt về khó khăn đắt đỏ chẳng kém lượt đi: làm sao từ cõi bên kia nó khẳng định được với cả chính phủ Đức và chính phủ Việt ở cõi bên này rằng nó quả thật là người Hà Nội? Là thằng Đủ. Alias thằng Tân. Để được trở về ngự trên bàn thờ của bà Mùi, cạnh Phật, Quan Âm, Mẫu, Cụ Hồ, và một bà cô chết trẻ năm Ất Dậu. Sự trao hồn đổi xác giữa hai cậu ấm, tình bạn hay cũng có thể là hận thù cốt nhục của chúng rồi sẽ gây rắc rối lớn cho những quan hệ đã chồng chéo lắm của chúng tôi. Và những bà vợ, những bà vợ thương đứt ruột của chúng tôi đang nỗ lực để cái hiện thực rối mù này làm chính họ phát điên hơn. Tình láng giềng ở chúng tôi đàn ông quy về việc cùng sở hữu một cái mu mềm. Ở đàn bà, nghĩa láng giềng quy về vàng, vàng, theo nghĩa quý giá nhất. Nữ triết gia Chuyên giấu chồng trao nhẫn. Vợ Đoài ở quê thì bán non lợn giống được nửa chỉ. Bao nhiêu nỗ lực đàn bà cho một lọ tro có mùi Marie Sến và mùi Johnnie Walker. Hai cái khoái lạc lần đầu tiên trong đời đủ để thằng Tân trút xác trí thức trùm chăn thành một linh hồn từng trải. Hồn nó đàn ông hơn, nhiều sinh khí hơn, có sức thuyết phục hơn, chân thực hơn nó lúc sinh thời và ngoài tiếng Pháp còn biết thêm dăm câu tiếng Đức. Nếu lấy tình yêu làm mục đích tối cao thì cuộc dấn thân của gã trai này kể như thành công. Rồi bạn đọc sẽ thấy, ở cõi bên kia thằng Tân là một người tình điêu luyện, quyến rũ, với đủ các ngón yêu, tuyệt vời hơn hẳn thằng Tân ở cõi bên này như thế nào. Bản thân tôi mỗi lần đến Viện, có ai rủ ra một trong tám quán nước, bỗng nhiên cũng lấy giọng thằng Tân mà hỏi, Phục Hi hay Văn Vương? Đã là dân Việt thì nể người chết hơn người sống.

Nhưng trước khi linh hồn ấm Tân làm xong thủ tục tự nguyện hồi hương theo hiệp định vừa kí giữa hai chính phủ, và tái định cư trong cuộc tình tay bảy thậm vô lí này, tôi phải thuật lại những sự kiện khác, liên quan đến cậu ấm kia, ấm Đủ.

Nguồn: Thanh Văn xuất bản, California 1996, bản đăng trên talawas vá»›i sá»± đồng ý của tác giả