© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcThơ và Thơ TrẻNghệ thuậtÂm nhạc
2.12.2004
Nguyá»…n Thanh Giang
Tản mạn về người viết Quốc ca Việt Nam
(Nhân 60 năm ngày nhạc sĩ Văn Cao viết Tiến quân Ca)
 1   2 
 
Chuẩn bị tiễn Văn Cao rời thành phố Hồ Chí Minh về Hà Nội hôm mồng 5 tháng 8 năm 1993, nhà thơ Đỗ Trung Quân có đêm đã hình dung thấy ở trên trời: “Ngày mai có một chuyến bay cất cánh, tóc ông và mây, cái nào trắng hơn?”.

Cho đến bây giờ, nhìn lên những đám mây trắng ấy, cũng thế, tôi như vẫn thấy một Văn Cao tiên phong đạo cốt lãng đãng đâu chốn Thiên Thai, trên một chiếc thuyền lan, dưới hoa, bâng khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền, để nghe gió hát trầm tiếng ca, tiếng phách ròn lắng xa. Để, trong cái ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian huyền ảo kia, Văn Cao dõi tìm về quê hương, và lại thấy:

Một cánh tay sông Hồng
Một cánh tay sông Lô
Hai cánh tay
như ôm Trung du

thấy:

Một nửa hình con trai
ngày
lấp lánh sắc cầu vồng
một nửa mình trăng
đêm
nằm nghiêng trên cát biển

(Quy Nhơn 1, 31.3.1985)

thấy:

Từ trời xanh
rơi
vài giọt tháp Chàm
quanh Quy Nhơn

(Quy Nhơn 3, 15.4.1985)

Thấy những làng tôi xanh bóng tre, mà dưới khóm lá lăn tăn lừng tiếng chuông, ban chiều, thường có

Vài ngôi nhà nho nhỏ
Vẫn ngày đêm lấp lánh

mang vết thương xưa
ngày đêm làm ngọc

(Quy Nhơn 1, 31.3.1985)

Ở đấy tháng năm ấp ủ

Giấc mơ của mái nhà
Giấc mơ của một người đang ngủ

(Giấc mơ, 5.1.1972)

… Vậy mà, Văn Cao ơi, sao ông vẫn không thôi khắc khoải
tôi không đi qua tôi
để lại gì?

(Không đề, 1967)

Không, ông đã để lại nhiều lắm.

Đến nỗi chúng tôi dù đi xa đến bất cứ xứ sở nào; dù rồi đây, sẽ nằm sâu trong ba thước đất, chợt vẳng nghe thơ, nhạc của ông, chợt hình dung lại những bức tranh của ông, chúng tôi vẫn cứ còn như đang đi qua suốt cuộc đời này da diết, vẫn cứ còn da diết lưu luyến những chiều chưa đi sao gió vương? nơi con suối mơ bên rừng thu vắng , nơi bát ngát một dòng Lô với Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một mầu khói thu… của ông, của tôi, của nhân dân Việt Nam, của cả thế gian này.

Làm sao ngợi ca ông cho xứng tâm tưởng tôi hằng tôn vinh ông. Chỉ xin có đôi dòng tản mạn thắp lên mấy nén hương trầm dâng tặng ông.


I.

Sinh ra tôi đã có Hải Phòng

Câu thơ mở đầu trường ca Những người trên cửa biển này Văn Cao viết năm 1956. Sau này Nguyễn Khoa Điềm phóng tác thành: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”. Không biết câu thơ là Sinh tôi ra… hay phải là Sinh ra tôi… thì mới đúng (Vì trong Tuyển tập thơ Văn Cao ông đề tặng nhà văn Sơn Tùng, tôi thấy ông chữa bằng viết tay: “Sinh ra tôi”, trong khi ở các tập sách khác đều là “Sinh tôi ra”). Dẫu sao, đọc câu thơ trên, nhiều khi tôi cứ lẫn lộn, không biết Hải Phòng đã sinh ra ông hay ông đã góp phần sinh ra Hải Phòng. Cũng như chúa Giêsu sinh ra trong máng cỏ, hay chính Người đã sinh ra hoa trái cho đời?

Ngày Văn Cao chào đời, Đầu nhà mới trồng cây mận. Thật hạnh phúc cho cây mận nào được sinh cùng với ông. Để rồi… đau buồn sao cho cây sấu già trước sân nhà ông bỗng cùng gẫy đổ ngày ông mất; lúc 4 giờ sáng mồng 10 tháng 7 năm 1995.

Tuổi thơ ông, Hải Phòng sao ảm đạm quá:

Gió biển thổi về trắng trời, trắng đất
Mười năm chưa nguôi nổi
Mái rạ bờ tre xưa
Cả cuộc đời chỉ thấy rơi nước mắt
Chỉ nghe tiếng thở dài

(Ai biết Hải Phòng là đâu, 1956)

Thời đó Hải Phòng chỉ đủ nuôi

Những cuộc đời sau bức tường xám xa,
lem nhem than khói
Những bức tường hàng chục năm mưa nắng
Trong từng ô từng cửa sổ của dãy phố ven sông
Từng căn gác nhỏ chênh vênh chiếc dây phơi quần áo
Từng cái hầm nhà lom nhom lửa bếp
Những lá thuyền chen chúc nép bên nhau
Qua chiếc lưới phơi thấp thoáng bóng người
Cả cuộc đời của những con hà long lánh
Bám chắc lấy chân cầu bao nhiêu năm trong bến…

(Những ngày báo hiệu mùa xuân, 1956)

Những con người cuối cùng tàn phế
Như những vỏ thùng dầu
Những đống than lò tắt lửa
Giạt ra bên ngoài thành phố
Đầu bờ cuối bãi lênh đênh

(Ai biết Hải Phòng là đâu, 1956)

Lớn lên, xa Hải Phòng, bỗng có ngày ông nhận được “Tin từ Hải Phòng lên, cho biết mẹ tôi, các em và các cháu tôi đang đói khổ. Bà đưa các cháu nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường đã để lạc mất đứa cháu gái con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như đôi mắt con mèo con. Có thể nó nằm trong đám người chết đói dọc đường năm ấy. Các anh tôi cũng đang chờ tôi tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký hoạ để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.” (Tại sao tôi viết Quốc ca)

Vậy mà ông vẫn quả quyết:

Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại
Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi

(Những ngày báo hiệu mùa xuân)

Thực ra Hải Phòng không phải quê gốc của ông:

Tôi không có quê hương
Nghe đâu như Thái Bình, Hà Nam, Phủ Lý
Như Nam Định

Ruộng đất mênh mông trong tiếng hát
Quê mẹ quê cha cách một vườn trầu

(Ai biết Hải Phòng là đâu)

Gia đình ông là một trong những dòng người tha phương đổ về cho Hải Phòng ngày một đô hội:

Những hàng ren hàng thêu Nam Định
Những thợ giỏi làng Hồ làng Bưởi
Những giọng ca hay nhất Bắc Ninh
Lũ lượt đi vào tỉnh

(Ai biết Hải Phòng là đâu)


II.

Thuở nhỏ lòng tôi hướng mãi…

Văn Cao họ Nguyễn, tên đầy đủ là Nguyễn Văn Cao. Ngày 15 tháng 11 năm 1923, Văn Cao cất tiếng khóc chào đời ở chân nhà máy nước Hải Phòng, trong một căn nhà nhỏ nhìn ra bến Bính. Cụ thân sinh lúc bấy giờ là giám đốc (thầy cai) nhà máy nước Hải Phòng. Cậu bé Văn Cao có thời từng được ôtô đưa đón khi học tiểu học ở trường Bonnal, Nhật đảo chính Pháp, trường đổi tên thành trường Bình Chuẩn. Sau một thời gian bị đóng cửa, tháng 11 năm 1948 trường được tái lập và mang tên Ngô Quyền .

Năm 1985, về dự kỷ niệm 65 năm thành lập trường cũ, Văn Cao đã ghi lai những ký ức học trò:

Ta về tóc râu đã bạc
Sân trường hơn nửa thế kỷ trôi
đâu bạn bè xưa một thời trọc lốc
trong bức ảnh cởi trần quần đùi

Thầy giáo khuất lâu rồi
làm sao còn khi ta cũng sắp
ơi ấu thơ những mảnh báo in thạch
ai trong đời còn lưu giữ dùm ta

Ngay từ năm học lớp Ba, Văn Cao đã cùng hai người bạn thân là Trần Liễn và Doãn Tòng hý húi nấu thạch làm tiêu bản in báo. Báo viết bằng mực tím, có số lượng đến mấy trăm bản. Tờ báo hấp dẫn đến nỗi vượt khỏi khối tiểu học, tán phát lên cả các lớp trung học.

Khi lên trung học, Văn Cao chuyển sang học trường Saint Josef (nay là trường bồi dưỡng giáo viên Hải Phòng). Ngoài giờ tới lớp, Văn Cao học võ với một người tên là Tú. Để luyện cho võ nghệ cao cường, người thanh niên mới lớn này, lúc thì nắm tay đấm vào tường huỳnh huỵch, lúc thì duỗi bàn tay thẳng đơ xọc vào thân cây chuối phập phập. Anh chàng còn bắt chước Tạ Duy Hiển dỗ dành cô Diệp -em gái út- đứng dang tay ép sát vào cánh cửa gỗ làm tiêu cho mình biểu diễn tài phóng dao găm chi chít quanh người.

Trước biển, chàng thanh niên chí thú ôn văn luyện võ đã mơ hồ những dự cảm lớn lao:

Thuở nhỏ lòng tôi hướng mãi
Theo những con tầu biển ra đi
Đến những đất đai tưởng tượng
Những người anh thuỷ thủ kể cho nghe
Nơi mọc đêm đêm những ngôi sao biển
Rực rỡ chân trời những hạt lưu ly

Tôi bơi như con cá dưới nước
Vẫn không bơi dài ra tới biển
Tôi theo những thuyền cá ra khơi
Vẫn chưa đi tới chân trời

(Ai biết Hải Phòng là đâu?)

Ở chàng thanh niên mới lớn đó, chắc hẳn không phải là lòng tự ty mà chính là sự tự thách đố. Cho nên, sau lời cảm thán:

Cố thét song lời tôi yếu quá
Ngựa đều chân chạy nhạc càng xa

(Ai về Kinh Bắc, 14.10.1941)

là những khẳng định quả quyết:
Ta ngày nay đợi từng mùa bình tĩnh
Như những người ươm cây
Hái hoa trái tự tay mình vun xới
……
Tôi giờ đây liếm môi nóng bỏng
Nhìn ra biển bao la
Lòng hãy còn nhiều khát vọng
còn rất nhiều khát vọng
Biến thành người khổng lồ kêu khát suốt ngày đêm

Là hoài vọng khôn cùng:

Nước ngọt của ngàn sông
Bao giờ đổ đầy lòng biển

(Những ngày báo hiệu mùa xuân)


III.

Chân dung người nghệ sĩ đa tài

Nhà thơ Thanh Thảo khi viết về Văn Cao đã như choáng váng, sũng sờ: “Trong một Văn Cao có quá nhiều Văn Cao: Văn Cao thơ, Văn Cao hoạ, Văn Cao hiệp sĩ, Văn Cao Quốc ca, Văn Cao rượu đế… Một Văn Cao đa tài, đa nguyên, đa nạn… Một Văn Cao lặng lẽ như chén rượu mỗi sớm, lặng lẽ như những dòng chữ lít nhít trong sổ tay, lặng lẽ như Thơ…”.

Không, Văn Cao không chỉ là một nghệ sĩ đa tài, nhà văn lão thành, giáo sư Đặng Thai Mai từng đánh giá: “Văn Cao là một viên ngọc trên bức khảm văn hoá - nghệ thuật của dân tộc Việt Nam”.

Phác hoạ cho được chân dung viên ngọc quý này thật khó. Chỉ xin ra dẫn ra đây mấy mảng ký hoạ của nhiều người đã gặp, đã cùng sống với Văn Cao:

Nhà văn Vũ Bằng: “Nói đến Văn Cao, ai cũng nhận là anh duyên dáng, quyến rũ người nghe chuyện từ buổi đầu gặp gỡ, và có những cử chỉ mã thượng dễ làm cho các cô gái yêu mến… Anh bé nhỏ, ốm như Thâm Tâm mà cũng cao hơn Thâm Tâm một chút, da hơi tai tái. Tóc anh xoã xuống trán như một cái lưỡi trai, bơ phờ rủ xuống cặp lông mày hơi rậm, mũi cao, tiếng nói rụt rè và nhỏ. Cổ anh nhỏ, và điều làm cho người ta lưu ý nhất là anh lộ hầu và mắt cũng hơi lộ nữa.”

Nhà thơ Vũ Cao: “…tôi thấy Văn Cao và Nguyễn Văn Bổng đang nằm trên một chiếc giường tre. Bỗng Văn Cao chăm chăm nhìn tôi hỏi: Nghe giọng ông có vẻ người Nam Định lắm nhỉ? Tôi nghĩ: chắc vì anh ấy là nhạc sĩ cho nên rất tinh khi nhận xét mọi thứ âm thanh. Xong, anh nhắc đến núi Hồ, làng Gạo, chợ Hầu, Trình Xuyên… Hoá ra anh với tôi là người cùng xã, chỉ khác thôn. Mà sao một cái thôn, cái xã nghèo khổ cơ cực như vậy, suốt nghìn năm không có lấy một ông Thám, ông Bảng nào, vậy mà bỗng chốc lại nẩy sinh ra một tài năng độc đáo như Văn Cao!”

Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo: “Đến bây giờ tôi vẫn nhớ giọng vang trong của ông đọc thơ trong quán rượu. Bài thơ Năm buổi sáng không có trong sự thật ông làm năm 1960 mà tôi tưởng ông vừa làm trong quán rượu năm 1980 này. Chúng tôi nghe như nuốt từng lời thơ ông vào tâm khảm. Khi ngấm rượu ông nói hay đến nỗi tôi có cảm giác là đang nghe ông trong giáo đường chứ không phải giữa chợ.”

Nhà văn Nam Dao: “Văn Cao ngẩng đầu lên, rướn thẳng người. Những nốt nhạc nhẩy nhót trên chín bậc thinh không. Văn Cao cúi xuống, những nốt nhạc chìm dần vào những vực sâu tưởng sẽ mất hút. Văn Cao gục xuống, tiếng đàn nghẹn lại tăm tích mơ hồ. Mắt anh đầy nước mắt. Bỗng Văn Cao vùng dậy, râu tóc dựng đứng. Râu tóc ấy đã bạc phơ, song cái xanh của con người trong anh dẫu có chút bóng đen của đêm tối, thì vẫn xanh. Tối hôm ấy, khi nắm tay Văn Cao tôi thấy ươn ướt, thì ra Văn Cao đánh đàn thế nào mà ngón tay ứa máu.”

Hoạ sĩ Tạ Tỵ: “Vào mùa đông năm 1948, trời bên ngoài đen như than, mưa phùn, gió bấc. Chiếc mền Mỹ mỏng teo làm chúng tôi rét không ngủ được. Văn Cao nằm giữa, ngâm bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc . Giọng ngâm làm da thịt tôi tê rợn. Nó âm u hơn cửa Địa ngục. Nó rờn rợn như thể có ai đang cầm một miếng mảnh chai cạo vào chiếc lóng tre khô. Nó ai oán thê lương hơn một bãi sa trường sau giờ tác chiến. Nó thấm vào hồn mình như từng giọt cường toan… Văn Cao là mẫu người đặc biệt. Với vóc dáng nhỏ nhắn. Với nụ cười lắng chìm không thành tiếng. Với hàm răng ngắn, đều. Với đôi mắt lạnh lùng dễ sợ lúc giận dữ và dịu hiền khi tâm hồn chìm du vào dòng suy tưởng… Từng bước khảng khoát, Văn Cao hiên ngang đi vào lòng mẹ Việt Nam và được tiếp nhận nồng hậu. Chưa ai nghĩ tới và tưởng tượng nổi một Văn Cao trước những đối nghịch lớn, chứa đựng trong cái vóc dáng khiêm nhường ấy. Người ta có thể coi là huyền thoại khi nói về một Văn Cao vẽ giấy bạc giả để chi dùng trong khi hoạt động túng thiếu, đến lúc hành vi bị lộ, đã rút súng colt 45 chĩa vào những người có mặt, bắt họ giữ nguyên vị trí để mình rút lui, rồi sau ngày 19 tháng 8, mang giấy bạc thật đến hoàn lại số tiền đã trả bằng bạc giả với đôi lời xin lỗi… Văn Cao uống hai chai đế, da mặt cứ tái đi và thái độ vẫn ung dung hoà nhã như chưa uống giọt nào. Lúc trước tôi đã nghe nói về tửu lượng và sức hút thuốc phiện của Văn Cao. Theo anh em, Văn Cao có thể hút sáu bẩy mươi điếu liền trong một tối và uống tối thiểu một chai cô-nhắc sếch. Lúc vui, tôi hỏi, Văn Cao xác nhận: “Đúng! moa uống và hút thế đó. Nhưng không nghiện thứ nào cả, có cũng vui, không cũng chẳng sao”. Nói xong Văn cười, nụ cười không thành tiếng, tôi chỉ nhìn thấy hàm răng trắng nhỏ đều lấp lánh bên ánh đèn dầu lửa…”

Nhà thơ Nguyễn Thuỵ Kha: “Đêm cuối xuân 1945. Gió rét. Hải Phòng chìm trong bóng tối. Một thanh niên nhỏ nhắn lạ mặt xuất hiện ở ‘vườn hoa đưa người’. Không ai biết đấy là Văn Cao. Cải trang từ Hà Nội, khi về Hải Phòng ập vào nhà Doãn Tòng, không ai nhận ra Văn Cao. Đêm nay, vẫn hình thù ấy, mặt mũi ấy, Văn Cao đến ‘vườn hoa đưa người’, trong ngực giấu một khẩu Colt to và một khẩu Browning bé xíu.”

Nhà điện ảnh Nguyễn Hà: “Điều quan ngại nhất, sức khoẻ của ông quá kém. Tuổi mới 70 nhưng trong mình ông chứa đầy bệnh tật đã thành mãn tính. Một đốt xương sống bị gẫy. Tim, gan, bao tử đều có chuyện. Huyết áp trồi trụt vô thường. Oái oăm, muốn bồi dưỡng thì ông lại biếng ăn. Ngày chỉ hai chén súp nhỏ hoặc vài ly sữa. Sức khoẻ chủ yếu được duy trì bằng mỗi bữa vài ly rượu tăm trong vắt. Cũng như Nguyễn Tuân xưa kia, ông bảo đấy là ‘tinh của gạo’.”

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Anh Văn ngồi. Ngồi ở sạp gỗ cũ kỹ như đã ngồi hàng trăm năm. Ngồi tóc bạc phơ, râu cũng bạc phơ. Chỗ ngồi đã mòn. Lưng dựa đã mòn. Ngồi như thế có ích gì, anh Văn… Cho đến bây giờ tôi vẫn bị ám ảnh bởi cái không khí ảm đạm, cô đơn của những mùa thu đông ở Hà Nội, với hình ảnh một Văn Cao ngồi một mình với cốc rượu trước mặt ngày này qua ngày khác. Anh ngồi đó mà như một sự vắng mặt trước cuộc sống. Ngồi hơn hai mươi năm như một cái bóng. Ly rượu cũng biến thành cái bóng. Cái bóng của hai người. Người và ly-rượu-người. Thân thiết và chia sẻ cùng nhau những nỗi đời riêng, hiu quạnh, không còn ai khác có thể san sẻ giùm.”


IV.

Ngoài kia lời non nước đang nhắc ta

Trên đây là câu mở đầu một ca khúc Văn Cao viết năm 1945, sau này được Tổng Công Đoàn chọn là bài ca chính thức của công nhân Việt Nam. Bài này được xếp vào bộ tứ bình ca khúc: Không quân Việt Nam, Bài ca chiến sĩ hải quân, Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam. Tất cả đều được sáng tác ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, năm 1945. Ông được suy tôn làm công nhân danh dự số một của Công ty Tem Việt Nam.

Từ ngày bị tỵ hiềm và mất chức, cụ thân sinh Văn Cao phải về mở cửa hàng chữa thuê máy nước hỏng, Văn Cao bắt đầu lam lũ, nhập vào đám con em thợ thuyền. Mười lăm tuổi, năm 1938, Văn Cao bỏ học vào làm điện thoại viên ở Sở Bưu điện ngay gần nhà. Chẳng bao lâu. chán cảnh làm viên chức quèn tù túng, Văn Cao rủ bạn bè lập nhóm du ca đi hát lang thang. Bài Buồn tàn thu, ca khúc đầu tay, mở đầu cho sự nghiệp âm nhạc của Văn Cao chính là ca khúc được sáng tác cho nhóm du ca này biểu diễn. Nhóm du ca lúc lên Hà Nội, lúc về Hải Phòng. Cảnh tình tha phương của một nghệ sĩ lưu lạc gian truân giúp Văn Cao tiếp xúc càng gần hơn với khổ nghèo, với cuộc đời muôn mặt. Nhìn vào đâu cũng thấy thê lương:

Những giỏ cơm lạnh ngắt nắm tro tàn
Xóm rợn mình người nằm đợi sang canh
Có tiếng khóc ở mấy nhà bên cạnh
Cửa ngõ mấy thây người đã lạnh

Thân xác xơ đói khổ sống âu sầu
Không đóm lửa chỉ chập chờn trăng chiếu

(Bến Ngự trên Thương cảng)

Về Hà Nội, ông thuê căn gác nhỏ số 171 Mongrant (nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền) nhìn sang phố Khâm Thiên, một căn gác ọp ẹp:

Nhà ta thuê mái gục tự mùa thu
Góc cô độc hương về phường Dạ Lạc

(Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, 1945)

Từ góc nhìn này, ông càng cảm thông sâu sắc với những kỹ nữ bị dày vò như cánh hoa tàn tạ:

Ai hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ
Thanh xuân hờ thanh xuân
Bước gần ta chút nữa thêm gần
Khoảng giữa tuổi thanh xuân nghe loạn trùng hút tuỷ

Trên đường tối đêm khoả thân khiêu vũ
Kèn nhịp xa điệu múa vô luân
Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm
Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc
Kiếp người tang tóc
Loạn lạc đòi nơi xương chất lên xương

(Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc)

Cho đến một đêm quá rùng rợn khi Văn Cao chợt nhìn vào đêm đen và bắt gặp một chiếc đèn bào leo lét đu đưa trên chiếc xe ba gác chở xác người chết đói kéo qua mà tiếng bánh xe xiết xuống lòng đường như nạo vào xương tuỷ mình:

Bánh nghiến nhựa đường nghe sào sạo
Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe

Trái tim thấm đẫm nhân văn của người nghệ sĩ lớn bỗng như quặn thắt, Văn Cao thốt lên vô thức:

Ta về gác chiếu chăn gào tự tử

Lời thét gào quằn quại bi tráng này về sau đã quật cường lên thành tuyên ngôn:

Giữa sự sống và sự chết
Tôi chọn sự sống
Để bảo vệ sự sống
Tôi chọn sự chết

(Chọn, 26.8.1957)

Rồi ông trở về Hải Phòng, quyết tâm trừ khử tên Việt gian tay sai cho Nhật.

Ông rủ Trần Liễn, một người bạn cùng học tiểu học, và Trần Khánh – em Trần Liễn, sau này trở thành một ca sĩ nổi tiếng của Đài Tiếng nói Việt nam – tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Trần Liễn đến trước chọn chỗ nằm hút ngay sau Đỗ Đức Phin. Dụ Phin hút thật phê, lúc ấy Văn Cao đột ngột tiến vào, có Trần Khánh hộ vệ. Trần Liễn đọc nhanh bản tuyên cáo và Văn Cao nổ súng trúng đầu tên Phin, Văn Cao phóng xe đạp về nhà Doãn Tòng cải trang rồi trốn biệt. Về Hà Nội ông còn bắn trượt Cung Đình Vận ở gần rạp hát cuối phố Huế.

Trước vụ ám sát Đỗ Đức Phin người ta còn nghi ngờ Văn Cao có dính líu đến vụ in và rải truyền đơn dẫn đến cái chết của một người tên là Nghiêm Xuân Huyễn. Nghiêm Xuân Huyễn, sước hiệu “Voi đen” nguyên là chủ hiệu ảnh Aristic ở phố Hàng Đàn. Tuy nhiên bên trong hiệu ảnh lại là toà soạn và nhà in của tuần báo “Rạng Đông” và một tờ báo trào phúng lấy tên là “Con Ong” do Tam Lang Vũ Đình Chí chủ biên. Ngoài việc in báo, ở đây còn in truyền đơn. Nguyễn Xuân Huyễn do vậy bị Nhật bắt và “xin âm dương” cho đến chết ở trong nhà lao. Không biết ngẫu nhiên hay do tâm giao đồng chí mà Văn Cao đã trở thành con rể của nhà cách mạng này.

Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Văn Cao tự mình chỉ huy đoàn thanh niên xung phong đồng ca bài Tiến quân Ca của mình.

Năm 1946 Văn Cao được cử cùng Hà Đăng Ấn chuyên chở vũ khí và tiền vào mặt trận Nam Bộ. Sau đó chính thức được mời tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc và được bầu là Uỷ viên Chấp hành.

Đầu năm 1947, ông được cử phụ trách một bộ phận điều tra đặc biệt của công an Liên khu 10 ở biên giới phía bắc. Tại đây ông được giao nhiệm vụ kết nghĩa với vua Mèo để lập ra một phòng tuyến bảo mật chống sự tràn sang của quân Tưởng khi thua trận.

Tháng 3 năm 1948, Văn Cao được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương.

Cuối năm 1949, Văn Cao thôi làm báo Văn Nghệ chuyển sang phụ trách Đoàn Nhạc sĩ Việt Nam.

Văn Cao dấn thân đi làm cách mạng với tâm niệm: “Càng tới gần cái cuộc sống đầy mâu thuẫn đấu tranh là càng như đi gần lại một kho thuốc nổ. Có người dao động và sợ hãi quay lưng lại. Có người vụng về mà làm nổ. Nhưng cũng có người can đảm biết làm nổ để mở đường.” (Mấy ý nghĩ về thơ). Từ đây, lời ông đã từng như hồi kèn thúc quân giục giã: … nước non đang chờ mong tay ngươi, hồn sông núi khí thiêng ghi muôn đời (Chiến sĩ Việt Nam).


V.

Nhạc sĩ, hoạ sĩ, nhà thơ. Tất cả đều tài danh

Với những Suối mơ, Thiên Thai, Tiến quân Ca, Bắc Sơn, Trường ca Sông Lô…, người ta thường nhớ đến Văn Cao như một nhạc sĩ tài ba. Thực ra, ông được học có lớp lang hơn, không phải về âm nhạc, mà là hội hoạ. Ông đã theo học hai năm ở trường Mỹ thuật Hà Nội, song, theo các hoạ sĩ cùng lứa như Lương Xuân Nhị, Tô Ngọc Vân, Tạ Tỵ, Nguyễn Đỗ Cung thì tuy Văn Cao chỉ học với tư cách thính giả tự do nhưng cũng đã tỏ ra một tài hoa kỳ lạ, khó tả trong môn phái lập thể. Văn Cao từng có những thành công không kém gì âm nhạc từ rất sớm. Tại triển lãm Salon Unique năm 1943 ở Nhà Khai trí Tiến Đức, ba bức tranh sơn dầu của Văn Cao đã từng được treo ở chỗ tốt nhất của phòng tranh và được các báo khen ngợi. Đặc biệt là bức tranh Le Bal aux suicidés (Cuộc khiêu vũ của những người tự tử). Ngoài ra còn có bột mầu Thái Hà ấp đêm mưa (1943), mầu dầu Sám hối nửa đêm (1944), mầu dầu Phố Nguyễn Du (1945), mầu dầu Lớn lên trong kháng chiến (1952)… Nhiều và nổi tiếng hơn là minh hoạ trên báo và bìa sách. Tranh minh hoạ của Văn Cao thường rất phóng khoáng với những nét đen dẹt, khoẻ. Ngựa và thiếu nữ trong các minh hoạ ấy rất độc đáo, trẻ trung, phảng phất chất sang trọng, quý phái. Những đường kỷ hà trong tranh Văn Cao hao hao như Kadinsky. Ông thường vẽ nhanh và nét bút vung mạnh, rất thần, rất thiền. Người ta cho rằng cái nhìn hội hoạ của Văn Cao có địa vị dẫn đường và chi phối. Những đề xuất của ông về một ngữ pháp mới cho đồ hoạ đến nay vẫn có khả năng khai thác và biến thể thành một thế hệ ngôn ngữ hội hoạ nữa. Tài năng hội hoạ của Văn Cao còn là một bí ẩn, chưa được khai thác, bộc lộ, và cũng chưa được làm sáng tỏ. Nói như nhà nghiên cứu Thái Bá Tân: “Nếu âm nhạc và thơ là một bản thể tươi tốt của anh, thì hội hoạ là một tri thức sâu sắc. Cách nhìn thế giới của anh nghiêng về hội hoạ. Là bởi phép viễn cận của các thời đại hội hoạ, là tiềm thức sâu kín của phối cảnh xã hội, nơi Văn Cao tỏ ra những nhạy bén về xúc cảm, và tinh tường trong quan sát.” (Văn Cao - người đi tìm cái đẹp).

Trong một Triến lãm Hội hoạ ở Liên khu Ba, Văn Cao gửi tham gia một bức sơn dầu mang tựa đề Cây đàn đỏ vẽ một người bộ đội ôm “Cây đàn chủ nghĩa”. Sau này Văn Cao còn treo một bức sơn dầu lập thể khác vẽ một cậu bé thổi sáo bằng hai cái mồm. Một cái được vẽ từ cách nhìn thẳng. Một cái được vẽ bằng cách nhìn nghiêng. Làm nền, phía sau cậu bé là đông nghịt những con người trong một tiết tấu đầy chuyển động của nhịp chiến tranh. Hai bức sơn dầu lập thể này đã gieo hoạ cho Văn Cao. Ông bị quy kết: hình thức lai căng, nội dung thì có vấn đề về tư tưởng!

Văn Cao nhiều lần tự định trước bạn bè: “Mình chưa bao giờ là nhạc sĩ cả”, nhưng, ngoài những ca khúc rất nổi tiếng, chỉ bằng tự học một cách hết sức kiên nhẫn, ông đã tiến tới viết cả nhạc không lời. Ông đã hoàn thành bản giao hưởng thính phòng Anh bộ đội Cụ Hồ ngay trước ngày giải phóng Miền Nam và một số tác phẩm khí nhạc cho piano như Sông Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa.

Ông viết nhạc cho cuốn phim Đi bước nữa, phim Chị Dậu, phim Lửa rừng và vở kịch Vào tuyến của Tất Đạt. Nét độc đáo là ở vở kịch này, ông cho 4 cây ghi-ta chơi từ đầu đến cuối. Ngoài Vào tuyến ông còn soạn nhạc cho các vở: Gió xoay chiều, Ta-nhi-a, Lịch sử và nhân chứng, Chỗ đứng…; cho vở cải lương Những người quyết tử do đoàn Kim Phụng dàn dựng. Song, không thể không nói đến vở kịch đầu tiên Văn Cao viết nhạc là vở Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng. Bài hát Bắc Sơn với ca từ bi tráng: Khi nhìn châu xưa bóng cờ mấy ánh sao vàng. Đồn cao vách đá nép mây huy hoàng không chỉ rền vang khắp miền rừng núi ngàn tiếng hú căm hờn suốt những năm dài kháng chiến mà còn được hát vang nhiều lần trong các đêm biểu diễn vở kịch này ở Nhà Hát Lớn thủ đô. Nguyễn Huy Tưởng sau đó nhiều lần đã bàn định với Văn Cao làm nhạc cho vở Vũ Như Tô của mình. Tiếc thay, chưa kịp xúc tiến thì Nguyễn Huy Tưởng đã mất sớm - ngày 25 tháng 7 năm 1960.

Nhà hát Cải lương Việt Nam thì coi Văn Cao là người góp công lớn sáng lập ra mình vì ông đã có công giữ được bà Dịu Hương, ông Năm Ngũ… trong một tổ chèo hồi còn ở chiến khu.

Năm 1959, chuyển về công tác ở Ban Nghiên cứu Âm nhạc thuộc Bộ Văn hoá, ông đã biên soạn công trình nghiên cứu Điệu thức năm cung trong dân ca đồng bằng và trung du Băc Bộ. Ở đây ông đã có một đóng góp quan trọng qua luận điểm: Điệu thức Do Re Fa Sol La là điệu thức gốc trong dân ca đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Ở đó, âm quãng bốn của điệu thức (tức âm Fa) đóng vai trò chủ âm nằm ở bụng điệu thức.

Thơ Văn Cao cũng có vị trí nhất định trong thi đàn Việt Nam.

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo viết: “Những bài thơ của ông khiến chúng tôi nổi da gà, kinh ngạc vì thán phục. Thơ ông đẹp một cách quyết liệt. Thơ ông thật đến siêu thực. Thơ ông mới, bất ngờ như mầm cây vừa đội đất trồi lên.”

Nhà thơ Nguyễn Thuỵ Kha: “Thơ anh không ồn ào. Chỉ những người mặc cảm về sự tẻ nhạt của mình mới ồn ào. Thơ Văn Cao là những khoảnh khắc lắng xuống dưới tiếng động. Người hời hợt, ham sự kiện có lẽ không hợp với thơ anh. Không bày tiệc mời, thơ anh là những viên tăng lực cho con người giữa đời sống cần lao, nhọc nhằn. Nó trụi trần nhưng không thô thiển. Nó đẹp nhưng không diêm dúa. Nó lắng buồn nhưng không chán nản. Thi pháp Văn Cao thật khó bắt chước nhưng tạo được ảnh hưởng mạnh tới thế hệ trẻ.”

Nhà thơ Thanh Thảo: “Cái nhìn của Văn Cao trong thơ, nhiều lúc, là cái nhìn của một hoạ sĩ, nó bắt được cái thần của đối tượng chỉ qua vài nét phác. Sự giản lược tối đa, những khoảng trống, những khoảng lặng, tự làm khô lại như một củ huệ, lan chờ lúc bật mầm. Thơ Văn Cao gợi nhớ đến J. Ritsos hay thơ N. Hikmet. Đó là thơ của những người chỉ có một khoảng không gian hẹp trong đời sống, những người phải dè xẻn lương thực, những cây xanh phải tận dụng đến từng chiếc lá của mình để phát điện.”

Nhà thơ Hoàng Cầm: “Đêm ấy tôi đọc hết bài thơ dài Những người trên cửa biển. Có những câu đầy khí thế, rất Văn Cao, ứ đọng những tư tưởng mới, những cách nhìn mới về xã hội, về con người, về thành phố cảng.”

Giáo sư Hoàng Như Mai thì khái luận: “Văn Cao không nói nhân văn hiền từ như lời thuyết pháp của nhà truyền đạo hay ôn hoà như lời giảng bài của giáo sư. Anh nói nhân văn và nói mãnh liệt, quyết liệt, tính cách của tác giả Tiến quân Ca.”

Về văn, Văn Cao có đăng một vài truyện ngắn. Trước Cách mạng ông có một phóng sự tả về đời sống công nhân các nhà máy ở Hải Phòng nhưng tờ Tiểu thuyết Thứ Bẩy không đăng có lẽ vì tính chất tố cáo quá mạnh của bài báo. Năm 1948, Văn Cao có viết một vở kịch mang tên Cái hầm sống.

Ngoài thiên chức một nghệ sĩ lớn, Văn Cao còn là một nhà tư tưởng rất có tư chất khoa học. Đây là tuyên ngôn cổ suý mạnh mẽ tư duy sáng tạo đối với con người của ông: “Người ta yêu những người cố mở đường mà thất bại, yêu những người biết thất bại mà dám mở đường… Hôm nay, con đường lớn nhất của chúng ta là mở cho tất cả những giấc mơ, những khát vọng thuộc về sự sáng tạo của con người tự do phát triển bay đi xe mật về ổ. Mở cho những giấc mơ, những khát vọng tự do phát triển bao nhiêu là tập trung tất cả giấc mơ và khát vọng của con người làm thành mũi nhọn kéo lê đi phía sau cái thực tế chậm chạp ” (Mấy ý nghĩ về thơ).

© 2004 talawas