© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
6.8.2004
Phạm Thị Hoài
Marie Sến
tiểu thuyết
 1   2   3   4   5   6 
 
Chương Mười Một

Học thức. Những phiêu lưu của Hậu Thánh Gióng

Thằng Tân bỏ tri thức để đi vào đời thực thì thằng Đủ bỏ đời thực mò vào tri thức. Những cậu ấm của khu cầu thang này đổi chỗ cho nhau. Sự luẩn quẩn tuyệt vọng của chúng làm ta phụ huynh đau lòng. Sự hăng hái mù quáng của chúng làm ta lo âu. Sáu thằng chúng tôi cùng lên đường tiến bộ vì Sến, nhưng những đứa con đi trước, những ông bố đi sau: tuổi già chạy theo tuổi trẻ ngay cả ở một xứ Nho giáo đóng cặn ngàn năm như nước Việt.

Thằng Đủ chiếm chỗ thừa ra của thằng Tân trong căn hộ đùng đục sáng xế bên phải tôi, bù vào một tấm hộ chiếu chỉ chưa dán ảnh: đây là cuộc đổi chác của hồn Trương Ba, da hàng thịt. Vì sao thằng Đủ hay thằng ích xì i cờ rét nào đó có hộ chiếu còn chúng ta không thể có, câu hỏi này chẳng cứ tôi mà toàn dân nước Việt đều không trả lời được. Vì sao nó đổi chỗ cho thằng Tân? Đấy là cơn hứng ngẫu nhiên, một cái mốt, một thói quen bình thường của tuổi trẻ mà chúng ta đã đánh mất; là tình bạn đặc biệt giữa hai cậu ấm, hay là âm mưu nham hiểm của thằng Đủ nhằm gửi tình địch vào chỗ chết? (Có lẽ ít nhất một thằng nham hiểm trong số sáu thằng chúng tôi phải ra tay như thế nào đó cho các tình tiết trở nên căng thẳng và bạn đọc có thể thấy câu chuyện tình tay bảy này có bóng dáng của hiện thực chăng? Cho đến lúc này, ngoài mấy cơn ghen không gây thiệt hại gì, chưa thằng nào trong chúng tôi xử sự đáng mặt một thằng đàn ông, một thằng tình địch! Như thể chúng tôi sống ở đâu chứ không trong đời thực!) Cả bạn đọc và tôi đều chỉ có thể phỏng đoán. Chúng ta có quyền phỏng đoán, nhưng lời đáp chính xác thì một nửa đã vùi trong lọ tro vốn là thằng Tân, và nửa kia cũng sắp theo thằng Đủ ra đi không hẹn ngày trở lại.

Trong vòng một trăm ngày, hai ngàn bốn trăm tiếng đồng hồ, ông bố uyên bác của thằng Tân có trách nhiệm nhồi học thức vào khối thịnh nộ lừng lững nhất nước Nam. Hậu Thánh Gióng hai mươi mốt tuổi còn nằm bất động trong cõi u mê, bỗng vươn vai đánh chén một trăm ngày toàn món tinh thần thành một superman siêu trí tuệ. Đó là một trăm ngày tôi hôi hám đi tuần qua nước Mĩ với nỗi khốn cùng của nổi loạn bét be. Một trăm ngày thằng Tân hoá kiếp. Một trăm ngày ông Thân tháo ruột như xì săm xe, bao nhiêu chữ nghĩa vô dụng của một đời già nửa thế kỉ phong trần cấp tốc vọt từ bụng ông sang cái bụng khổng lồ của ấm Đủ. Chữ nghĩa cũng như của cải, tích vào thì khó, tiêu thì đánh vèo như ra khỏi một giấc mơ. Bao nhiêu sáng tạo, bao nhiêu loé sáng của thiên tài, lẽ ra đã chắp cánh, giúp ông tiết kiệm những bậc thang khó nhọc dẫn lên đỉnh núi của tri thức, thì bây giờ, khi ông xuống núi, mới bàng hoàng trỗi dậy. Ông đã rất siêng năng xây cất một ngôi đền và đinh ninh đấy là ý nghĩa duy nhất của đời mình, nhưng tài năng thực sự của ông nằm ở việc đánh đổ đền. Nếu không có khoá học đặc cách này, ông sẽ là tù nhân chung thân của nửa bộ óc bên trái vĩ đại, phân tích, giảng giải, đi đi lại lại trong chi tiết và đặt tên mới vô nghĩa cho những nội dung cũ mèm. Bây giờ thì nửa bộ óc bên phải của ông hoạt động, sáng tạo, tổng hợp, bao quát. Ông độc đáo, tiên phong, hóm hỉnh, mạnh mẽ và có thẩm quyền trong một trăm ngày này hơn cả một đời già nửa thế kỉ cộng lại. Dường như suốt một đời lao lực vì con chữ, gom góp gia tài, gom góp cho cọp nó xơi, ông chỉ biết trách nhiệm mà chưa từng có niềm vui. Bây giờ, tung hê chữ nghĩa đi, trao gia tài không cho đứa con duy nhất mà cho thằng con trời đánh của hàng xóm, sự khoái trá ngấm ngầm gần như là hoan lạc mới bùng lên. Cái tinh thần thận trọng nghiêm trang và biện chứng ngời ngời của trường phái cấp tiến ôn hoà có lẽ đã đến ngưỡng tẩu hoả nhập ma, bây giờ nó nhảy điệu rock phá phách sôi nổi của thời đại. Sau đó nó sẽ dịu dàng im lặng. Đó sẽ là một im lặng trọn vẹn, thoả mãn, không phải sự im lặng căng thẳng nhức nhối của tri thức bị đòn. Nhưng xin bạn chớ hình dung rằng ông hàng xóm đáng kính của tôi đã chờ đợi từ lâu một dịp xuất thần kiểu này. Như đã nói, con người bị chính thống hắt hủi là ông suốt đời khát khao chính thống. Nếu có thày tử vi báo trước rằng đỉnh cao của cuộc đời học giả của ông không diễn ra trên giảng đường của Học viện Nguyễn Ái Quốc hay Viện Hàn Lâm quốc gia với cử toạ là toàn bộ Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản và đoàn giáo sư các cấp, mà trong chính căn hộ dài ngoẵng đùng đục sáng của ông, với thằng Đủ là thính giả duy nhất, nằm chình ình trên chiếc chiếu hôi trải nơi sàn và nốc bia Vạn Lực, nếu có sự dự báo chắc chắn ấy, tôi chắc ông Thân đã tự tử trong trại cải tạo ba mươi năm trước như vài đồng nghiệp của ông. Đạo xuất xử của kẻ Nho luôn là con đường đau đớn vòng vèo nhằm tiến lại gần thiên tử, tiến lại gần quyền lực, bất kể ấy là quyền lực chân hay hư, minh hay mê, miễn là quyền lực chính thống. Tôi xin mạo muội nhắc bạn đọc nhớ đến một số trí thức còn nổi tiếng hơn ông Thân ở bi kịch bị đày đoạ của họ, chỉ một buổi gặp không chính thức với lãnh đạo lớn của quốc gia là toàn bộ những năm tháng đau thương của họ kể như được phục hồi. Trong mắt kẻ thường dân chúng ta điều đó hoàn toàn lố bịch (phải tay ta thì ân oán không trừu tượng như vậy được!), nhưng có lẽ những tham vọng và ảo tưởng của chúng ta nhìn từ phía họ lại hết sức tầm thường, và ở vị trí họ ta cũng không làm gì khác hơn là tham vọng và ảo tưởng theo kiểu họ. Như tất cả các nghệ sĩ phản kháng của đất nước này, niềm đam mê trở thành lương tri của dân tộc ở ông Thân đã lấn át dần khát vọng chuyên môn. Dường như ở tất cả các quốc gia chậm tiến, sứ mệnh cứu rỗi của lương tri như một chiếc tàu bay cổ lỗ kêu rầm trời đặc biệt ưa đậu xuống đường băng không lấy gì làm dài rộng lắm của giới văn nghệ sĩ và trí thức. Có lẽ chẳng có đường băng nào khác. Một thằng trai Việt trung bình về mọi phương diện như tôi đôi lúc có thể cần dùng đến một cái lương tri của người khác, nhưng mấy chục ngàn cái lương tri, và cái nào cũng hơn hẳn những cái còn lại thì quá nặng nề.

Có lần tôi bảo ông Thân, nước Việt mình cuối thế kỉ hai mươi lặp lại đầu thế kỉ: cũng là một đổ nát bên trong cho bên ngoài tràn vào thống trị, cũng là những lương tri của dân tộc ẩn dật trong nhà và bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước. Mãi mãi tìm đường cứu nước. Đầu thế kỉ có cụ Phan chính thức bàn giao sứ mệnh cho ông Nguyễn Ái Quốc. Ông Nguyễn thì ăn cơm tối với ông Phạm Quỳnh ở Paris để chê cái ảo tưởng văn hoá giáo dục truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn của ông này. Xin mở ngoặc là trong không khí đổi mới, một giáo sư ở Viện, chính là ông chuyên gia cứu nguy mà bạn đọc làm quen ở chương 7, đã pha rất khéo Phạm Quỳnh, giám mục Puginier (với nhận định nổi tiếng: “Có hai điều đặc biệt làm công cụ tối hảo để thay đổi cả một dân tộc: đó là tôn giáo và ngôn ngữ”), nước mắm Phú Quốc và phòng nạo thai của bệnh viện C thành món Long Drink Extra National: ngôn ngữ, đức tin, ăn và yêu là bốn chỉ tiêu cho một dân tộc tính. Trở về với ông Nguyễn và ông Phạm ở Paris, cả hai ông vào giờ phút ấy không quan tâm đến ông nhà văn Nhất Linh đang chuẩn bị thành nhà chính trị Nguyễn Tường Tam ở Hà Nội. Ông Nguyễn Tường Tam đến lượt mình chẳng quan hệ gì đến ông Tạ Thu Thâu ở Sài Gòn. Mỗi người một chính kiến và không có Marie Sến nào gom họ lại. Ông Thân bảo, khoan đã nào, Sến cái gì, bỏ cô ấy ra ngoài, cậu lẫn lộn hết nhân vật ngày tháng địa điểm thì không kết luận khoa học được. Ông Thân bao giờ cũng tỉ mỉ, chính xác, thận trọng, sở trường của ông là nửa bộ óc bên trái.

Trở về chuyện ông đặc trách đào tạo thằng Đủ, tôi xin hình dung thay cho bạn đọc, rằng lúc đầu đấy hoàn toàn là một cử chỉ phẫn uất của sự bất đắc chí bị đẩy đến bước đường cùng. Ông chỉ có một sự nghiệp học giả để trao lại cho thằng con, hi vọng của ông, vô vọng của ông. Nhưng nó từ chối. Nó đã nếm đủ khai vị và thuộc lòng thực đơn tinh thần của kẻ sĩ Hà Thành. Rồi nó rơi vào lòng Sến. Sến có đòi hỏi gì đâu. Không như vợ ta ở nhà cằn nhằn anh phải thế này thế nọ, Sến ô kê lũ chúng ta trong cuộc đời hiện tại kém giá của chúng ta. Sến cho chúng ta mỗi đứa một cơ hội ngang bằng. Sến treo phần thưởng. Thế là chúng ta nôn nóng lao ra khỏi chính mình như động rồ. Cái thằng Tân cần là một tấm hộ chiếu. Bà Mùi với tất cả lòng thành và những nén nhang thắp mãi vào hư không chẳng xin được thị thực ở thánh thần nên ông Thân vô thần bán trắng mình cho con.

Về phía ấm Đủ, thằng quái vật này tuy là tất cả ngoài cử toạ lí tưởng của ông Thân, nhưng nó không đơn giản là một cái tàu há mồm ngốn kiến thức. Lũ chúng ta có học có giáo dục chính quy, chúng ta ngoan mở sẵn nắp sọ cho các trường đại học chầm chậm rót từng giọt xám mấy năm ròng và khi đóng vào thì bên trong vơi như bình gas đong điêu. Chúng ta chỉ mở miệng để chào thày trước mặt và thỉnh thoảng chửi thày sau lưng, còn trong xê mi ne thì im thin thít. Chúng ta cần mẫn chép từ sách sang vở và từ quyển vở này sang quyển vở kia. Đứa khá nhất trong chúng ta là bản cóp biết đi của một từ điển phổ thông xuất bản vào những năm sáu mươi. Bọn còn lại may ra là những mục lục sách dẫn. Cho nên tôi thấy nể hậu sinh: khoá bổ túc của thằng Đủ diễn ra dưới dạng một cuộc vấn đáp hai ngàn bốn trăm tiếng đồng hồ có ghi âm. Khổng phu tử với thất thập nhị hiền xưa nếu tái sinh chắc cũng làm như vậy. Ông Thân cứ nói. Chưa bao giờ ông được nói sướng mồm như thế. Và thằng Đủ hỏi. Hỏi đập vào giữa. Những câu hỏi bất lịch sự của một thằng hoàn toàn không biết gì nhưng rất sáng trí và liều lĩnh xem ra kích thích bậc thông thái hơn hẳn những trao đổi phải đạo với bạn hàn lâm.

Buổi mở đầu chắc ông Thân nhìn vào cái mặt đen sì của học trò, không biết nên kể cho cậu bé khổng lồ này những cổ tích nào để cậu ta lăn ra ngủ. Ông biết dùng xuất sắc những lời uyên bác pha nhiều tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Hán Việt. Trung bình mười phút ông có thể sử dụng một vốn hai ngàn từ; một từ điển cỡ sáu chục ngàn từ với ông là năm tiếng đồng hồ; vậy hai ngàn bốn trăm tiếng đồng hồ đủ để ông chia cho cả huyện Tứ Kì quê thằng Đủ mỗi người cả một thiên, trong khi họ dùng đi dùng lại cả đời không quá hai trăm chữ.

Nhưng thằng Đủ không lúng túng như ông. Nó bảo, ông thày ạ, tôi cóc cần ông truyền đạt kiến thức, tôi cóc cần ông giải thích, tôi cóc cần ông gợi ý, tôi cần ông làm cho tôi mê món học thức của ông. Một cử toạ đọc không thạo, viết không thông, với yêu cầu cao nhất trong mọi yêu cầu: có lẽ sự thách thức độc đáo này đã đẩy ông Thân từ bất đắc chí dần dần qua mỗi ngày vô thức thành thăng hoa. Ông vượt cạn trăm ngày, đau đớn, hoan lạc, thoả mãn, khước từ, đầy dồn nén, mặc cảm, và mâu thuẫn như bản thân kẻ sĩ nước Việt.

Rồi những gì ông Thân đánh mất, những gì thằng Đủ tạm sở hữu, sẽ lại về nằm gọn trên gác Sến. Chúng tôi đã chọn em làm thủ kho, làm nhà chứa. Rồi tôi sẽ cùng bạn đọc lên gác Sến kiểm kê tất cả, những đau thương những khoái lạc những điên rồ và tốc độ chạy không tải, chạy suông, của mỗi trào lưu tiến bộ, sẽ nghe đi nghe lại một ngàn hai trăm cuộn băng, nhưng đấy là chuyện sau này. Bây giờ, khi thằng Đủ ra đi với chiếc va li khổng lồ đựng một Viện hàn lâm là lúc hồn thằng Tân đòi trở về, và cái xác rỗng của ông Thân bỏ nhà đi vắt trên đùi Sến. Sến hoàn toàn vô can. Ai bắn ai, cướp chữ ai, ai một đời đi tong trong trăm ngày, là chuyện Việt Nam cuối thế kỉ, còn tình yêu của Sến là muôn thuở.

Cho nên từ căn lầu an ủi, Sến hân hoan dõi theo thằng Đủ cao hai mét mốt xách Viện hàn lâm bỏ túi làm thần đồng đi quẩn trong phố. Bây giờ kích thước trí tuệ của nó làm nó thêm cô đơn gấp bội. Thỉnh thoảng nó một mình trích Marx bằng tiếng Đức pha giọng Pháp của ông Thân và muốn trèo lên cột cờ Hà Nội để trường khiếu nhất thanh. Thỉnh thoảng nó ngồi bất động bên Hồ Gươm vô vi hoặc đợi rùa vàng dâng kiếm. Đi vào thư viện quốc gia rồi lại đi ra vì không có gì đáng đọc. Lang thang giữa cuộc đời. Cô liêu giữa vạn người. Nghĩa là cũng đủ thói thường của một đại kẻ sĩ Hà Thành cô đơn, có thể thấy là nó đã nhiễm, đã ngấm, đã mê vào bệnh học thức. Phàm là cỡ mét thì cô đơn.

Nhưng những đại kẻ sĩ chúng ta không bao giờ cao quá một trăm sáu mươi phân, chiều cao của họ không đo bằng khoảng cách từ đất dưới chân tính lên mà bằng từ trời trên đầu tính xuống; và nặng không quá nửa tạ, mặt họ nhiều nếp nhăn lạ và họ có một ý thức nhất định về dòng máu cao quý chảy trong người mình. (Họ khen vua Quang Trung xuất thân áo vải đấy, nhưng là chỗ bạn thân tình nên họ cho bạn liếc qua cuốn gia phả lừng lẫy tòan những danh nhân văn hoá – và hẳn quý tộc – đã được xếp hạng của dòng họ mình). Thằng Đủ kiếm đâu ra gia phả. Tôi cuộc là giấy khai sinh của nó thậm chí cũng sai toét. Ngay cái tên, như đã nói ở chương 2, nghe đã thấy hạ đẳng. Trong những ngày làm đại trí thức này nó bỏ dấu hỏi và cái gạch ngang của chữ “Đ”, như cách viết tên Việt của người Tây, vậy nó tên là thằng Du, nghe rất Hán Việt, có mùi thơ Đường nữa, ổn lắm. Khu cầu thang của chúng tôi thế là không có thằng nào tên là Đủ, ai hỏi đến thì bảo thằng Đủ vừa chết ở bên Tây, thế cũng ổn.

Nhưng những chỗ thừa và thiếu ở thằng Du alias Đủ vẫn còn đó, khiến cuộc phiêu lưu vào cõi văn hoá của nó như kamikaze vào bến lạ, một chiếc va li đi về bến lạ, không hiểm nguy như vào hang mãng xà để Hậu Thánh Gióng có thể lập kì tích, nhưng đầy sỉ nhục. Bây giờ thì thằng Du chưa hề cảnh giác. Nó mới chỉ cảm thấy sự cô đơn là một căn phòng thiếu không khí. Càng ở trên cao khí quyển càng loãng và khó thở hơn. Nó sắp ngạt thở đến nơi, hai lá phổi ngoại cỡ của nó hô hấp như một nhà máy khí công thiếu dưỡng khí. Nó phải đi tìm giới hàn lâm, đi tìm đồng thanh khí.

Thằng bạn tốt là tôi lại được tháp tùng bố con Đoài, men theo giường ngủ của một gia đình tầng dưới, nhảy qua vô khối thùng nước gạo và chậu rác ở sân trong, sờ soạng một cầu thang xoắn, băng qua mâm cơm của một gia đình tầng hai, và sờ soạng tiếp một cầu thang xoắn để ngồi vào ba chiếc ghế nhựa trắng đối diện với ông Viện trưởng. Ông Viện trưởng đang xem tivi kênh 2, chương trình xiếc quốc tế. Mỗi lần Đoài e hèm, ông Viện trưởng lại tặc lưỡi khen xiếc giỏi, cho nên chúng tôi cùng xuýt xoa. Đoài bóc tem một bao ba con năm, hắn cũng bắt chước thằng Hồng chìa một lúc cả hai mươi ngón tay trằng nuột thơm phức ra bắt tay người ta. Ông Viện trưởng không hút. Cuối cùng bằng cách nào đó Đoài cũng tranh thủ giữa tiết mục khỉ đi xe đạp, thông báo rằng “thằng cháu nhà em vừa tốt nghiệp cao cấp đang đi tìm việc”. Ông Viện trưởng lại khen giỏi rồi chúng tôi ra về.

Từ nhà Viện trưởng chúng tôi đến nhà Viện phó, hi vọng của Đoài còn lớn lắm vì anh chàng luôn hộ tống Viện phó những sáng thứ hai và sáng thứ năm ở Viện; từ nhà Viện phó đến nhà thư kí hội đồng khoa học, từ nhà thư kí hộI đồng khoa học đến nhà bí thư chi bộ, từ nhà bí thư chi bộ đến nhà thư kí công đoàn, từ nhà thư kí công đoàn trở về khu cầu thang có những chiếc bóng đèn điện sạch nhất hành tinh của chúng tôi. Suốt cuộc du hành qua giới hàn lâm thằng Du không nói một câu nào và cũng không ai hỏi nó. Tôi không biết nó chờ đợi điều gì. Vác bịch chữ của ông Thân đi từng nhà bán rong chăng? Hay nó cho rằng thiên tài của Hậu Thánh Gióng đủ quét sạch nền khoa học xã hội vô dụng này ra biển Đông? Hay nó đủ kiên nhẫn lê từng bậc lương, leo từng chức danh học vị học hàm, qua ít nhất một phần ba thế kỉ để cuối cùng được ai đó hỏi tới? Rút cục thì địa hạt này không phải ngành giải trí của nước Mĩ để nói làm một ngôi sao vụt xuất hiện trên bầu trời. Địa hạt này cần một xuất xứ sáng tỏ, một quá trình phát triển liên tục, cần rất nhiều thâm niên và chứng chỉ. Nó không thể từ dưới đất mọc lên, hai mét mốt đen sì như thế, lừng lững đi vào ngồi cùng các vị giáo sư trên chiếc ghế Việt Bắc những sáng thứ hai và sáng thứ năm thiêng liêng được. Hệ tôn ti trật tự này là hiện thực, bao nhiêu thần thoại trong nhân vật phi thường là Hậu Thánh Gióng cũng không thể đảo lộn. Hệ tôn ti trật tự này không có chỗ cho thần đồng, lại càng không có chỗ cho kẻ mới nỏi. Bản thân tôi, thú thật, không làm quen được với tư cách mới của thằng quái vật mặc dù tôi chẳng có chỗ trải một manh chiếu rách trong hệ tôn ti này. Tôi khâm phục nó hai ngàn bốn trăm tiếng đồng hồ vừa ăn, vừa ngủ, vừa đại tiểu tiện và nhồi sọ. Nhưng mẹ kiếp, một trăm ngày ngồi trong ánh sáng đặc biệt ở nhà ông Thân, trong tranh tối tranh sáng của tri thức, cái mặt xôi thịt cóc có nếp nhăn của nó chẳng thư sinh thêm chút nào. Trông vẫn muốn ngất. Laị thêm cái va li kè kè, đựng súng hợp hơn chữ. Chỉ thiếu điều nó quay sang thảo luận với tôi bằng giọng của ông Thân về đề tài tâm thức Việt Nam đang thịnh hành trong giới học giả Hà Nội!

Tôi chuồn khỏi cơn đột biến của thằng Du, mặc xác bố con nhà nó tính kế đột nhập giàn thượng lưu trí thức Hà Nội. Tôi chỉ tiếc những điếu ba số mà thôi. Một điếu bằng mười điếu Thăng Long. Ôi Thăng Long ngàn năm! Thằng Du có thể theo gương người xưa, hạ mình đi chăn trâu cho một nhà quyền quý trọng hiền đãi sĩ, rồi nhân một bữa anh tài họp mặt đi thẳng lên nhà trên tuyên ngôn vài câu về quân tử và tiểu nhân là đổi được vai chủ tớ, rồi chẳng mấy chốc được tiến cử, ngồi trong trướng bàn kế trị thiên hạ với minh quân! Mẹ kiếp Thăng Long thời nay cũng chẳng thiếu các sa-lông cả tin những hào-kiệt-một–trăm–ngày!

Nhưng thằng Du không đi chăn trâu. Nó xách va li đến Sến. Sến là đường tiến cử lí tưởng, là nhịp cầu với những vòm cong tuyệt mĩ bắc vào chỗ nào cũng được. Nhiệt thành, tốt bụng, và đầy lòng tin vào con người, Sến hớn hở cặp đôi với Hậu Thánh Gióng lần lượt trình diện các nhân vật lỗi lạc của thành phố. Đến đâu Sến cũng vỗ tay gọi vừng ơi, thế là mọi cánh cửa đều mở. Đoài và tôi không biết cái mật khẩu hiệu nghiệm ấy. Thằng Du nghiễm nhiên một lần nữa lại chiếm chỗ thừa ra của thằng Tân bên những câu chuyện trầm mặc của các bậc đại trí thức. Như đã nói, đề tài của họ không bao giờ thay đổi. Là những cú đánh khiếp đảm của bạo lực và ngu xuẩn giáng xuống trí tuệ và lòng lành, là nghệ thuật tránh đòn và những chiến công nho nhỏ của nhân cách…

Nhưng thằng Du không phải là thằng Tân. Nó không có sự kiên nhẫn với học thức của con nhà nòi. Như đã nói, nó không có gia phả. Không có quá khứ. Chỉ có một hiện tại vừa chụp giật được bằng một cuộc đổi chác chết người. Một cuộc đánh quả tri thức. Bạn đọc đã biết, nó thuộc thế hệ mì ăn liền, chỉ vì một trớ trêu của số phận (hay một âm mưu nham hiểm?), chỉ vì một người đàn bà (hay một thói hư đốn của đám đàn ông?) mà lạc vào thế giới của các triệu phú thời gian. Nó hỏi đốp vào mặt các bậc đại trí thức rằng, các vị có maso không, các vị có AQ không, hay các vị mắc bệnh Oblomov lười như hủi? Từ độ cao hai mét mốt gây ấn tượng tốt, thằng Du nói tiếng Việt pha nhiều ngôn ngữ nước lớn và ôn tồn kết luận, địt mẹ entre nous soit dit, moa nói cho các vị biết các vị thấp như kiến dạng chân. Mỗi vị ngồi đây trung bình mười năm rặn được một idée tàm tạm, mười giây moa nôn ra mẹ kiếp cả đống xài đủ. Đủ, hiểu chưa, moa là Đủ! Thế mà các vị rung đùi ngồi chờ bất tử. Tưởng thế nào chứ làm trí thức mà ngu mà nhục, mà mất thời gian như thế, quant à moi, thì moa ỉa vào. Moi c’est autre chose. Lebt wohl ihr Arschlöcher chào các vị!

Nói rồi rũ áo bỏ đi, khoác vai Sến cả cười, cô đơn một Từ Hải một Thuý Kiều trên đường Hà Nội.

Đứng thật lâu trên gác Sến, thằng Du, bây giờ lại là thằng Đủ, nhìn sang toà nhà Mĩ và ngắm lại Hà Nội. Từ vị trí ấy có thể thấy khách sạn Phưong Đông xinh xinh như nhà búp bê mở thẳng vào bãi phơi rác ở giữa hai làn đường Láng Hạ. Mỗi lần xe tải chạy qua, hàng nghìn mảnh ni lông đã giặt bằng nước sông Tô Lịch xôn xao điệu nhạc của rác loại I. Xa hơn một chút là đài truyền hình Hà Nội mới khánh thành, tối nào cũng phát phim action Mĩ lồng tiếng Sài Gòn. Xế bên phải là bãi bia hơi và bãi rửa xe máy. Xế bên trái là hai ki lô mét hàng si đa dọc vỉa hè phố Thái Thịnh. Xa xa phía trước là khu tập thể Thành Công của chúng tôi, tổng cộng tám mươi tư dãy nhà lắp ghép năm tầng với những ban công bọc sắt và áo quần phơi trên dây điện và dây điện thoại. Ôi Hà Nội nhỏ bé! Nó đã chán làm thủ lĩnh đám nhà quê ra tỉnh. Nó đã chán làm đại trí thức. Có lẽ toà nhà Mĩ bên cạnh gợi ý đi buôn xương Mĩ, hay ít nhất là đi Nam tiến. Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam, và miền Nam là nước Mĩ của Việt Nam. Xin Hà Nội cứ tiếp tục ngủ giấc ngủ thủ phủ của cựu thế giới sâu sắc trang nghiêm, cứ bác học, cứ văn chương, cứ vẽ mãi những ngói cũ rêu xanh lên tranh lụa, cứ cắn những miếng chả quế bé xíu làm mười để giữ hồn thành tao trong thân xác mỏng như khói Hồ Tây! Thằng Đủ lên đường đến tân thế giới. Ở đó không ai hỏi gia phả. Lí lịch của miền Nam là lí lịch tập thể của người tứ xứ, của những kẻ khai hoang, những tay phiêu lưu, những trai đạo tặc và gái giang hồ đi làm lại cuộc đời, những ông tướng thất trận đi chiêu lính mới, những tù nhân đi đày, những thuyền nhân đi tìm bờ, những thương nhân đi săn cửa khẩu, những người dân vong quốc… Ở đó đất rộng người thưa và trời không đè xuống hai vai lừng lững của thằng Đủ.

Gửi chiếc va li trên gác bây bi thằng Đủ ra đi. Nó tạm biệt Sến: “Em ơi bây bi, take it easy!”. Hai cái hôn của nó để lại trên má Sến mỗi bên một vết chủng to như bóng điện.

Thế là một đứa đi Viễn Tây, một đứa đi Nam tiến. Chẳng bao lâu nữa sẽ thêm một thằng đi Đông du, một thằng đi Bắc phạt, một thằng bay thẳng lên trời, và một thằng đâm đầu xuống đất. Là sáu chúng tôi, khối lục lăng đa tình.



Chương Mười Hai

Ứng xử. Bên trái, bên phải, và một điểm giữa


Sến chịu đựng sự ra đi của Tân và Đủ như thế này: thắp hương cho một thằng và chờ đợi một thằng. Thằng nào được hương, thằng nào được đợi, Sến không phân biệt. Trương Ba và hàng thịt, đôi bên chỉ đổi chỗ cho nhau để cùng mất hút vào những giấc mơ bay xa của tuổi trẻ. Sến bảo: “Thế còn hơn ngồi nhà làm thằng hèn.” Với chúng ta đàn ông, hèn là nhục mạ số một. Hơn cả ngu. Hơn cả đểu. Thà dã man thâm độc, thà lừa thầy phản bạn, rước voi về giày mả tổ, nợ máu nhân dân, còn hơn làm thằng hèn.

Nhưng chẳng bao lâu sau Sến sẽ than rằng, một cái thây ma là một cái thây ma, thằng đàn ông hèn đè lên em còn có trọng lượng hơn cả đội âm binh kiêu hùng xúm lại. Là một quan điểm mới. Hiện đại. Chỉ một trí tuệ thiếu nhất quán nhưng thực tế như ở Sến mới dễ dàng đi từ cũ đến mới, từ truyền thống đến hiện đại như đi chợ vậy. Nhưng đấy là chuyện của nhiều tháng sau. Rồi nhiều tháng sau nữa Sến sẽ lại đổi ý, sẽ nghiện những hồn ma si tình hiện về dằn ngửa ra mê man. Ôi vật đổi sao rời và chính trị và thời trang và ý đàn bà! Tôi không dám triết lí thối, sợ thằng Đủ từ trong Nam lộn về chửi, chỉ xin gói trọn một câu, rằng tinh thần vô thường thổi từ Sến như gió mùa lùa vào khu cầu thang này, đập ràn rạt vào sự thụ động hèn đớn và nhàn nhã bất thiện của chúng tôi, không cho các ông bố nhân danh cú sốc khi những đứa con ra đi để ngồi bất động trong vương quốc trần gian bé tí của mình. Chúng tôi phải cuốn theo chiều gió.

Mỗi thằng một tốc độ. Tôi nhích từng chữ trong cuốn tiểu thuyết viết dở. Chương mười hai. Vì cái văn chương sến này tôi bắt đầu bỏ họp sáng thứ hai và sáng thứ năm nhưng không ai ở Viện thấy thiếu tôi. Ông Viện trưởng sắp đi Manila, Viện phó bận xếp hàng đăng kí đề tài Toyota với người Nhật. (Trước khi Viễn Đông Bác Cổ của người Pháp trở lại Hà Nội thì hãng ô tô của người Nhật đã lăn bánh vào nền khoa học của chúng ta từ lâu.) Các Viện sĩ còn lại, người nào có nhà tập thể đã hoá giá khu Đội Cấn gần Lăng Bác và sát Daewoo thì bận bán nhà xây biệt thự, mỗi mét vuông ân sủng của khoa học xã hội bây giờ trị giá mười tờ xanh, người nào không có nhà khu Đội Cấn thì bận đấu tranh. Vả lại sắp tới là những ngày cuối năm, trước Tết một tháng, toàn dân còn bận chạy tiền mặt. Trong cái nhộn nhịp như của chợ Đồng Xuân vừa bị cháy, buôn bán ào ra ngoài đường, không ai ở Viện thấy thiếu tôi.

Tốc độ của tôi nhanh hơn ông Thân. Ông cứ mãi di chuyển giữa những con vẹt Hồng Kông năm màu xanh, đỏ, vàng, trắng, đen, là màu của ngũ hành, trong năm chiếc lồng, và chúng cứ mãi bé bằng chiếc thìa cà phê ngoáy lung tung trong ánh sáng bại liệt tâm thần của căn hộ xế bên phải tôi. Năm con đực, năm con cái, chia làm năm hộ, chim của ông Thân là thứ chim có nền nếp, biết luật hôn nhân một vợ một chồng, không giống chim của mấy anh buôn chim ở chợ, sinh hoạt tập đoàn và bề hội đồng, con đẻ ra không có giá thú. Ông Thân bảo ba tháng một lứa. Ông nghỉ hưu ở Viện đã sắp ba tháng. Như thế là sớm một năm, nên ngoài lương hưu còn được tiễn chân bằng ba trăm ngàn đồng, mua được vừa đúng năm đôi chim và một cân kê dự trữ.

Nhưng những nàng chim của ông Thân mãi không cho thấy dấu hiệu chửa đẻ, nếu chúng quả là những nàng chim. Phân biệt đực cái ở loài này cũng tương tự như ở loài ruồi, nhầm lẫn là thường, nên tôi gợi ý cho ông Thân, cách tốt nhất là dựa vào vòng sinh thành và tiêu trưởng của ngũ hành và âm dương mà ghép đôi cho phải đạo trời, chứ cứ theo đạo người thời buổi này cộng thêm kĩ thuật gen thì chim không vô sinh cũng đồng tính luyến ái. Chúng tôi cùng đánh dấu chim bằng vòng sắt cho con đực và vòng nhựa cho con cái. Nhựa là thứ vật liệu trái cựa, không ăn nhập gì vào vũ trụ cổ truyền phương Đông, nhưng dễ kiếm, rẻ tiền và đánh một nốt thời đại. Chúng tôi tranh luận hết một buổi chiều về việc âm sinh dương hay dương sinh âm, bởi lẽ cho một con đen dương thuỷ kết hợp với một con xanh âm mộc theo cách dương sinh âm, hay cho con vợ âm thuỷ sinh con chồng dương mộc là một khác biệt tối quan trọng. Cuối cùng chúng tôi thoả thuận rằng việc này có thể giải quyết bằng cách: sau ba tháng thử nghiệm lại thay vòng sắt ra nhựa và nhựa ra sắt, nghĩa là vợ chồng đổi vai cho nhau, thế là ổn, là một lô-gích vĩ đại. Tạm thời chúng tôi xuất phát từ nguyên lí tính nam của xã hội người cũng như chim, vòng sắt sinh xuất vòng nhựa, ông Thân và tôi đều không thuộc trường phái tính nữ ở Viện. Chậm nhất là ba tháng nữa chúng tôi sẽ được biết kết quả trong lồng thí nghiệm của xã hội nam tính.

Công cuộc nuôi chim của ông Thân quả là đáng cho ông từ bỏ vai lãnh tụ trí thức cấp tiến ôn hoà và quên đi giấc mơ bảo vệ luận án phó tiến sĩ đặc cách. Mới ngày nào ông còn than, ông có bốn học trò bây giờ đều nổi tiếng, một thằng thực tài, một thằng láu cá, một thằng cơ hội, một thẳng rởm, ông muốn làm luận án phó tiến sĩ đặc cách (đặc cách vì không đủ chứng chỉ bằng cấp như lũ chúng tôi) phải rơi đúng vào thằng rởm hướng dẫn. Tiên sư cái sự đời! Thêm vào thằng trò cuối cùng, thằng Đủ, nhét trọn sự nghiệp của sư phụ vào va li rồi gửi va li ở nhà ga Sến! Ôi sự đời quả là không nương người hiền!

Bây giờ thì qua rồi, qua hết rồi những giấc mộng hoàng lương những giấc mộng hàn lâm, qua rồi qua hết rồi những sáng thứ hai và sáng thứ năm, những hội nghị, những câu hỏi có hay không, lấy tủ hay không lấy tủ, những phê phán sự phê phán có tính phê phán, những biện chứng pháp bạch mã phi mã, những đa nguyên và chuyên chế, những Marx trẻ Marx thật Marx rởm Mác sờ Lê Nin và hậu Marx… Ông hàng xóm già của tôi chỉ còn di chuyển như một hiền giả tinh khiết giữa vòng âm dương ngũ hành của một bầy chim tí hon sẵn sàng hi sinh giới tính, hi sinh hạnh phúc lứa đôi và giống nòi mình cho những người nuôi chim. (Nhân sự kiện này tôi để công đào bới trong điển tích cổ kim, thỉnh thoảng lại gặp một ngư ông, nhưng tuyệt không có người nuôi chim nào đáng lưu ý). Thế cũng là một bước chuyển. Cực đoan. Cho vừa ý Sến. Qua rồi cuộc đối diện với những kích thước trung bình của đồng loại. Bây giờ ông ngụ trong trường mênh mông từ cực tiểu của vẹt Hồng Kông đến cực đại của vũ trụ. Bao nhiêu khổ đau đè nặng lên căn hộ này để bây giờ hai mươi cánh chim nhẹ bay. Bao nhiêu âm thầm cân lặng một kiếp người bây giờ ùa vào giàn đồng ca mười giọng líu lo suốt ngày.

Ông Thân mải miết theo chim hót và bận quét vỏ kê, vỏ kê tung bay vui mắt lắm, chúng biến căn hộ ảm đạm của ông thành huyền ảo và sinh động, ông không nghe những chiếc xe của Đoài gầm rú. Tôi tưởng có động đất, lần đầu tiên kể từ tháng Chạp năm Ất Hợi 1335, theo quyển biên niên sử của Viện tôi soạn, (tổng cộng mười một lần, chỉ xảy ra trong lịch sử trung đại. Cũng như hạn hán, lụt lội và bệnh dịch, bạn đọc không thể tìm ra trong lịch sử từ cận đại trở về đây một dòng nào về thiên nhiên đâu, từ cận đại trở đi thiên nhiên hoàn toàn không đáng đếm xỉa!), khi Đoài gài số, đẩy xe máy lên cầu thang. Tôi tưởng đây là lần thứ mười hai sau tròn 660 năm, mười một hoa giáp, một con số không tầm thường chút nào, bây giờ cũng là tháng Chạp Ất Hợi, nghiệp chướng của lịch sử xem ra nặng lắm!

Đấy là một chiếc Suzuki toả khói nhiều hơn bếp lò của cả khu cầu thang vào giờ cơm chiều. Đoài có lí do để quyết cho chúng tôi thưởng thức kì đủ mùi địa ngục trung cổ. Ở Viện hắn không có thẩm quyền phát biểu gì về nội dung của lịch sử. Bây giờ ở chung cư tập thể, hắn thuyết trinh bằng Cup 78, 79, 80, 81, (không bao giờ quá ngưỡng 81, từ 82 đèn vuông trở đi thuộc về cận đại và từ 89 là hiện đại đổi mới), bằng Honda 67, hắn đặc biệt mê những con 67 trải đời, đầy hồi ức về giải phóng Sài Gòn. Nông thôn nơi sinh ra hắn yên tĩnh, tiếng thầm thì của những chiếc Dream và Cup 89/94 mới toanh mà dân Hà Nội đang ngưỡng mộ chỉ làm người nhà quê thêm buồn ngủ; ở đấy xe cộ phải gầm lên cho trẻ con lao ra đường chạy theo reo hò, cho nên bao nhiêu nghĩa tình với nơi chôn rau cắt rốn Đoài gom vào đống rác Nhật, đánh quả quê hương. Thế mới biết người Hà Nội tiến nhanh, dăm năm trước xe bãi rác máy mổ toét ra chục lần, cần số phong thấp lục cục, đèn thong manh, còi thất thanh chấp chới, qua tay tan nát bao dặm trường mà lượn phố phường vẫn cao giá như gái đồng trinh. Bây giờ khác rồi, Hà Nội đã xài đủ sái đầu của thuốc phiện Nhật, sái nhì nhường cho nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, sái ba chắc dành cho Bình Trị Thiên khói lửa, sái bét cho đồng bào các dân tộc thiểu số anh em, thế là trọn vẹn tình quốc gia ruột rà pha màu hữu nghị quốc tế.

Đoài dẫn những con xe máy đồng trinh của một thời về khu cầu thang của chúng tôi, vênh vang như dẫn gái. Tôi không nói ngoa. Giữa hành lang tập thể, hắn lột yếm trắng của chúng ra trần truồng; hắn ngoáy vào chỗ này chỗ nọ, buổi đầu còn vụng về bỡ ngỡ nhưng tiến bộ nhanh, như thể tài cán của hắn mấy chục năm ngủ quên trên ghế trưởng phòng hành chính ở một Viện nghiên cứu khoa học nhân văn, bây giờ mới choàng dậy, đổ nhớt, gí điện, leo lên leo xuống hùng hục, vật nghiêng vật ngửa, rúc đầu vào bụng các con xe, nhòm ngó, rên rỉ, đạp, mân mê, lau, cưỡi, nhún nhảy, chửi tục, sờ soạng, mông má, và thỉnh thoảng cả xe lẫn người lại gầm lên từng cơn rung chuyển đất trời. Bạn đọc phải ở trong một khu nhà lắp ghép, trần cách sàn hai mét tám và bốn hộ chung nhau một hành lang hai mét vuông, chỉ một bánh pháo đốt lên là thành Tết Mậu Thân, một tiếng khóc thầm rớt xuống nền gạch men là hoá đám ma công cộng, ở như vậy bạn đọc mới đánh giá hết cơn hành nghề hành lạc của Đoài và những con xe của hắn cỡ bao nhiêu trăm đề-xi-ben. Ở nước Mĩ, chúng tôi có thể đem Đoài ra kiện và thu về tiền đau lỗ tai, nhưng ở nước Việt đau đớn triền miên, ngứa tay xin nhau tí huyết là thường, không toà án nào rách việc đi chăm lo cho mấy cái màng nhĩ.

Gương cưới mười lăm năm treo tường của vợ chồng tôi đã rơi, những cô gái trên tờ lịch cũng ngã xuống, nụ cười bất diệt của các cô ấy trông như mếu, và bông gòn đút nút tai chúng tôi đã chảy nước thối thì vợ thằng Hồng quyết định can thiệp, chị ta quả là người đàn bà giàu sáng kiến nhất khu cầu thang. Đoài không được chiếm đoạt không gian công cộng để hành nghề, ngoài ra phải bồi thường ba chiếc bóng điện rơi ở hành lang. Bây giờ hắn rút vào nhà hắn, bên này ngay sát vách tôi và bên kia sát vách thằng Hồng, tường nhà hắn và tường nhà tôi vốn đã nghiêng ngược chiều nhau sẽ từ từ tách ra thành một hình chữ V cho hố xí và bếp núc của gia đình tầng trên ụp vào chính giữa. Hắn động đất từ căn hộ đóng kín của hắn động ra, không sáng kiến nào của nữ triết gia trị nổi, một hộp bê tông rung rinh và nổ đùng đùng, nguy hiểm hơn, giết thần kinh hơn, man rợ hơn.

Bây giờ Đoài không có thời gian để chăm sóc răng. Bộ sưu tập bàn chải mười hai chiếc của hắn phân theo độ cứng, độ dài và độ cong, mẹ kiếp hơn đứt chuyên gia nha khoa. Có lẽ hắn đánh răng hàm riêng, răng cửa riêng, răng nanh riêng. Hôm nào ăn thịt gà rắt răng, hôm nào nhai kẹo lạc dính răng có bàn chải riêng hôm đó. Bây giờ nướng vào chải xe. Không phải anh chàng đồng-nhà-quê đã thôi kì cọ cái sĩ diện sạch bong của mình giữa đô thành. Sĩ diện chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. Yếm trắng của các nàng xe mẹ mướp phải trắng bóc lên cho dậy màu thanh nữ, còn áo quần Đoài bắt đầu chua như cứt mèo, chua hơn áo quần thằng Đủ mà bạn đọc đã biết. Đầu giờ sáng mỗi ngày hắn đến Viện, kí chữ kí của trưởng phòng hành chính nhoe nhoét dầu mỡ. Nhưng không phải Đoài tự đày ải tấm thân, hành khổ nhục kế vô nghĩa như tôi một trăm ngày nào. Kiếp cán bộ thoát li tuy hàm chứa một tiềm năng điên rồ bệnh hoạn khổng lồ, bằng chứng mới nhất là những vụ truy hoan đùng đùng giữa người và xe nạ giòng trong phòng kín, nhưng căn bản của nó vững chắc, không phù phiếm, không vụ cảm giác, luôn theo đòi một mục đích cụ thể, rõ ràng. Sự quá trớn ở một thằng như Đoài có sức thuyết phục và dễ được chấp nhận hơn sự quá trớn ở một thằng như tôi. Tôi quá trớn để tự giễu và tự thương mình, để tự thắng những địch thủ thực ra mạnh hơn tôi. Sự quá trớn của tôi tóm lại cũng như tình yêu của tôi, là những thứ đã nhúng đi nhúng lại trong rất nhiều dung dịch văn hoá, là những đặc sản của giới trí thức. Đoài mù quáng và thông tục, nhưng hắn quá trớn cho một lí tưởng. Lí tưởng của hắn bây giờ là «giết mỗi con một vé”, tôi tạm dịch là buôn mỗi con xe máy về quê ăn lãi một tờ trăm đô la, đổi ra tiền Việt là một triệu một trăm bảy chục ngàn, bằng chính xác sáu tháng lương tôi (đã cộng phụ cấp mỗi tháng 3 đô nếu Viện được Toyota duyệt một đề tài).

Căn cứ vào độ nghiêng của tường nhà, tôi đoán chằng bao lâu Đoài sẽ giết đến con thứ một trăm, hắn cũng sẽ vướng vào con số đó, chúng ta người Việt coi trọng số trứng nguyên thuỷ nở ra nòi Hồng Lạc. Một trăm vé chắc đủ cho Đoài lên đường du lịch ái tình trăm năm. Hắn cứ đi đi, tình yêu sẽ dạy hắn phép nhẹ nhàng ý tứ, đi càng xa càng lâu càng tốt, tốt nhất là biến hẳn, biến hẳn như thằng Đủ, tôi rất thích những anh hàng xóm không còn là hàng xóm nữa.

Nhưng tôi ngờ rằng Đoài không hề có ý định du lịch, như đã nói hắn không phù phiếm, không rởm theo một nghĩa nào đó. Hắn hoàn toàn chân thật, vấn đề chỉ là bạn có tiêu hoá nổi cái thật của hắn hay không mà thôi. Xong con thứ một trăm chắc chắn Đoài sẽ đến nhà tắm côsanhsinoa của Sến làm tổng vệ sinh tảy sạch cái nghèo hèn, rửa kĩ mười nghìn đô la và tẩm thêm nước hoa, anh ngố chắc sợ nàng chê tiền bẩn là thiếu văn hoá. Sau đó Đoài sẽ làm gì? Mua kiềng vàng cho nàng đeo cổ nhé, dễ thế lắm, kiềng của nàng phải nặng như gông mới là sang và chàng thì đánh nhẫn to tổ bố mặt vuông ở ngón tay út, rồi chàng nàng vàng choé như hai tiệm kim hoàn mới khai trương sóng đôi trên phố? Hay là sắm Sony 36 inch như ở nhà thằng Hồng, cộng thêm đầu vi-đê-ô để xem phim ướt? Có thể lắm, một trăm vé là vào tốt cửa trung lưu, trung lưu là đeo vàng ngồi xem điện ảnh Hồng Kông và chở nhau bằng Dream II lên Hồ Tây ăn bánh tôm kèm bia Tiger, trung lưu cũng lo mua đất ngoại thành xây nhà hai tầng có tháp Alibaba…Trời đất, tôi ngồi hứng một bức tường sắp đổ, đo độ Richter, và lo tiêu tiền của thằng hàng xóm và tình địch!

Bên này, chim của ông Thân đã một lần thay vòng, cuộc thí nghiệm đợt một cho thấy nguyên lí tính nam là hoàn toàn vô tích sự. Ba tháng nữa, nếu tính nữ cũng chẳng giúp giống nòi sinh sôi nảy nở, ông hàng xóm của tôi có thể kết thúc cuộc cách mạng trên phương diện giới tính luẩn quẩn này bằng cách đeo tuốt cho mỗi con cả vòng sắt lẫn vòng nhựa, chim cũng như người may mắn rằng có hai chân. Như thế là trong mỗi thực thể đều có âm có dương, không sai sách thánh hiền. Nhưng lúc ấy vấn đề có thể là chân nào đeo vòng nào, nguyên lí khuynh tả hay khuynh hữu?

Ông Thân bảo, ông chỉ đi từ tả sang hữu rồi lộn từ hữu về tả là xong một đời. Một đời bận rộn xê dịch bởi những vận động bên ngoài. Sâu bên trong, ông mãi là kẻ trung dung. Cho nên lúc người ta cùng đi sang trái thì có cái gì đó cứ kéo ông một chút về bên phải. Lúc người ta ngả về bên phải, nó lại kéo ông một chút về bên trái, một chút thôi, cho gần với điểm trung dung của ông hơn, một chút những cũng đủ biến ông thành lạc điệu, đi sai bước nhảy của bầy đàn. Ông làm con lắc đánh bên này đánh bên kia bao nhiêu tiếng chuông vô nghĩa và luôn chệch đi một tích tắc so với giờ chính thống suốt cuộc đời. Bây giờ cái đồng hồ của ông không chạy nữa, con lắc đứng im rồi…

Tôi hỏi, có nhất thiết phải như thế không?

Ông Thân đáp rằng, nhất thiết với thế hệ ông, và rất có thể với chí ít nửa thế hệ tiếp theo. Một thế hệ rưỡi này đã di chuyển theo những đường vạch thoạt nhìn thì rất phức tạp của lịch sử, nhưng tựu trung chỉ là sự xê dịch giữa hai cấp độ: cấp độ thoát tục và cấp độ thông tục. Dường như người Việt nào có chút học thức cũng như thế cả. Loay hoay giữa trời và người. Ở cấp độ này thì được ở nhà làm một triết gia, một đạo sĩ, một chân tu, một cá nhân hoàn toàn giữa vũ trụ. Ở cấp độ kia thì được ra ngoài dấn thân thực thi những lí tưởng hoàn toàn cụ thể và trần thế, tranh đấu cho những phía khác nhau của lẽ phải, được hoà vào một tập thể. Nhưng động cơ của sự chao đảo giữa xuất xử chẳng có gì cao siêu. Là sự bế tắc. Sự bất lực. Không phải nhận thức về những vấn đề của vĩnh cửu tất yếu dẫn tới những vấn đề thời sự. Hay ngược lại. Đáng tiếc không phải như vậy. Người ta mò vào thời sự khi bị vĩnh cửu bỏ rơi, và khi nào bị thời sự bỏ rơi lại quay về với vĩnh cửu. Một lúc nào đó thì cả cấp độ này lẫn cấp độ kia đều ở quá tầm tay, bản năng bình thường, thông tục đã tiêu tan, lạc hậu với chính cuộc đời, xa lạ với người, và hoài bão thoát tục, khác thường cũng đổ vỡ, bất cập với trời… Nếu có thể làm lại tất cả, chỉ xin trời cho được là người phiến diện, ở hẳn bên này hay bên kia. Cứ một ít thứ này một ít thứ kia, một thế hệ rưỡi là thế hệ hàng xén…

Ôi bên này bên kia và điểm giữa! Tôi ở đâu? Có run rủi mà chui và một nửa thế hệ tiếp theo bi thương đó chăng? Nếu không, nửa còn lại trong thế hệ bị chia đôi của tôi ra nhập nơi nào? Bên này, những con chim hót giọng hiền triết véo von; bên kia, những trận động đất của đời thường triền miên, như không còn lí trí, như không có ngày mai. Tôi ở giữa, giữa một khung cảnh rất Việt Nam, hoàn toàn Việt Nam, Việt Nam thời chiến, Việt Nam thời bình, Việt Nam giầm chân trong lịch sử và tiến vào thế kỉ hăm mốt; tôi không phát điên và những người xung quanh cũng không ai điên, vẫn cầm bát cơm lên nhai thản nhiên và ngủ say trên những chiếc giường rung rinh, giữa những bức tường sẽ đổ. Xin bạn đọc cũng coi mọi chuyện là thường: take it easy!

Nguồn: Thanh Văn xuất bản, California 1996, bản đăng trên talawas vá»›i sá»± đồng ý của tác giả