© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
1.11.2004
Hải Triều
Về văn học nghệ thuật
7 kỳ
 1   2   3   4   5   6   7 
 
Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh

(Đáp lại bài ông Thiếu Sơn trong Tiểu thuyết thứ bảy, số 16-2-1935)

Vấn đề này tôi đã có cơ hội bàn qua trong bài "Phê bình cách giải thích chữ văn học của Sào Nam tiên sinh" đăng ở báo Đông phương cũ. Nay ông Thiếu Sơn trong Tiểu thuyết thứ bảy số 38 lại nói đến. Tôi muốn thừa cuộc bút chiến này để giải bày cho được rõ cái quan niệm của chúng ta về nghệ thuật.

Ông Thiếu Sơn, người ta thường bảo là một nhà viết văn sành mà lý sự lại già dặn. Nhưng ông sành ở đâu chúng tôi không biết, ông già dặn ở đâu chúng tôi không hay, chớ đến cái bài: "Hai quan niệm về văn học" thì nó tỏ ra lúng túng, nông nổi làm sao.

Anh em chị em, cũng như tôi, ở đời không nhiều thì ít cũng có một tí gan - một tí mà thôi - nhưng cái gan gì kia chứ, chớ đến cái gan nói liều thì chúng ta hẳn thua ông Thiếu Sơn đi rồi đấy.

Tôi không hay nói ngoa. Thì anh chị hãy đọc: "... theo luật tiến hóa của văn học sử Việt-nam cũng như văn học sử các nước, những công trình sáng tạo thì còn, mà những công trình khảo cứu sẽ chết". Bao quát nói rằng "những công trình khảo cứu sẽ chết", thì không phải to gan đấy ư?

Ví như theo "luật tiến hóa" của ông mà những "công trình sáng tạo" ấy nó trở lại phản tiến hóa thì ông cũng nhất quyết cho nó sống ư? Ông Thiếu Sơn! Ông to gan hơn chúng tôi là ở chỗ nói liều đó!

Đây là tôi chỉ đưa ra một cái luận chứng nông nổi của bài ông, chớ trong bài ấy còn nhiều cái nữa mà tôi không thể kể ra hết được.

Ông lại có ý bài xích cái quan niệm về văn học của ông Phạm Quỳnh và cụ Nguyễn Bá Học, cụ Nguyễn Bá Học thì chết rồi. Ông Phạm Quỳnh thì còn sống đấy. Ông Quỳnh nếu có thì giờ sẽ trả lời cho ông. Tôi không hơi đâu mà làm trạng sư cho một cụ Thượng bộ giáo dục. Tôi muốn nói chuyện cùng ông về chỗ ông chủ trương "lấy nghệ thuật làm cứu cánh cho nghệ thuật" mà tôi cho là một quan niệm gàn dở và gian trá của phái nghệ sĩ mà L. Tolstoï thường gọi là "bọn giặc trong nghệ thuật" (les forbans de l'art).

Muốn nói chuyện cùng ông, tôi bắt đầu giải thích nghệ thuật là gì đã.


I. Nghệ thuật là gì?

Nhà nghệ sĩ duy tâm bao giờ giải thích đến nghệ thuật thời cho là những cái sản vật thần bí, mầu nhiệm của tình cảm và của "đấng thiêng liêng". Vì thế nên họ cho nghệ thuật có cái tính chất siêu phàm, huyền diệu, không quan hệ đến xã hội, không dính dáng đến nhân sinh, họ cao hơi lớn tiếng đề xướng thuyết nghệ thuật thuần túy (l'art pur), nghệ thuật thần tiên (l'art olympien) hay nghệ thuật vị nghệ thuật (l'art pour l'art). Trong đám nghệ sĩ ấy, không nói chúng ta cũng biết ông Thiếu Sơn đã làm một anh học trò dở dang, vì ông ấy muốn bênh vực cho nó mà bênh vực không ra trò.

Trái với phái nghệ sĩ duy tâm, chúng tôi bao giờ cũng chủ trương "nghệ thuật là một cái sản vật của sự sinh hoạt xã hội" ("l'art est un produit de la vie sociale"); nhưng trạng thái sinh hoạt giữa xã hội phản chiếu vào trong tâm trí người ta, sinh vui, sinh buồn, sinh giận, sinh tiếc, sinh chán, sinh tham... Nghệ thuật sắp đặt những tình cảm ấy cho có hệ thống rồi diễn ra thành những hình ảnh thiết thực, hoặc bằng lời nói, bằng câu văn, bằng âm điệu, bằng vận động (như nhảy múa) hoặc nhiều cách kiểu khác có hình thức rõ ràng như kiến trúc, đắp tượng, v.v... [1]

Cho nên người ta thường nói: Nghệ thuật là một phương pháp để mà xã hội hóa tình cảm (un moyen de socialisation du sentiment). [2] Ông Tolstoï trong bản sách Nghệ thuật là gì? (Qu'est ce que l'art) giải thích: nghệ thuật là cái phương pháp truyền nhiễm về tình cảm (un moyen de contagion émotive).

Nghệ thuật xã hội hóa tình cảm của loài người, lại đem cái tình cảm ấy mà truyền nhiễm lại cho loài người; như thế là cái phát nguyên của nghệ thuật là ở trong xã hội mà cái cứu cánh của nó cũng ở trong xã hội. Đặt nghệ thuật ra ngoài xã hội và nhân sinh, cho nghệ thuật có tính chất thiêng liêng thần bí, cao thượng là ngụy biện, là phi lý, là, xin lỗi ông Thiếu Sơn, là gian trá. Vì sao mà tôi dám gọi là gian trá, tôi sẽ nói ở đoạn sau.


II. "Nghệ thuật vị nhân sinh» với văn sĩ

Ông Thiếu Sơn nói nghệ thuật vị nhân sinh (l'art pour la vie) ở nước ta là do cái ảnh hưởng của Nho giáo. Ông lại cho rằng hầu hết các nước ngoài, mà nhất là ở Tây phương, đều chủ trương lấy nghệ thuật làm cứu cánh cho nghệ thuật.

Ấy lại là một cái nói liều nữa. Tôi thiết tưởng khi quyết đoán một điều gì ông cũng cần xem xét cho thận trọng chứ! Ai bảo ông hầu hết các nước ngoài đều chủ trương lấy nghệ thuật làm cứu cánh cho nghệ thuật?

Tôi muốn đưa ra đây một ít chứng cớ mà tôi đã vội vàng sưu tập để ông thấy rõ các nhà văn sĩ Tây phương người ta vẫn chủ trương lấy nhân sinh làm cứu cánh cho nghệ thuật.

Taine trong bản sách Triết lý của nghệ thuật (La philosophie de l'art) nói rằng: "Nhà nghệ sĩ với quần chúng là một, nhà nghệ sĩ không thể là hạng người biệt lập".

Diderot bảo chúng ta rằng: "Nghệ thuật phải có cái nhiệm vụ ca tụng những công nghiệp lớn lao, tốt đẹp, bênh vực cái lẽ phải, công kích sự đồi bại chống chọi với đứa hung bạo".

Trong bản sách Chúng ta phải làm thế nào? (Que devons-nous faire?), Tolstoï nói:

"Loài người đương gặp biết bao nhiêu sự khổ sở, đau đớn, rất tội nghiệp, ai có thời giờ đâu mà giao du đùa bỡn. Nhà nghệ sĩ hay là nhà tư tưởng không bao giờ ngồi trên đỉnh núi thần tiên; họ phải luôn luôn ở trong cảnh hoạt động, chan chứa tình cảm. Họ phải chỉ cho loài người thấy con đường giải thoát, những sự khốn khổ ngày nay và tìm những cái tốt đẹp mới mẻ hơn".

Tôi muốn để nguyên một câu chữ Tây mà tôi không dịch, sợ mất cái nghĩa hay của nó đi: "Le vrai art est l'expression de la connaissance de la mission et du vrai bien de tous les hommes" (xem quyển Vie de Tolstoï của R. Rolland).

Thế là cái nghệ thuật chân chính là cái nghệ thuật vị nhân sinh rồi đấy, ông Thiếu Sơn đã thấy chưa?

Còn biết bao nhiêu là nhà nghệ thuật như Dickens, Dostoïévsky, Millet, Hugo, Barbusse, R. Rolland, v.v... và tất cả những nghệ sĩ ở Nga bây giờ đều chủ trương lấy nghệ thuật mà phụng sự cho nhân sinh.

Trên kia tôi đã giải thích cái quan hệ của nghệ thuật với nhân sinh và đã chỉ rõ thuyết "nghệ thuật vị nhân sinh" không phải như ông Thiếu Sơn lầm tưởng cho ảnh hưởng của Nho giáo ở Đông phương. Chính thuyết "nghệ thuật vị nhân sinh" các nghệ sĩ ở Âu, Mỹ đã nhiều lần đề xướng và cổ động rồi. Tỉ như nghệ thuật giới ở nước Nga bây giờ, người ta chỉ biết nghệ thuật vị nhân sinh chớ không biết nghệ thuật vị nghệ thuật. Vì người ta cho thuyết "nghệ thuật vị nghệ thuật" là tiêu biểu cho sự đồi bại của nền văn học buôc-gioa (bourgeois) bây giờ.


III. Nghệ thuật vị nghệ thuật trong nghệ thuật sử

Quách Mạt Nhược, một nhà văn sĩ về phái mới ở nước Tàu, trong bài: "Văn học dữ giai cấp đấu tranh" có câu: "Nghệ thuật là gì? Nghệ thuật là cái biểu hiện của nhân sinh". Câu ấy thật đúng. Không biểu hiện được nhân sinh thì không thành nghệ thuật nữa. Bao nhiêu sự thăng trầm, biến chuyển trong xã hội về kinh tế, về chính trị, đều gián tiếp hay trực tiếp ảnh hưởng vào nghệ thuật.

Người đời xưa, hồi bộ lạc đương thịnh hành, quân chủ trương bền chặt, nghệ thuật tất nhiên xu hướng về mặt ca tụng những sự nghiệp anh hùng hào kiệt, khuyến khích những việc thiện, bài trừ những việc ác. Nhà nghệ sĩ bao giờ cũng tự đặt mình vào hạng "tiên giác" đem bao nhiêu tài ba để thức tỉnh loài người. Bao nhiêu sách sử, tranh vẽ, chạm trổ đều diễn tả những công nghiệp oanh oanh liệt liệt của những vị anh hùng hào kiệt từ ngàn xưa. Nghệ thuật hồi ấy rõ ràng là để phục sự cho nhân sinh. Những tác phẩm như Illiade Odyssée ở Tây phương, những sách Tam quốc diễn nghĩa ở Tàu, Bốn tám vị anh hùng ở Nhật, đều là những chứng cớ hiển nhiên của cái triều lưu nghệ thuật vị nhân sinh của thời đại ấy.

Trước cuộc cách mệnh 1789 ở Pháp, trong nghệ thuật giới Pháp lại phát sinh ra một cái thể thức mới gọi là "Style rococo". "Style rococo" là cái phản ánh của chế độ phong kiến ở Pháp đã bắt đầu trụy lạc. Nhà nghệ thuật dần dần xa hẳn quần chúng, nên không đem nghệ thuật mà diễn tả được tâm hồn, ý chí của số đông người; không dùng nghệ thuật để dẫn đạo hay giáo hóa quần chúng nữa. Họ mượn nghệ thuật để ca tụng ấy dầu không nói ra, ai cũng thấy rõ là thứ nghệ thuật vị nghệ thuật mà thôi.

Cuộc cách mệnh 1789 nổi lên. Trong nghệ thuật giới tự nhiên có vô số nghệ sĩ mới ra đời, tự mình gánh lấy cái trách nhiệm tiền khu cho phong trào, mượn nghệ thuật làm lợi khí để khuyến khích quần chúng vào con đường mới. Bao nhiêu tác phẩm của Voltaire, Rousseau, Montesquieu, Diderot, David, v.v... đều tiêm nhiễm những tư tưởng đem nghệ thuật mà phục sự cho nhân sinh. Nhà nghệ thuật tài vừa kiêm một tay chiến sĩ giỏi.

Rồi qua thế kỷ 20, sự phát triển của chế độ tư bản đã đến đoạn cuối cùng. Nghệ thuật cũng đồng chịu ảnh hưởng ấy, nên mất hẳn cái tính chất "vị nhân sinh". Không biết bao nhiêu là xu hướng mới ra đời: nào impressionnisme, néoimpressionnisme, futurisme, cubisme, v.v... Những cái isme cứ kéo dây nhau xuất hiện ra rồi lại cứ kéo dây nhau mà chết, không cái nào thành hình cái nào.

Nghệ thuật dần dần xu hướng về mặt thần bí, huyền hoặc, v.v... Nhà nghệ thuật chẳng những không khai sáng quần chúng lại trở lại mê hoặc quần chúng. Nhà nghệ thuật hóa ra một người thù của quần chúng. Ông Léon Tolstoï cho là bọn "Forbans de l'Art" thật đáng kiếp.

Bên cái nền nghệ thuật phản nhân sinh, phản tiến hóa ấy, ngày nay chúng ta đã thấy nhóm lên những nền nghệ thuật mới, tự lấy cái trách nhiệm diễn tả tình cảm, tư tưởng của quần chúng, và đề cao sự sinh hoạt của xã hội về tất cả mọi phương diện vật chất và tinh thần.

Những kiện tướng trong phái nghệ sĩ mới ấy như Gorki ở Nga, Romain Rolland ở Pháp, Upton Sinclair ở Mỹ, v.v... đều được công chúng hoan nghênh một cách đặc biệt.

Ông Thiếu Sơn xem thế cũng đủ thấy cái nghệ thuật vị nghệ thuật phát sinh ra chỉ trong những hồi đồi bại của xã hội loài người. Còn những hồi tiến bộ thì bao giờ người cũng chủ trương lấy nhân sinh làm cứu cánh cho nghệ thuật.

Ông Thiếu Sơn lại thấy rằng những nghệ sĩ nào tán thành cho thuyết nghệ thuật vị nghệ thuật đều đi trái hẳn con đường tiến hóa của nhân loại.


IV. Giá trị những tác phẩm của phái nghệ thuật vị nghệ thuật

Trong bài "Nghệ thuật với đời người" đăng ở Tiểu thuyết thứ bảy số 41, ông Thiếu Sơn đứng về phương diện nhà nghệ thuật, bảo chúng ta rằng:

"Các ông muốn cải tạo xã hội để tô điểm cho sự sống của loài người. Tôi không biết cải tạo xã hội là cái gì, nhưng sự sống của tôi, tôi không cần các ông tô điểm. Tự nó đã mãn nguyện rồi! [3] Nếu trong thiên hạ còn nhiều người biết yêu mến nghệ thuật, nhờ thưởng thức những công trình của chúng tôi mà quên được những nỗi nhỏ nhen ti tiện ở cõi đời, để sống chung với chúng tôi trong một cảnh thế giới đẹp đẽ hơn, cao thượng hơn thì chúng tôi há lại chẳng có công với xã hội loài người đấy ư?".

Chỉ một câu tuyên bố này cũng đủ đại biểu cho cái tâm lý thiển bạc mà tự đắc, ích kỷ mà phản động, duy tâm mà lộn xộn của phái nghệ thuật vị nghệ thuật. Dầu ông Thái Sơn và những nhà "nghệ thuật vị nghệ thuật" không biết, hay không muốn biết, hay không dám biết "cái sự cải tạo xã hội là cái gì?". Dầu ông Thiếu Sơn và phái nghệ thuật vị nghệ thuật có cho cái sống của mình "không cần ai phải tô điểm, tự nó đã mãn nguyện" rồi. Nhưng các ông ít nhất cũng phải tự hỏi vì sao các ông đã đến cái chỗ "không cần ai tô điểm", "đã mãn nguyện" rồi chứ! Chẳng qua các ông ở trong cái giai cấp dư dật rồi mới vỗ bụng mà nói những câu tự đắc ấy. Các ông có ăn, có mặc, có ở, rồi thong thả mới ngâm vịnh, chuyện trên mây, trên mưa được chớ!

Các ông chỉ ngắm vào mình, tự cho là hoàn toàn rồi nên mới bảo rằng "không biết cải tạo xã hội là cái gì?" kỳ thật xã hội bao giờ cũng thấy sự hư hỏng nên bằng mong mỏi sự cải tạo luôn luôn.

Các ông chỉ ngắm vào mình thấy được cái sướng của đời vật chất của các ông nó ăn dịp với cái sướng trong cái đời tinh thần, nên các ông kiêu hãnh bảo "đã mãn nguyện" rồi, kỳ thật xã hội nhận thấy không biết bao nhiêu là điều thiếu thốn nên chưa khi nào tự bảo là mãn nguyện cả.

Tóm lại, các ông thật là hạng người ích kỷ quá, chỉ thấy có mình mà không thấy người. Vì thế cho nên cái nghệ thuật của các ông nó chỉ ở trong những cái khuôn khổ nhỏ bé, cạn gần của từng cá nhân chớ không bao giờ diễn đạt nổi cái tình cảm, cái chí ý, cái nguyện vọng của một đại quần chúng giữa xã hội. Cái nghệ thuật của các ông là cái nghệ thuật của thiểu số. Các ông chỉ chăm chú, tìm kiếm, bươi xới những cái khuất mắt, cái bí ẩn trong quả tim non của mấy cô con gái ngây thơ đa cảm, hay tấm lòng riêng mấy cậu trai lịch lãm đa tình. Rồi các ông viết ra những pho tiểu thuyết dày hàng mấy trăm trang với những cái tiêu đề đẹp đẽ, nào là tâm lý tiểu thuyết, nào là ái tình tiểu thuyết, nào là cảnh thế tiểu thuyết. Sách ra đời, cả một giai cấp đủ ăn đủ mặc, sau những cuộc vui chơi, trong những giờ nhàn rỗi, ai vào mà mua mà đọc, rồi mặc sức mà khen, mà tán, mà phẩm bình, mà bắt chước những người trong truyện, cũng ngây thơ, cũng mơ mộng, cũng yêu đời, cũng vui đời, v.v... Do đó các ông hô to lên rằng các ông có công với xã hội, cái nghệ thuật của các ông là có giá trị, là hữu ích cho đời! Trần Độc Tú ở Tàu, phê bình các tác phẩm ấy như thế này: "Thì tôi cũng nhận là có giá trị, là hữu ích đấy chứ, vì nó vẫn là món để giải trí cho các tiểu thơ trong khuê các sau những giờ trang điểm". Câu nói của bác Trần tuy cay chua mà thật đúng.


V. Vài lời trung cáo

Giữa cuộc phân tranh của xã hội, trước những vấn đề sống còn của thời đại, nhân loại đương mong mỏi về phương diện tinh thần, một hạng nghệ sĩ biết diễn dịch được cái nỗi lòng của họ; làm sao mà những sự đau thương, sự mong mỏi, sự buồn giận, sự vui sướng trong tâm khảm họ đều vẽ nên thành những bức tranh linh hoạt chan chứa tình cảm. Nhà văn sĩ Gorki đã trở nên "một người yêu" của cả một thế giới là nhờ thế.

Trái lại, ai lấy nghệ thuật làm món "chơi riêng", lấy nghệ thuật làm nghệ thuật, lấy nghệ thuật làm bùa mê người, đều là vô tâm hay hữu ý đã nối giáo cho những cái lực lượng phản tiến hóa. Hạng nghệ sĩ ấy, xin lỗi ông Thiếu Sơn, là hạng nghệ sĩ gian trá, hạng nghệ sĩ quái quỷ vậy. Những tác phẩm của họ rồi sẽ theo với những cái chế độ xã hội hủ bại mà đồng bị đào thải đi vậy.


Báo Đời mới ngày 24-3-1935 & ngày 7-4-1935



[1]L'art c'est la systématisation des sentiments en images (Boukharine).
[2]Boukharine.
[3]Cái dấu (!) là của nhà xuất bản đánh.

Nguồn: Hải Triều, Về văn học nghệ thuật, Hồng ChÆ°Æ¡ng sÆ°u tầm và biên soạn, Nxb Văn Học, Hà Ná»™i 1965, tái bản lần thứ nhất 1969