© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
6.1.2005
Michel Houellebecq
Hạt cơ bản
Tiểu thuyết (11 kỳ)
Cao Việt Dũng dịch
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11 
 
22.

Saorge - Bến cuối

Thông tin quảng cáo, quá chú trọng việc hấp dẫn thị trường những người trẻ, thường xuyên lạc vào các chiến lược trong đó tuổi tác bị xem xét bằng cao ngạo, hài hước và nực cười. Ðể bù lại thiếu sót đó của xã hội, cần biến mỗi người bán hàng thành một đại sứ đối với những người có tuổi.
(Corinne Mégy - Khuôn mặt thật của những người quan trọng)


Có thể tất cả những cái đó phải kết thúc như vậy; có thể không có cách nào khác nữa, không có lối thoát nào khác. Phải cởi bỏ những gì đang rối tinh, hoàn thành cái đã được khởi đầu. Vì thế, Djerzinski phải đến nơi tên là Saorge, ở 44o vĩ tuyến Bắc và 7o30 kinh tuyến Ðông; ở độ cao hơn 500 mét một chút. ở Nice anh đến khách sạn Windsor, khách sạn hơi sang có bầu không khí xấu xa mà một trong những căn phòng được trang trí bởi nghệ sĩ tầm thường Philippe Perrin. Buổi sáng ngày hôm sau anh đi tàu Nice - Tende, được đặt tên như vậy nhờ vào vẻ đẹp của nó. Tàu đi qua vùng ngoại ô phía Bắc của Nice, với những HLM cho người ả rập, những áp phích quảng cáo Minitel hồng và tỉ lệ 60% người bầu cho Mặt trận quốc gia. Sau bến Peillon-Saint-Thècle, anh đi vào trong một đường ngầm; ra khỏi hầm, trong ánh sáng chói chang, Djerzinski nhận ra bên tay phải dáng vẻ ấn tượng của làng treo Peillon. Khi đó họ đi qua cái người ta gọi là sân sau của Nice; nhiều người đến từ Chicago hay Denver để ngắm nhìn vẻ đẹp của sân sau Nice. Sau đó con tàu chìm đắm vào các vách núi của Roya. Djerzinski đi xuống ga Fanton-Saorge; anh không có hành lý; đang là cuối tháng Năm. Anh xuống ga Fanton-Saorge và đi bộ chừng nửa giờ. Giữa đường, anh phải đi qua một hầm ngầm, trong đó không hề có ôtô.

Theo sách Hướng dẫn du lịch mà anh mua ở sân bay Orly, làng Saorge, với những ngôi nhà cao xây theo kiểu bậc thang, chiếm lĩnh thung lũng với vách dựng ngược, “có nét gì đó của Tây Tạng”; điều đó là rất có thể. Anh luôn biết đó là nơi mà Janine mẹ anh, đã tự đổi tên thành Jane, chọn để chết, sau năm năm sống ở Goa, trong phần phía Tây của bán đảo Ấn Ðộ.

«Cuối cùng bà ta đã chọn nơi đây, chắc chắn bà ta không chọn nó để chết», Bruno chữa lại. «Có vẻ như là con đĩ già đã chuyển sang đạo Hồi - theo huyền thoại thánh tử nạn, một trò ngu xuẩn theo kiểu đó. Bà ta ở đó với một lũ lập dị sống trong một ngôi nhà đơn độc ngoài làng. Vì báo chí không nói đến nữa người ta cứ tưởng bọn lập dị và hippie đã biến mất. Nhưng thực ra càng ngày chúng càng đông đảo, với nạn thất nghiệp số lượng chúng đã tăng lên đáng kể, thậm chí người ta còn có thể nói chúng đang nhung nhúc ô nhiễm. Anh đã thực hiện một điều tra nho nhỏ...» Anh xuống giọng. «Trò của chúng là chúng tự gọi mình là những nông dân mới, nhưng trên thực tế chúng thì gieo trồng được gì, chúng chỉ muốn chạm tay được vào RMI [1] và một thứ trợ cấp dở hơi nào đó dành cho nông nghiệp miền núi thôi.» Anh lắc đầu vẻ kinh nghiệm, uống một hơi hết cốc rượu và gọi thêm cốc nữa. Anh đã hẹn với Michel ở Chez Gilou, quán cà phê duy nhất của làng. Với những chiếc bưu ảnh nguệch ngoạc của mình, những bức ảnh hoa quả đóng khung và tấm áp phích “Quả bóng vùng Saorge” (mà hội đồng quản trị không vượt quá mười bốn thành viên), nơi này gợi nên một cách hoàn hảo cái không khí “Ði săn - Câu cá - Thiên nhiên - Truyền thống”, với những điểm trái ngược của phong trào Woodstock mới, bị Bruno đả kích kịch liệt. Rất thận trọng, anh rút từ trong cặp tài liệu của mình một tờ truyền đơn có viết ÐOÀN KẾT VỚI NHỮNG CON CỪU BRIGASQUES! «Anh đã đánh nó đêm qua...», anh nhỏ giọng nói. «Hôm qua anh đã bàn bạc với những người nuôi thú. Họ không thoát ra nổi, họ căm thù, cừu của họ đúng là bị tàn sát. Ðó là do những nhà sinh thái và Công viên quốc gia Mercantour. Họ đã đưa chó sói trở lại, nhiều đàn sói. Chúng ăn thịt cừu!...» Giọng anh đột ngột lại to lên, anh đột nhiên òa lên khóc. Trong bức điện gửi Michel, Bruno chỉ nói là anh đã trở lại bệnh viện tâm thần ở Verrières-le-Buisson, “có khả năng là vĩnh viễn.” Cho nên có vẻ như là họ đã để anh ra ngoài đợt này.

«Thế ra mẹ chúng ta đang chết rồi...» Michel ngắt lời, lo lắng để cập việc đó.

«Rõ rồi! Ở Cap d’Agde cũng như vậy, có vẻ như là người ta đã cấm công chúng đến vùng có những đụn cát. Quyết định được đưa ra dưới sức ép của Hiệp hội bảo vệ bờ biển, hoàn toàn nằm trong tay mấy thằng sinh thái. Những người đó có làm gì xấu đâu cơ chứ, họ làm tình tập thể một cách thân ái; nhưng có vẻ như việc đó làm phiền mấy con nhạn biển. Nhạn biển, đó là một biến thể của chim sẻ piaf. Chó chết chim sẻ!”. Bruno sôi sục. “Họ muốn ngăn bọn anh làm tình tập thể và ăn phó mát cừu, đúng là bọn nazi. Những tay xã hội là đồng phạm. Bọn họ chống lại cừu vì cừu đứng về cánh hữu, trong khi chó sói thuộc cánh tả; tuy nhiên chó sói rất giống với những người chăn thú Ðức, những người cực kỳ hữu khuynh. Tin ai bây giờ?” Anh buồn bã lắc đầu.

“Em ở khách sạn nào ở Nice?” Ðột nhiên anh hỏi.

“Ở Windsor.”

“Sao lại ở Windsor?” Bruno lại bắt đầu nổi điên. “Giờ em lại thích thú mấy cái trò sang trọng đó à? Em bị sao thế? Cá nhân mà nói (anh nhấn mạnh những câu này với một sức mạnh ngày càng tăng), anh vẫn trung thành với các khách sạn Mercure! Ít nhất em cũng phải tìm hiểu chứ? Em có biết là khách sạn Mercure “Vịnh Thiên thần” có một hệ thống giá rẻ tăng giảm theo mùa không? Mùa vắng khách, giá phòng chỉ có có 330 franc thôi! Giá của một khách sạn hai sao đấy nhé! Tiện nghi thì đầy đủ như ba sao, nhìn thẳng xuống lối đi dạo kiểu Anh và một phòng phục vụ 24 trên 24!” Giờ đây Bruno gần như hét lên. Dù nhận thấy thái độ có vẻ hơi kỳ quặc của khách hàng của mình, ông chủ của Chez Gilou (ông ta có tên là Gilou không? có vẻ lắm) vẫn chăm chú lắng nghe. Những câu chuyện tiền bạc và mối quan hệ chất lượng - giá cả luôn hấp dẫn rất nhiều người, ở họ đó là một nét tính cách quan trọng.

“A thằng Bờm đây rồi!” Bruno nói giọng vui nhộn, đã thay đổi hoàn toàn, lấy tay chỉ một chàng trai vừa đi vào quán. Anh ta vào khoảng hai mươi tuổi. Mặc một chiếc áo lưới mắt cáo quân đội và một chiếc áo phông Greenpeace, anh ta có nước da tai tái, tóc đen cuộn lại và những búi nhỏ, tóm lại anh ta theo phong cách rasta [2] . “Chào Bờm”, Bruno vui vẻ nói. “Tôi xin giới thiệu em trai tôi. Chúng ta đi thăm bà già chứ?” Người kia đồng ý mà không mở miệng lấy một lần; rồi vì một lý do nào đó anh ta có vẻ quyết định không trả lời lại những lời khiêu khích.

Con đường rời khỏi làng và hơi lên dốc, hướng về phía nước ý. Sau một ngọn đồi cao họ đi vào trong một thung lũng rất rộng, sườn đầy cây; biên giới chỉ cách có chục cây số. Về phía Ðông, có thể nhìn thấy vài đỉnh núi tuyết phủ. Khung cảnh, hoàn toàn trống không, tạo cảm giác về sự rộng lớn và thanh thản.

“Bác sĩ đã đến rồi”, Hippie-da-đen nói. “Không thể chuyển bà ấy đi được, dù sao cũng không còn việc gì mà làm nữa rồi. Ðó là luật của tự nhiên...”, anh ta nghiêm túc nói.

“Nghe thấy chưa?” Bruno châm chích. “Em nghe thấy thằng nỡm này nói gì chưa? “Tự nhiên”, chúng luôn thường trực trên miệng cái từ đó. Giờ đây bà ta bị ốm chúng mới cuống lên cho bà ta chết béng đi, như một con thú trong lỗ. Ðó là mẹ tôi đấy, Bờm ạ! anh nói rất hùng biện. Cậu đã thấy look [3] của bà ấy chưa? anh tiếp tục. Những người khác cũng thế thôi, còn tệ hơn là khác. Họ thật đáng bực mình.”

“Cảnh đẹp thật, đằng kia kìa...”, Michel lơ đãng trả lời.

Ngôi nhà rộng và thấp, bằng gạch thô, mái lợp đá; nó nằm cạnh một con suối. Trước khi vào nhà, Michel lôi từ trong túi ra chiếc máy ảnh Canon Prima Mini (ống zoom có thể tụt ra tụt vào 38-105 mm, 1 290 franc mua ở FNAC). Anh quay một vòng nhìn quanh, nhắm rất kỹ trước khi bấm máy; rồi anh quay lại chỗ những người khác.

Ngoài Hippie-da-đen, người ở căn phòng chính là một người trông không rõ mặt, tóc hoe vàng, có vẻ rất Hà Lan đang ngồi gần lò sưởi đan một chiếc khăn choàng và một tay hyppie già hơn, tóc dài màu ghi, bộ râu mỏng cũng màu ghi, khuôn mặt thuôn dài thông minh. “Bà ta ở đó...”, Hippie-da-đen nói; anh ta rút kéo tấm vải che và dẫn họ vào phòng kế bên.

Michel chăm chú quan sát cái con người tóc hơi nâu, nằm rũ rượi ở góc giường, đang giương mắt nhìn khi họ bước vào phòng. Dù sao đây cũng mới chỉ là lần thứ hai anh gặp mẹ mình, và gần như chắc chắn đây sẽ là lần cuối cùng. Ðiều làm anh sửng sốt ngay tức khắc là vẻ gầy guộc khủng khiếp của bà, khiến mặt bà nhô ra, tay chân thõng thượt. Nước da rất xấu, xạm vào, bà thở khó nhọc, rõ ràng bà đã xuống dốc đến tận cùng; nhưng phía trên chiếc mũi khoằm đôi mắt vẫn rực sáng, mênh mông và trắng ra trong bóng tối. Anh thận trọng lại gần bóng người đang nằm đó. “Khỏi cần đi», Bruno nói, «bà ta nói được mà.” Có lẽ bà không thể nói được nữa, nhưng chắc vẫn còn có ý thức. Bà có nhận ra anh không? Hẳn là không. Có lẽ bà nhầm anh với bố anh; điều đó thì rất có thể. Michel biết là anh rất giống bố mình khi trạc tuổi anh. Và dù sao, nói gì thì nói, một số người vẫn đóng vai trò nào đó rất lớn trong cuộc đời bạn, ghi dấu ấn chắc chắn lên bạn; những người đó chia cuộc đời bạn thành hai nửa rất rõ rệt. Và với Janine, đã đổi tên thành Jane, đã có một trướcsau bố của Michel. Trước khi gặp ông về bản chất bà chỉ là một người phụ nữ thuộc tầng lớp tư sản sống phóng đãng và hời hợt; sau khi gặp ông bà trở thành cái gì đó khác hẳn, mang tính thảm họa hơn. Cái từ “gặp gỡ” dù sao cũng chỉ là một cách nói; bởi thực ra không có gì lắm để nói về gặp gỡ. Họ giao nhau trong đời, họ đã sinh con đẻ cái, chỉ thế thôi. Sự huyền bí là bản chất của Marc Djerzinski, bà không sao hiểu nổi; thậm chí bà còn không thể tiếp cận được ông. Liệu vào giờ phút lâm chung cuộc đời tai họa của mình bà có nghĩ đến điều đó? Không, hoàn toàn không thể. Bruno cựa quậy dữ dội trên chiếc ghế cạnh giường bà. “Bà chỉ là một con điếm già...», anh lên giọng rao giảng. «Bà xứng đáng teo.” Michel ngồi xuống trước mặt anh, ở đầu giường, châm một điếu thuốc. “Bà có muốn được thiêu xác không?» Bruno sôi nổi tiếp tục. «Bà sẽ được thiêu xác khi đến lúc. Tôi sẽ đặt tất cả những gì còn lại của bà vào một cái hũ, và cứ sáng sáng khi tỉnh dậy, tôi sẽ đái vào tro tàn của bà.” Anh lúc lắc đầu khoái trá; Jane để bật ra một tiếng rên từ cái cổ họng khàn đặc. Hippie-da-đen xuất hiện. “Các anh muốn uống gì không?”, anh ta đề nghị giọng lạnh lùng. “Có chứ anh bạn quý!”, Bruno hét lên. Thế mà cũng phải hỏi. Làm tí rượu đi, Bờm!” Anh chàng trẻ tuổi đi ra và trở lại với một chai whisky và hai cái ly. Bruno rót thật nhiều rượu và uống ngụm đầu tiên. “Xin lỗi nhé, anh ấy hơi bối rối...“, Michel nói, giọng nhỏ hẳn xuống. „Ðúng đấy“, người anh cùng mẹ khác cha của anh khẳng định. „Ðể chúng tôi buồn một mình đi, Bờm.” Anh cạn một hơi hết cốc rượu. “Bọn chúng lúc nào cũng dính vào nhau, lũ pê đê ấy...“, anh nhận xét. „Bà ta đã cho chúng hết cả, và chúng biết rõ rằng con bà ấy không được xơ múi nào hết. Nếu chúng ta kiện đòi gia tài, chắc chắn sẽ được đấy.” Michel im lặng, anh không muốn tranh cãi về vấn đề này. Một lát im lặng khá lâu. Cả ở phòng bên cũng không ai nói năng gì; nghe rõ tiếng thở khàn và yếu dần đi của người hấp hối.

„Bà ấy chỉ muốn trẻ mãi thôi...“, Michel nói, giọng mệt mỏi và bao dung. „Bà ấy muốn gần gũi với những người trẻ tuổi, nhưng nhất thiết không phải con của mình, vì chúng nhắc nhở bà thuộc thế hệ cũ. Ðiều này không khó giải thích, không khó hiểu tí nào. Bây giờ em muốn đi. Anh nghĩ là bà ấy sắp chết không?“

Bruno nhún vai vẻ bất cần. Michel đứng dậy và đi sang phòng khác; Hippie-da-nâu đang ngồi một mình gọt vỏ cà rốt biến đổi gen. Anh muốn hỏi bác sĩ đã nói gì về bệnh tình; nhưng lão cựu thành viên ngoài lề xã hội chỉ cung cấp những thông tin mơ hồ không đầu không đũa. “Ðó là một người đàn bà tỏa sáng...“, ông ta nhấn mạnh, „tay vẫn cầm củ cà rốt.” Ông ta định nói gì? Không cần thiết phải đi sâu vào chi tiết. Chắc chắn lão đần độn già nua này không nói nổi cho gãy gọn một câu; lão ta chỉ phát ra âm thanh lùng bùng trong miệng. Michel sốt ruột quay đi, trở lại chỗ Bruno. “Những người hippie ngu xuẩn đó...“, anh ngồi xuống và nói, „vẫn cứ tin rằng tôn giáo là một bước đi cá nhân dựa trên suy tưởng, tìm kiếm về tinh thần vân vân và vân vân. Bọn họ không đủ khả năng để nhận ra rằng thực ra ngược lại đó là một hoạt động thuần túy mang tính xã hội, dựa trên sự cố định, nghi lễ, nguyên tắc và lễ lạt. Theo Auguste Comte [4] , tôn giáo chỉ có một vai trò duy nhất là đưa nhân loại đến một trạng thái tập hợp hoàn hảo”.

„Auguste Comte cái đầu mày!“, Bruno giận dữ ngắt lời. „Kể từ lúc chúng ta không còn tin vào cuộc sống vĩnh cửu thì làm gì còn có thứ tôn giáo khả dĩ nào nữa. Và nếu xã hội không thể không có tôn giáo như mày nghĩ, thì cũng không thể có xã hội. Mày làm tao nghĩ đến bọn xã hội học bịa ra rằng sự tôn thờ tuổi trẻ là một món mốt thoáng qua nảy sinh trong những năm năm mươi trước khi đạt tới đỉnh điểm vào những năm tám mươi này nọ. Trên thực tế con người luôn luôn bị cái chết làm cho sợ xanh mắt mèo, nó có bao giờ nghĩ đến cái chết của bản thân, cũng như sự già đi của mình, mà không sợ hãi được đâu. Trong số tất cả của cải của trái đất, sự trẻ trung về thân thể rõ ràng là cái quý giá nhất. Và đến giờ chúng ta chỉ còn tin vào các thứ của cải của trái đất. “Nếu Christ không phục sinh”, thánh Paul đã thẳng thắn nói, “thế thì lòng tin của chúng ta hóa ra công cốc”. Christ đã không phục sinh; ông ta đã thua trong cuộc chiến chống cái chết. Tao từng viết một kịch bản phim kiểu thiên đường về đề tài Jérusalem mới. Phim diễn ra trên một hòn đảo chỉ có đàn bà cởi truồng và những con chó nhỏ. Sau một thảm họa sinh học đàn ông biến mất hết, và gần như toàn bộ các loài vật khác cũng vậy. Thời gian dừng lại, khí hậu lúc nào cũng ổn định và dễ chịu; cây cối ra quả quanh năm. Ðàn bà lúc nào cũng hơ hớ và trẻ trung, bọn chó nhỏ lúc nào cũng vui vẻ và sống động. Ðàn bà tắm rửa và vuốt ve nhau, bọn chó nhỏ chơi bời và đùa nghịch bên cạnh họ. Chúng có tất cả các màu và đủ hết các chủng loại: có chó bông, chó phốc, chó grifông Bruxelles, chó Shi-Tzu, chó cavalier King Charles, chó Yorkshire, chó con lông xoăn, chó miền Tây và chó săn thỏ. Con chó to duy nhất là một con labrador, khôn ngoan và dễ chịu, đóng vai trò quân sư cho những con khác. Dấu vết duy nhất của giống đực là một chiếc băng video chiếu một cảnh có thủ tướng Edouard Balladur; cuốn băng đó có tác dụng an thần cho một số phụ nữ và phần lớn chó. Cũng có một cuộn băng tên là Cuộc sống loài vật, do Claude Darget đọc lời bình; người ta không bao giờ xem cuộn băng đó, nó chỉ có tác dụng lưu giữ ký ức và ghi lại dấu ấn về sự man dã của các thời kỳ trước.“

„Thế là người ta đã để anh viết...“, Michel dịu dàng nói. „Anh không ngạc nhiên về điều này. Phần lớn các bác sĩ thần kinh khá coi trọng những điều điên rồ do bệnh nhân của họ viết ra. Họ cũng không cho chúng là có giá trị chữa bệnh; nhưng họ nghĩ việc này luôn luôn làm bận đầu óc và như thế thì tốt hơn là lấy dao lam rạch động mạch cổ tay.“

„Nhưng vẫn có những bi kịch nho nhỏ trên đảo“, Bruno nói tiếp giọng xúc động. „Chẳng hạn một hôm một con chó đi chơi quá xa và bị ngã xuống biển. May mà chủ của nó nhận ra là nó đang gặp khó khăn, cô ta nhảy lên một chiếc thuyền, chèo thật nhanh ra và vừa vặn cứu được con chó. Con chó nhỏ bị uống quá nhiều nước, bị ngất và có thể nghĩ là nó sẽ chết; nhưng chủ nó hồi sức nhân tạo và cứu được nó, câu chuyện kết thúc êm đẹp và con chó lại vui vẻ trở lại.” Anh đột ngột im lặng. Giờ đây anh có vẻ thanh thản, gần như là đang nhập định. Michel không gây tiếng động nào nữa. Ðã gần trưa; không gian đặc biệt yên ắng. Anh đứng dậy, quay về phòng chính. Hippie-da-nâu đã đi mất, vứt lại mấy củ cà rốt đang gọt dở. Anh uống một cốc bia và đi ra cửa sổ đứng. Từ đó nhìn ra được hàng cây số những sườn đồi phủ thông. Giữa những ngọn đồi tuyết phủ, từ xa có thể nhìn thấy lóng lánh một hồ nước. Bầu không khí dịu dàng và đầy hương vị; đó là một buổi sáng đẹp trời mùa xuân.

Anh đứng đó một lúc lâu không biết bao nhiêu thời gian, thả lỏng hoàn toàn, nhẹ nhàng trôi nổi trên những ngọn đồi, bỗng anh bị lôi giật lại thực tế khi nghe thấy một tiếng hét. Phải mất mấy giây anh mới nghe rõ được các âm thanh, anh vội lao về căn phòng. Vẫn ngồi ở chân giường, Bruno đang hát rất to:

Chúng đã tới, chúng luôn ở đây
Ngay khi nghe tiếng kêu này
Bà ta sẽ chết baaaaaaaaà Meeeeeeeeẹ...

Tiền hậu bất nhất; tiền hậu bất nhất, nhẹ dạ và hay làm hề, đàn ông ai cũng thế. Bruno đứng dậy để hát to hơn đoạn sau:

Chúng đã tới, chúng luôn ở đây
Cả những kẻ ở miền Nam nước ý
Lại có cả Giorgio đứa con bị nguyền rủa
Quà cáp đầy trên tayyyyyyy...

Trong sự lặng yên tiếp theo màn trình diễn, người ta nghe thấy rõ tiếng một con muỗi bay ngang qua phòng trước khi đậu xuống mặt Jane. Những loài sâu bọ có cánh được đặc trưng hóa bởi một đôi cánh duy nhất mọc ra từ vòng thứ hai của cổ, từ một đôi ván thăng bằng, và từ những ô miệng để hút hoặc để châm. Vào lúc con muỗi dạo chơi trên khoảng mắt, Michel nghi ngờ một điều gì đó. Anh lại gần Jane nhưng không chạm vào bà. “Em tin là bà ấy chết rồi”, anh nói sau khi xem xét một lúc.

Bác sĩ nhanh chóng khẳng định dự đoán đó. Ông ta đi cùng một nhân viên của tòa thị chính, và mọi vấn đề bắt đầu nảy sinh. Muốn chuyển cái xác đi đâu? Vào hầm mộ gia đình chăng? Michel không biết gì hết, anh cảm thấy kiệt sức và rối trí. Nếu họ biết cách duy trì các quan hệ gia đình nồng ấm và thân thiết, họ sẽ không phải ở trong tình trạng như thế này - tìm cách che đậy sự lố bịch trước mặt người nhân viên tòa thị chính đang tỏ ra hết sức đúng mực kia. Bruno không mảy may quan tâm đến chuyện đó, anh đang chơi một ván xếp hình trên chiếc máy trò chơi bỏ túi của mình. “Ðược rồi“, người nhân viên nói, „chúng tôi đề nghị chôn bà ấy tại nghĩa trang Saorge. Hơi xa một chút, nhất là vì các anh không phải người trong vùng, nhưng xét về mặt vận chuyển thì rõ ràng như thế là rất tiện. Lễ mai táng có thể tiến hành ngay buổi chiều nay, vào thời điểm này chúng tôi cũng không có nhiều việc lắm. Tôi cho là xin giấy phép chôn cất sẽ không gặp vấn đề gì đâu... - Không có vấn đề gì hết! viên bác sĩ nói, vẻ nồng nhiệt có phần hơi thái quá. Tôi mang theo mẫu đây...” Ông ta giơ một chiếc hộp đựng giấy nhỏ, đi kèm một nụ cười phóng khoáng. “Mẹ nó chứ, chết rồi...” Bruno kêu lên khe khẽ. Chiếc máy chơi điện tử của anh phát ra một điệu nhạc vui. “Ông Clément, ông cũng đồng ý về việc chôn cất chứ?“, người nhân viên gằn giọng nói. „Hoàn toàn không!“, Bruno nhảy phắt dậy. „Mẹ tôi muốn được thiêu xác, bà ấy coi điều ấy là cực kỳ quan trọng đấy!” Mặt người nhân viên xám lại. Khu Saorge không được trang bị để thực hiện hỏa táng xác chết; đó là một loại thiết bị rất đặc chủng, mà lượng yêu cầu cũng nhỏ nên người ta không làm. Không, quả thật là rất khó. “Ðó là ý nguyện cuối cùng của mẹ tôi...” Bruno nói vẻ quan trọng. Im lặng bao trùm. Người nhân viên của tòa chị chính ra vẻ suy nghĩ rất lung. “Cũng có một lò hỏa táng ở Nice...“ ông ta rụt rè nói. „Chúng ta có thể thực hiện một chuyến đi đến đó rồi quay lại đây nếu các ông vẫn muốn chôn ở Saorge. Dĩ nhiên các ông phải trả chi phí...” Không ai trả lời. “Tôi sẽ đi gọi điện...”, ông ta tiếp tục, “phải hỏi ngay giờ giấc hỏa táng mới kịp được.” Ông ta mở sổ, rút một chiếc điện thoại di động và bắt đầu bấm số thì Bruno lại cắt ngang. “Thôi bỏ đi...”, anh nói và khoát tay rộng lượng. “Chúng ta chôn bà ta ở đây vậy. Thôi kệ những ý nguyện cuối cùng của bà ta. Em trả nhé!” anh hách dịch quay về phía Michel. Không tranh cãi, Michel rút cuốn sổ séc ra và ghi giá mua mộ phần trong vòng ba mươi năm. “Lựa chọn như thế là khôn ngoan đấy», người nhân viên của tòa thị chính khẳng định. «Với một miếng đất ba mươi năm, các ông có thời gian để suy tính thêm.”

Nghĩa trang nằm phía trên làng cách khoảng một trăm mét. Hai người đàn ông mặc đồ xanh lao động khiêng quan tài. Họ đã chọn loại thông dụng, bằng gỗ thông trắng, tích trữ trong một căn phòng của chính quyền; dịch vụ mai táng có vẻ được tổ chức rất tốt ở Saorge này. Ðã cuối buổi chiều, nhưng mặt trời vẫn còn thiêu đốt. Bruno và Michel bước đi bên cạnh nhau, sau hai người kia mấy bước chân; Hippie-da-nâu đi cạnh họ, ông ta muốn đi theo Jane đến tận nơi ở cuối cùng. Con đường nhiều sỏi, cứng, dù sao cũng có một hướng. Một con chim săn mồi - có thể là một con diều mốc - đang chậm rãi sải cánh trên trời, trong không khí. “Chắc có rắn ở gần đây...” Bruno suy diễn. Anh nhặt một hòn đá trắng rất nhọn. Ngay trước khi quay về phía đám tang, như để khẳng định ý muốn của mình, một con rắn độc xuất hiện giữa hai bụi cây chạy dọc bức tường bao; Bruno nhằm và ném hết sức. Hòn đá vỡ tung trên tường, suýt trúng đầu con vật bò sát.

“Bọn rắn có chỗ của mình trong thiên nhiên...”, Hippie-da-nâu nhận xét vẻ nghiêm trang.

“Thiên nhiên tao đái vào nó, thằng dở hơi ạ! Tao ỉa vào mõm nó!” Bruno lại phát khùng. “Thiên nhiên cái cứt... thiên nhiên cái lỗ đít!” anh tiếp tục khùng lên mấy phút nữa. Tuy nhiên anh rất phải phép khi hạ huyệt, chỉ phát ra những tiếng gù gù và lắc đầu, như thể sự kiện gợi lên cho anh những suy nghĩ chưa từng có, nhưng còn quá mơ hồ để có thể diễn đạt một cách rõ ràng. Sau buổi lễ, Michel đưa một món tiền boa khá lớn cho hai người đàn ông - anh cho đó là thói quen ở đây. Anh còn mười lăm phút để đón tàu; Bruno quyết định đi cùng luôn.

Họ chia tay nhau trên đường ke nhà ga Nice. Họ còn chưa biết mình sẽ không bao giờ gặp nhau nữa.

“Ở bệnh viện có tốt không?” Michel hỏi.

“Ngon, ngon, thoải con gà mái, anh có thuốc mà.” Bruno cười vẻ cáo già. “Anh sẽ không về bệnh viện ngay đâu, anh sẽ có một đêm sôi nổi. Anh sẽ đến một quán bar có điếm, ở Nice này có mà đầy.” Anh nhăn trán lại, mặt tối đi. “Uống thuốc rồi anh không còn thủ dâm nữa, nhưng không sao cả, dù sao anh cũng thích lắm.”

Michel lơ đãng đồng ý, trèo lên toa tàu; anh đã đặt một giường nằm.


Phần ba
Sự xúc động không giới hạn

1.

Quay về Paris, anh thấy có một bức thư của Desplechin. Theo điều khoản 66 của nội quy CNRS, anh phải xin gia nhập lại, hoặc kéo dài quyền ở lại, hai tháng trước khi hết giai đoạn. Bức thư lịch sự và đầy hài hước, Desplechin chế nhạo thủ tục hành chính gò bó; nhưng điều ấy không ngăn cản là anh đã bị quá hạn ba tuần. Anh đặt thư lên bàn làm việc, trong một trạng thái không chắc chắn sâu thẳm. Từ một năm nay, anh tự do tự khẳng định trong lĩnh vực các nghiên cứu của mình; anh đi đến đâu rồi đây? Rõ ràng là gần như không có gì cả. Bật máy tính cá nhân lên, anh kinh hoàng nhận ra e-mail của mình có đến tám mươi trang mới; mà anh đi vắng có hai ngày. Một trong những thông báo đến từ Viện sinh học phân tử Palaiseau. Người đồng nghiệp thay thế anh đã tung ra một chương trình nghiên cứu về ADN thể hạt; ngược với ADN ở tâm, dường như chúng không có các cơ chế sửa chữa đoạn mã bị hỏng vì những tấn công từ gốc; điều này thực sự không đáng ngạc nhiên lắm. Trường đại học Ohio gửi đến một thông báo thú vị hơn: theo những nghiên cứu về Saccharomyce, họ đã chứng minh các biến thể tự tái tạo bằng con đường tình dục tiến hóa chậm hơn là những cái bằng con đường nhân bản vô tính; các đột biến xấu, trong trường hợp này xuất hiện nhiều hiệu quả hơn là trong chọn lọc tự nhiên. Mô hình thí nghiệm thật đáng khích lệ, và rõ ràng đi ngược lại giả thuyết cổ điển về tái tạo thông qua sinh dục như là động lực của tiến hóa; nhưng dù sao cái đó cũng chỉ còn là một mối quan tâm mang tính giai thoại. Ngay khi mã di truyền được giải mã hoàn toàn (và cũng chỉ còn là vấn đề của vài tháng), nhân loại sẽ có khả năng kiểm soát được sự tiến hóa về mặt sinh học của chính mình; tình dục khi đó rõ ràng sẽ như là nó vẫn là: một chức năng vô ích, nguy hiểm và gây họa. Nhưng ngay cả khi người ta kiểm tra được sự xuất hiện của các biến dị, thậm chí ước tính được tác hại thực tế của nó, thì lúc này vẫn chưa có thể mang lại chút ánh sáng nào về sự định hình của nó; do đó không có gì cho phép cấp cho nó một ý nghĩa cố định và sử dụng được: rõ ràng các nghiên cứu phải đi theo hướng đó.

Thoát khỏi những tập giấy tờ và sách đầy trên các giá, phòng làm việc của Desplechin trông thật mênh mông. “Ðúng vậy...”, ông nói với một nụ cười kín đáo. “Cuối tháng tôi sẽ về hưu.” Djerzinski há hốc mồm vì ngạc nhiên. Chúng ta thường xuyên gặp gỡ những con người trong nhiều năm, đôi khi nhiều chục năm, quen thuộc dần với việc tránh hỏi những câu hỏi cá nhân và những chủ đề thực sự quan trọng; nhưng chúng ta luôn có hy vọng là sau này, trong những hoàn cảnh thuận lợi hơn, có thể đề cập đến những chủ đề đó một cách đúng đắn; viễn cảnh bị xóa bỏ một cách mơ hồ bởi một kiểu quan hệ con người hơn và hoàn chỉnh hơn không bao giờ bị xóa bỏ đi hoàn toàn; chỉ đơn giản bởi vì không mối quan hệ con người nào thích hợp được với một khuôn khổ cực kỳ chật hẹp và cố định. Viễn cảnh đó còn sót lại từ một quan hệ “thích đáng và sâu sắc”; nó vẫn như thế trong suốt nhiều năm, chỉ đến khi một sự kiện quyết định và tàn bạo (thường là sau một cái chết) xảy đến, cho bạn biết rằng đã quá muộn, rằng mối quan hệ “thích đáng và sâu sắc” mà chúng ta từng ve vuốt sẽ không bao giờ có được hết. Trong mười lăm năm đi làm, Desplechin là người duy nhất mà anh muốn tạo lập một mối quan hệ vượt qua khuôn khổ thông thường của sự đặt cạnh nhau ngẫu nhiên, thuần túy mang tính ích lợi, cực kỳ buồn chán, tạo nên cái bầu không khí tự nhiên của cuộc sống văn phòng. Và thế là đã hỏng rồi. Anh nhìn chằm chằm lên những hộp các tông đựng sách để đầy dưới sàn. “Tôi tin là tốt hơn hết là chúng ta nên đi uống một cốc ở đâu đó...” Desplechin đề nghị, tóm tắt rất chính xác bầu không khí lúc đó.

Họ đi dọc bảo tàng Orsay, đến ngồi ở ngoài hè quán Thế kỷ XIX. ở bàn bên cạnh khoảng nửa tá khách du lịch ý đang bàn tán xôn xao, như những con gia cầm vô tội. Djerzinski gọi một cốc bia, Desplechin một cốc whisky uống xếch.

“Thế giờ ông sẽ làm gì?”

“Tôi chưa biết...”, Desplechin quả thật có vẻ không biết. “Ði du lịch... một chút du lịch tình dục, có thể.” Ông mỉm cười; khuôn mặt ông lúc ông cười còn có nhiều vẻ đẹp hơn; một vẻ đẹp rời rã, dĩ nhiên, chúng ta đang đứng trước một con người bị phá hủy, nhưng cùng lúc cũng là một sự hấp dẫn thực sự. “Tôi đùa thôi... Sự thật là cái đó không còn hấp dẫn tôi chút nào nữa cả... Hiểu biết, phải... Còn lại một ham muốn được hiểu biết. Nó thật lạ lùng, cái ham muốn hiểu biết đó. Rất ít người, anh biết đấy, ngay cả những nhà nghiên cứu, có cái ham muốn đó; phần lớn hài lòng với việc tạo lập được sự nghiệp, họ sẽ nhanh chóng rẽ về hướng chính quyền; tuy nhiên, cái đó vô cùng quan trọng trong lịch sử loài người. Chúng ta có thể tưởng tượng ra một bài ngụ ngôn trong đó một nhóm người nhỏ - tối đa vài trăm người trên mặt đất - chịu khó đi theo một hoạt động rất khó, rất trừu tượng, hoàn toàn không hiểu được đối với những người khác; họ không biết đến quyền lực, tiền bạc, tiếng tăm; thậm chí không ai có khả năng hiểu được cái khoái cảm mà công việc nhỏ bé của họ gây cho họ. Tuy nhiên họ là sức mạnh quan trọng nhất của thế giới, và điều đó có lý do rất đơn giản, một lý do rất nhỏ bé: họ nắm trong tay chìa khóa của sự chắc chắn lý tính. Tất cả những gì họ tuyên bố là đúng sớm hay muộn đều sẽ được toàn thể dân chúng hiểu là đúng. Chúng ta có thể nói rằng Tây phương từng rất quan tâm đến triết học và chính trị, rằng nó đã chiến đấu theo cách hoàn toàn phi lý tính xung quanh những vấn đề triết học hoặc chính trị; chúng ta cũng có thể nói rằng Tây phương rất yêu văn học nghệ thuật; nhưng trên thực tế không có nhu cầu nào lớn hơn là nhu cầu sự chắc chắn về lý tính. Tây phương cũng đã hy sinh tất cả vì nhu cầu này: tôn giáo của mình, hạnh phúc của mình, những hy vọng của mình, và tóm lại toàn bộ cuộc sống của mình. Ðó là một điều cần phải nhớ, khi chúng ta muốn phán xét toàn bộ nền văn minh phương Tây.” Ông yên lặng, nghĩ ngợi. Cái nhìn của ông trong thoáng chốc trôi nổi trên những cái bàn, rồi lại đặt xuống cốc rượu của mình.

“Tôi nhớ một chàng trai mà tôi quen khi học lớp mười một, khi đó tôi mười sáu tuổi. Một người rất phức tạp, rất quái. Anh ta nhà giàu, khá truyền thống chủ nghĩa, và anh ta mang trong mình toàn bộ những giá trị của nơi đó. Một hôm trong một cuộc thảo luận anh ta nói với tôi: “Cái mà tớ cho là giá trị của một tôn giáo, đó là chất lượng đạo đức mà nó cho phép tạo ra.” Khi đó tôi đã lặng người vì ngạc nhiên và ngưỡng mộ. Tôi không bao giờ biết anh ta đã tự mình đi đến kết luận đó hay đã tìm thấy trong một quyển sách; dù sao câu nói đó đã gây lên tôi ấn tượng cực mạnh. Ðã bốn mươi năm nay tôi nghĩ về nó; đến giờ thì tôi nghĩ anh ta đã sai. Dường như trong địa hạt tôn giáo không thể đặt một cái nhìn tuyệt đối đạo đức; tuy nhiên Kant đã có lý khi khẳng định bản thân Chúa Cứu thế của nhân loại cũng bị phán xét theo những tiêu chí phổ quát về đạo đức. Nhưng từ đó tôi bắt đầu nghĩ rằng các tôn giáo trước hết là những toan tính giải thích thế giới; và không một toan tính giải thích thế giới nào có thể đứng vững được nếu nó va chạm với nhu cầu về sự chắc chắn lý tính của chúng ta. Bằng chứng về toán học, bước đi mang tính kinh nghiệm là những thành tựu quyết định của ý thức con người. Tôi biết rõ là các sự kiện dường như phản đối lại tôi, tôi biết là đạo Hồi - còn xa mới là tôn giáo ngu ngốc nhất, sai nhất và tối tăm nhất trong số các tôn giáo - hiện nay dường như đang thắng thế; nhưng đó chỉ là một hiện tượng bề mặt và có tính chuyển tiếp; về lâu về dài đạo Hồi bị kết án, còn chắc chắn hơn cả đạo Thiên chúa nữa.”

Djerzinski ngẩng đầu lên; anh đã lắng nghe rất chăm chú. Anh chưa bao giờ nghĩ Desplechin lại nhạy cảm đến những vấn đề này như vậy; ông do dự, rồi nói tiếp:

“Tôi không gặp Philippe từ sau khi thi tú tài, nhưng tôi được biết anh ta đã tự tử vài năm sau đó. Dù sao, tôi không nghĩ việc đó có liên quan gì: vừa đồng tính, vừa là tín đồ Thiên chúa nhiệt tình và bảo hoàng, hẳn phải là một sự hòa trộn không được đơn giản cho lắm.”

Trong thâm tâm Djerzinski chưa bao giờ, lúc này anh mới nhận ra, bị xâm chiếm thật sự bởi những câu hỏi tôn giáo. Tuy nhiên anh biết, và từ lâu rồi, là siêu hình duy vật, sau khi đã làm nản lòng các loại tín ngưỡng tôn giáo của các thế kỷ trước, đến lượt nó cũng đã bị phá hủy bởi những tiến bộ mới đây của vật lý. Anh tò mò vì chính anh hay bất kỳ một nhà vật lý nào mà anh biết không mảy may nghi ngờ gì về điều đó, hay lo lắng một cách trí tuệ về điều đó.

“Cá nhân mà nói”, anh nói cùng lúc anh bắt đầu ý thức được, “có vẻ như tôi vẫn phải dính lấy cái thực chứng thực dụng này, ở nguồn gốc, thông thường nó là chủ nghĩa của các nhà nghiên cứu. Các sự kiện tồn tại, chúng được gắn kết với nhau bởi các quy luật, khái niệm nguyên nhân không phải là khái niệm khoa học. Thế giới cân bằng ở tổng số các hiểu biết mà chúng ta có về nó.”

“Tôi không còn là một nhà nghiên cứu nữa...”, Desplechin trả lời với một vẻ giản đơn không một chút vũ khí. “Chắc chắn vì điều đó mà tôi để bị xâm chiếm, sau này, bởi những câu hỏi siêu hình. Nhưng chắc chắn là anh có lý. Cần phải tiếp tục nghiên cứu, thí nghiệm, khám phá những quy luật mới, những gì còn lại không có chút quan trọng nào hết. Anh có nhớ Pascal không: “Cần phải nói cho gọn: điều đó được tạo ra bởi vẻ bên ngoài và chuyển động, bởi cái đó là đúng. Nhưng nói những cái nào tạo nên bộ máy, điều đó thật nực cười; bởi điều đó là vô ích, và không chắc chắn, và nặng nề.” Tất nhiên, một lần nữa, ông ấy lại có lý hơn là Descartes. Chính ra... anh đã quyết định mình sẽ làm gì chưa? Chính là bởi... (ông phác cử chỉ xin lỗi) câu chuyện hạn kỳ này.»

«Phải. Tôi cần được bổ nhiệm vào Trung tâm nghiên cứu di truyền Galway, ở Ai len. Tôi cần tiến hành ngay hàng loạt các thí nghiệm đơn giản, trong những điều kiện nhiệt độ và áp suất vừa đủ, với sự trợ giúp của các máy ghi điểm phóng xạ. Nhất là tôi cần có một cái máy tính toán thật mạnh - tôi nhớ hình như họ có hai cái máy Cray chạy song song.»

«Anh nghĩ đến một hướng nghiên cứu khác phải không? » Giọng Desplechin để lộ một chút kích thích; ông nhận ra điều đó, và một lần nữa lại nở nụ cười kín đáo, dường như đang chế giễu chính mình. «Ham muốn hiểu biết...», ông nói giọng dịu dàng.

«Theo ý tôi, nhầm lẫn là ở chỗ người ta chỉ muốn làm việc từ ADN tự nhiên. ADN là một phân tử phức tạp, đã tiến triển một cách khá tình cờ; có những thừa mứa không được chứng minh, có những đoạn dài không được mã hóa, nghĩa là gì cũng có cả. Nếu chúng ta thực sự muốn thử nghiệm các điều kiện chuyển hóa thông thường, cần xuất phát từ các phân tử tự tái tạo đơn giản nhất, với số lượng tối đa là vài trăm quan hệ.»

Desplechin lắc đầu, mắt ngời sáng, ông không còn tìm cách che giấu sự phấn khích của mình nữa. Những người du lịch ý đã đi khỏi; chỉ còn lại họ, quán cà phê vắng ngắt.

«Hẳn là sẽ phải làm nhiều việc lắm, Michel tiếp tục, tiên nghiệm mà nói không có gì phân biệt các cấu hình có thể di chuyển. Nhưng ở đó phải có những điều kiện ổn định về mặt cấu trúc ở mức hạ nguyên tử. Nếu chúng ta tính toán được một cấu hình ổn định, ngay cả trên một vài nguyên tử, thì công việc xử lý sẽ tiến triển rất nhiều... Cuối cùng, có lẽ tôi sẽ tiến được một chút.»

«Không chắc lắm...», Desplechin giờ đây nói giọng chậm và mơ màng của người vừa nhìn ra những viễn cảnh rất xa, những cấu hình tinh thần mờ mịt và chưa được biết đến.

«Tôi cần được làm việc hoàn toàn độc lập, bên ngoài cơ cấu của trung tâm. Có những điều chỉ thuộc về giả thuyết một cách thuần túy: quá dài, quá khó để giải thích.»

«Dĩ nhiên. Tôi sẽ viết thư cho Walcott, người điều hành trung tâm. Ðó là một người khá đấy, ông ấy sẽ cho anh sự tự do. Mà anh đã làm việc với họ rồi chứ nhỉ? Hồi làm mấy con bò...”

“Phải, một việc nho nhỏ.”

“Ðừng lo lắng. Tôi về hưu... (lần này, có một chút cay đắng trong tiếng cười của ông) nhưng tôi vẫn còn đủ quyền lực để làm điều đó. Về mặt hành chính, anh sẽ được độc lập, thích kéo dài bao nhiêu năm cũng được. Dù người thay thế tôi là ai đi chăng nữa, anh cũng không phải lo họ mang chuyện đó ra xem xét đâu.”

Họ chia tay nhau ở gần Port Royal. Desplechin chìa tay cho anh. Ông không có con trai, những sở thích tình dục của ông đã không cho phép ông có con, ông luôn thấy thật kỳ khôi cái ý tưởng về một đám cưới cho vui. Trong vài giây, ông nắm chặt tay anh, ông tự nhủ anh đang sống ở một thứ hạng cao hơn; rồi ông tự nhủ ông cực kỳ mệt mỏi rồi; rồi ông quay đi và bước theo kè sông, theo những quầy bán sách cũ. Trong một đến hai phút, Michel nhìn theo người đàn ông đang đi xa dần trong ánh sáng đang yếu dần.


2.

Buổi tối hôm sau anh ăn tối ở nhà Annabelle và giải thích với nàng một cách hết sức rõ ràng, theo lối tổng hợp và chính xác, tại sao anh phải đi Ai Len. Ðể hoàn thành nốt chương trình, cần tiến hành đồng bộ. Căn bản là không được co cụm vào ADN, mà phải hướng đến con người như một hệ thống tự tái tạo trong tất cả sự phổ quát của nó.

Thoạt đầu Annabelle không trả lời gì hết; nàng không thể ngăn được một sự co giật nhẹ ở miệng. Rồi nàng rót rượu vang cho anh; tối đó nàng đã chuẩn bị món cá, và căn phòng nhỏ của nàng càng gợi nên không khí một ca bin tàu thủy.

“Anh không nghĩ đến chuyện mang theo em...” Những từ của nàng vang lên trong im lặng; im lặng đó kéo dài. “Thậm chí anh còn không nghĩ đến...” nàng nói theo kiểu trộn lẫn giữa hờn mát trẻ con và ngạc nhiên; rồi nàng òa lên khóc. Anh không làm một cử chỉ nào hết; nếu anh làm gì, vào lúc này, nàng hẳn sẽ gạt ra ngay; người ta cần phải khóc, và chỉ có việc đó để làm. “Dù sao, chúng ta đã từng rất hiểu nhau khi mười hai tuổi...” nàng nói giữa những giọt nước mắt.

Rồi nàng hướng nhìn về phía anh. Khuôn mặt nàng thuần khiết, đậm một vẻ đẹp tuyệt mỹ. Nàng nói không suy nghĩ gì:

“Hãy cho em một đứa con. Em cần có ai đó ở bên cạnh. Anh không cần phải nuôi nó, không cần quan tâm đến nó, anh cũng không cần phải nhận nó. Em thậm chí không đòi anh phải yêu nó, phải yêu em; nhưng hãy cho em một đứa con. Em biết em đã bốn mươi tuổi: nhưng mặc kệ, em sẽ thử liều. Ðây là cơ may cuối cùng của em. Ðôi khi, em cũng hối tiếc vì đã phá thai. Tuy nhiên người đàn ông đầu tiên làm em có thai là một tên rác rưởi, và người thứ hai là một kẻ vô trách nhiệm; khi em mười bảy tuổi chưa bao giờ em tưởng tượng cuộc đời sẽ bó chặt đến thế, rằng các trách nhiệm lại ngắn ngủi đến thế.”

Michel châm một điếu thuốc để nghĩ ngợi. “Ðó là một ý tưởng kỳ quặc...” anh nói lúng búng. Tái tạo, một ý tưởng kỳ quặc, khi chúng ta không yêu gì cuộc đời.” Annabelle đứng dậy, cởi dần từng mảnh quần áo. “Dù sao cũng hãy làm tình đi đã, nàng nói. Phải đến một tháng nay chúng ta chưa làm tình rồi. Em đã ngừng không dùng thuốc cách đây hai tuần; hôm nay em đang ở giai đoạn có thể có con.” Nàng đặt tay lên bụng mình, lần lên đến tận vú, mở nhẹ hai chân. Nàng đẹp, đáng thèm muốn và thu hút; tại sao anh không cảm thấy gì hết? Thật khó giải thích. Anh hút một điếu thuốc mới, chợt nhận ra là suy tư không phục vụ được điều gì hết cả. Chúng ta đẻ một đứa con, hoặc không; điều đó không nằm trong hướng các quyết định duy lý, điều đó không thuộc vào những quyết định mà một con người có thể có một cách duy lý. Anh dụi đầu mẩu thuốc vào gạt tàn, lẩm bẩm: “Anh đồng ý”.

Annabelle giúp anh cởi quần áo và vuốt ve nhẹ nhàng để anh có thể vào được nàng. Anh không cảm thấy gì lớn lao lắm ngoài sự dịu dàng và sự ấm nóng của âm đạo nàng. Anh ngừng chuyển động rất nhanh, sửng sốt vì sự hiển nhiên về mặt hình thể của việc hai người dính lấy nhau, và cũng thảng thốt sung sướng vì sự mềm dẻo và tràn đầy của các màng nhầy. Annabelle đặt miệng nàng lên miệng anh, ôm anh trong vòng tay. Anh nhắm mắt lại, cảm giác được rõ ràng hơn sự tồn tại của bộ phận sinh dục của chính mình, và lại tiếp tục tới lui. Ngay trước khi phóng tinh anh có ý tưởng - cực kỳ rõ ràng - về sự hợp nhất các giao tử, và ngay sau những phân chia tế bào đầu tiên. Như thể là một cuộc chạy trốn về phía trước, một sự tự tử nho nhỏ. Một đợt sóng ý thức leo ngược lên dọc theo bộ phận sinh dục của anh, anh cảm thấy tinh trùng của mình phóng ra bên ngoài. Annabelle cũng cảm thấy điều đó, nàng thở hắt ra thật dài; rồi hai người nằm im không cử động.

“Lẽ ra một tháng trước bà đã phải đến để khám rồi...”, bác sĩ phụ khoa nói, giọng mỏi mệt. Bà đã không làm thế, mà lại còn ngừng không uống thuốc mà không nói gì với tôi, và bây giờ thì bà có mang. Bà có còn là trẻ con nữa đâu nhỉ!...” Không khí trong phòng khám lạnh lẽo và hơi bết lại; Annabelle ngạc nhiên khi nhìn thấy mặt trời tháng Sáu ở bên ngoài phòng khám.

Ngày hôm sau nàng gọi điện. Khám nghiệm tế bào cho thấy nhiều điều không bình thường “khá nghiêm trọng”, sẽ phải làm một sinh thiết và cạo màng nhầy tử cung. “Còn dĩ nhiên tốt nhất lúc này là bà bỏ cái thai đi. Làm từng ấy việc mà cứ để cái thai...” Ông ta không có vẻ gì lo lắng, chỉ hơi buồn bã.

Annabelle phải tiến hành ca phá thai thứ ba trong đời - bào thai mới được hai tuần tuổi, làm rất nhanh. Máy móc đã tiến bộ rất nhiều kể từ lần nàng phá thai trước và nàng rất ngạc nhiên khi tất cả kết thúc trong vòng chưa đến mười phút. Các kết quả phân tích được chuyển đến sau ba ngày. “Tốt...” viên bác sĩ có vẻ già nua, giỏi giang và buồn bã kinh khủng, “nhưng tôi tin chắc là bà bị ung thư tử cung ở giai đoạn tiền di căn.” Ông ta chỉnh lại kính trên mũi, kiểm tra mấy tờ giấy thêm một lần nữa; ấn tượng về tài năng nói chung của ông càng tăng lên bội phần nhờ hành động đó. Ông ta không thực sự ngạc nhiên: bệnh ung thư tử cung tấn công phụ nữ trong những năm tiền mãn kinh, và việc không có con lại là một nhân tố làm tăng thêm rủi ro. Cách tiến hành điều trị thì rõ ràng, về điểm đó ông ta không cảm thấy nghi ngờ gì hết. “Cần phải phẫu thuật cắt tử cung ở bụng dưới và một vòi buồng trứng hai chiều. Bây giờ mổ như thế cũng đơn giản thôi, nguy cơ biến chứng gần như không có.” Ông ta liếc nhìn Annabelle: thật đáng chán, nàng không phản ứng gì, nàng chỉ há hốc miệng ngạc nhiên; có khả năng đó là tiền đề cho một lần lên cơn. Thường thì người ta khuyên các phẫu thuật viên hướng dẫn nữ khách hàng thực hiện một biện pháp điều trị tâm lý bổ trợ - ông ta đã chuẩn bị sẵn một danh sách bác sĩ tâm lý - và nhất là phải nhấn mạnh vào một ý tưởng mạnh; sự kết thúc của giai đoạn sinh đẻ không hề đồng nghĩa với sự chấm dứt của cuộc sống tình dục; ngược lại một số bệnh nhân còn thấy khoái cảm tăng lên rõ rệt sau đó.

“Vậy là người ta sẽ cắt mất tử cung của tôi...”, nàng nói vẻ nghi ngờ.

“Tử cung, buồng trứng và các vòi pha-lốp; tất cả để ngăn ngừa khả năng sinh đẻ. Tôi sẽ ghi cho bà một đơn thuốc hoóc môn để thay thế - giờ người ta dùng ngày càng nhiều cái đó, ngay cả trong các trường hợp mãn kinh thông thường.”

Nàng về nhà bố mẹ ở Crécy-en-Brie; cuộc phẫu thuật được ấn định vào ngày 17 tháng Bảy. Michel đưa nàng và mẹ nàng đến bệnh viện Meaux. Nàng không sợ. Cuộc phẫu thuật kéo dài chừng hai tiếng đồng hồ. Ngày hôm sau Annabelle tỉnh dậy. Qua cửa sổ nàng nhìn thấy bầu trời màu xanh, chuyển động nhẹ nhàng của gió giữa đám cây cối. Nàng hoàn toàn không cảm thấy gì hết. Nàng muốn nhìn vết sẹo ở bụng dưới nhưng không dám yêu cầu y tá. Thật lạ khi nghĩ nàng vẫn là người đàn bà đó, nhưng các cơ quan sinh sản đã bị cắt mất. Từ “cắt bỏ” trôi nổi một lúc trong tâm trí nàng, trước khi bị thay thế bởi một hình ảnh nặng nề hơn. “Họ đã moi rỗng mình, nàng tự nhủ: người ta đã moi rỗng mình như làm gà.”

Một tuần sau đó nàng rời bệnh viện. Michel đã viết cho Walcott để báo anh sẽ đến muộn hơn dự định; sau một chút lần chần anh chấp nhận ở nhà bố mẹ nàng, trong căn phòng cũ của em trai nàng. Annabelle nhận ra là anh và mẹ nàng trở nên yêu quý nhau trong thời gian nàng nhập viện. Anh trai nàng cũng hay qua nhà hơn kể từ khi Michel đến ở. Thực ra họ không có gì chung để nói chuyện với nhau hết: Michel không hề biết gì về các vấn đề doanh nghiệp cỡ nhỏ, và Jean-Pierre hoàn toàn xa lạ với các vấn đề nảy sinh từ sự phát triển của ngành nghiên cứu sinh học tế bào; tuy thế, một sự thân thiết giữa những người đàn ông có phần mang tính tưởng tượng cuối cùng nảy sinh quanh bữa tối. Nàng phải nghỉ ngơi, và nhất là phải tránh mang vác các vật nặng; nhưng giờ đây nàng đã có thể tự tắm lấy, và ăn bình thường. Buổi chiều, nàng ngồi trong vườn; Michel và mẹ nàng hái dâu hoặc mận. Như thể là một kỳ nghỉ hè lạ lùng, hoặc một cuộc trở về tuổi thơ. Nàng cảm thấy sự ve vuốt của mặt trời trên mặt và tay mình. Phần lớn mọi lần nàng ngồi yên không làm gì; đôi khi nàng thêu, hoặc làm những đồ vật nho nhỏ bằng vải nhung cho đứa cháu trai và mấy đứa cháu gái. Một bác sĩ tâm thần ở Meaux ghi đơn thuốc ngủ cho nàng, cùng với những liều lượng thuốc an thần khá lớn. Nàng ngủ rất nhiều, và những giấc mơ của nàng lúc nào cũng hạnh phúc và nhẹ nhàng; quyền lực của tâm hồn thật lớn lao, Michel nằm bên cạnh nàng trên giường, một tay đặt lên người nàng, anh cảm thấy hai bên sườn nàng nhô lên hạ xuống đều đặn. Bác sĩ tâm thần thường xuyên đến gặp nàng, lo lắng, mắng mỏ, nói về việc “mất liên hệ với thực tế.” Nàng trở nên rất dịu dàng, hơi là lạ, và thường cười không lý do; cũng đôi khi đột nhiên mắt nàng đầy nước. Khi đó nàng dùng thêm một viên Tercian.

Kể từ tuần thứ ba nàng có thể ra ngoài, và đi những chuyến đi dạo ngắn đến bờ sông, hoặc trong những khu rừng lân cận. Ðó là một tháng Tám đặc biệt đẹp; ngày nối ngày trôi đi, giống hệt nhau và rực rỡ, không chút đe dọa giông tố, không chút điềm gở nào hết. Michel nắm tay nàng; họ thường ngồi trên một chiếc ghế ven sông Morin Lớn. Cỏ ven bờ bị thiêu đốt, ngả màu gần sang trắng; dưới tán những cây sồi dòng sông chảy đi mãi mãi vô tận những uốn sóng nước của mình, màu xanh u tối. Thế giới bên ngoài có những luật lệ riêng của mình, và những luật lệ này không thuộc về con người.


3.

Ngày 25 tháng Tám, một kiểm tra định kỳ cho thấy có những di căn trong vùng bụng; bình thường chúng sẽ tiếp tục lan rộng, và căn bệnh ung thư sẽ chuyển sang giai đoạn cuối. Người ta có thể thử điều trị bằng sóng điện, nói đúng hơn đó là điều duy nhất có thể làm; nhưng không thể giấu diếm, đó là một cách điều trị nặng, tỉ lệ thành công không vượt quá 50%.

Bữa ăn im lặng vô cùng. “Người ta sẽ chữa khỏi cho con, con yêu...” mẹ Annabelle nói giọng hơi run. Nàng ôm lấy cổ mẹ, dụi trán vào trán bà; họ đứng như vậy khoảng một phút nữa. Sau khi mẹ nàng đã đi ngủ nàng đi vào phòng khách, tìm một vài quyển sách. Ngồi trong ghế bành, Michel quan sát nàng. “Chúng ta có thể hỏi ý kiến một ai đó khác...” anh nói sau một hồi lâu im lặng - Phải, chúng ta có thể” nàng nhẹ nhàng trả lời.

Nàng không thể làm tình, vết sẹo còn quá mới và còn quá đau; nhưng nàng ôm anh thật lâu trong vòng tay. Nàng nghe tiếng răng anh nghiến vào nhau trong im lặng. Vào một lúc nào đó, vuốt ve bàn tay trên mặt anh, nàng nhận thấy nó ướt đẫm những giọt nước mắt. Nàng dịu dàng vuốt ve dương vật anh, điều này vừa kích thích vừa có ý nghĩa làm dịu. Anh uống hai viên Mépronizine và cuối cùng cũng thiếp đi được.

Khoảng ba giờ sáng nàng tỉnh dậy, choàng một chiếc váy ngủ và đi vào bếp. Lục tung trong tủ nàng tìm thấy một cái bát có khắc tên nàng, cái bát mà bà mẹ nuôi đã tặng nàng khi nàng lên mười tuổi. Trong cái bát nàng dốc cẩn thận những gì có trong tuýp thuốc Rohypnol của mình, thêm vào một chút nước và đường. Nàng không cảm thấy gì cả, chỉ một nỗi buồn cũng rất thông thường, gần như là siêu hình. Cuộc sống được tổ chức như thế đấy, nàng nghĩ; một sự rẽ hướng đang được hình thành trong cơ thể nàng, một sự rẽ hướng không nhìn thấy được và không chứng minh được; và giờ đây cơ thể nàng không còn có thể là một nguồn hạnh phúc và niềm vui được nữa rồi. Ngược lại nó sẽ, dần dần nhưng cũng khá nhanh, trở thành với nàng cũng như với những người khác một nguồn phiền phức và bất hạnh. Do đó cần phải phá hủy cơ thể nàng. Một cái đồng hồ gỗ có hình thù to đùng đang khó nhọc đếm giây; mẹ nàng đã thừa kế lại nó từ bà ngoại, bà có nó từ hồi lấy chồng, đó là thứ đồ cổ nhất trong nhà. Nàng thêm vào một chút đường vào bát. Thái độ của nàng rất xa với sự chấp nhận, cuộc sống với nàng giống như một lời nói đùa độc địa, một lời nói đùa không thể chấp nhận được, nàng đã có cái cảm giác rất thường gặp ở những người già: nàng không còn muốn là gánh nặng với người khác nữa. Cuộc đời nàng, vào cuối giai đoạn thiếu niên, đã đi rất nhanh; rồi có một giai đoạn buồn chán kéo dài; cuối cùng, lại một lần nữa, tất cả lại bắt đầu diễn ra rất nhanh.

Không lâu trước khi bình minh, khi quay trở lại giường, Michel nhận ra Annabelle không có ở đó. Anh mặc quần áo và đi xuống nhà; cơ thể bất động của nàng nằm trên chiếc đi văng của phòng khách. Cạnh nàng, trên bàn, nàng để lại một lá thư. Câu đầu tiên như thế này: “Em thích được chết giữa những người mà em yêu quý.”

Người phụ trách khoa cấp cứu của bệnh viện Meaux là một người đàn ông khoảng ba mươi tuổi, tóc nâu và xoăn, khuôn mặt cởi mở; anh ta ngay lập tức cho họ một ấn tượng rất tốt. ít có cơ may làm nàng sống lại được, anh ta nói; họ có thể ở lại bên nàng, cá nhân mà nói anh ta không thấy chuyện đó có gì phiền cả. Hôn mê là một trạng thái kỳ lạ, ít được biết đến. Gần như chắc chắn là Annabelle không hề cảm thấy sự có mặt của họ; tuy nhiên, một hoạt động điện yếu ớt vẫn tiếp tục trong não nàng; nàng hẳn có quan hệ với một hoạt động trí óc, mà bản chất thì hoàn toàn huyền bí. Chẩn đoán cho thấy không có gì đảm bảo cả: người ta đã gặp những người bệnh bị chìm trong một cơn hôn mê sâu từ nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng, đột nhiên tỉnh dậy; nhưng thường xuyên nhất là tình trạng hôn mê chuyển hướng, cũng rất đột ngột, sang cái chết. Nàng mới bốn mươi tuổi, ít nhất người ta cũng có thể chắc trái tim nàng chịu đựng được; hiện tại, đó là tất cả những gì chúng tôi có thể nói.

Ngày sáng dần trên thành phố. Ngồi bên cạnh Michel, người anh của Annabelle lắc đầu lẩm bẩm: “Không thể thế được... Không thể thế được...”, anh ta nhắc đi nhắc lại, như thể những câu nói có chút quyền lực nào đó. Nhưng có chứ, có thể lắm chứ. Tất cả đều có thể. Một nữ y tá đi qua trước mặt họ, đẩy một chiếc xe kim loại đầy những chai huyết thanh.

Sau đó không lâu mặt trời xé rách những đám mây, bầu trời chuyển sang màu xanh. Ngày chắc sẽ rất đẹp, đẹp như những ngày trước đó. Mẹ Annabelle khó nhọc đứng dậy. “Nghỉ ngơi một chút...” bà nói, cố đè nén giọng nói run rẩy. Con trai bà cũng đứng dậy, hai cánh tay đung đưa, máy móc đi theo bà. Michel lắc đầu không đi cùng họ. Anh không cảm thấy chút mệt mỏi nào hết. Trong những phút sau đó, anh chỉ cảm thấy sự hiện hữu kỳ lạ của thế giới hiện thực bên ngoài. Anh ngồi một mình trong hành lang ngập nắng, trên một chiếc ghế nhựa. Góc bệnh viện này vô cùng yên tĩnh. Thỉnh thoảng một cánh cửa xa xa mở ra, một nữ y tá bước ra, đi về phía một hành lang khác. Những tiếng ồn của thành phố ở dưới vài tầng gác chìm lấp đi. Trong một trạng thái lơ lửng tinh thần tuyệt đối, anh ngẫm nghĩ lại loạt các sự kiện, các bước đi máy móc đã phá nát cuộc đời họ. Tất cả có vẻ mang tính quyết định, trong suốt và không thể chê trách. Ngày hôm nay tất cả dường như đang ở trong một sự hiển nhiên bất động của một quá khứ chật hẹp. Ngày hôm nay dường như không thật chuyện một thiếu nữ mười bảy tuổi lại có thể ngây thơ đến thế; ngày hôm nay lại càng không thật chuyện một thiếu nữ mười bảy tuổi coi tình yêu quan trọng đến thế. Ðã hai mươi nhăm năm qua đi kể từ khi Annabelle là một cô thiếu nữ, và mọi thứ đều đã thay đổi, nếu tin vào những cuộc điều tra và các tạp chí. Những cô gái trẻ ngày hôm nay khôn ngoan hơn và lý trí hơn. Họ quan tâm trước hết đến thành công trong học vấn, trước tiên cố gắng đảm bảo cho một tương lai nghề nghiệp chắc chắn. Những lần đi chơi với bạn trai họ coi là một trò giải trí, một báo trước với phần tương đương của khoái lạc tình dục và sự thỏa mãn cá nhân. Tiếp theo đó họ sẽ cố công tạo lập một cuộc hôn nhân đầy lý trí, trên cơ sở một sự tương thích đầy đủ các hoàn cảnh xã hội - nghề nghiệp và một điểm chung về sở thích nào đó. Rõ ràng họ tự tách mình khỏi mọi khả năng về hạnh phúc - không thể tách rời với những kết hợp và giảm bớt không gì chung với việc áp dụng quá nhiều lý trí - họ thường hy vọng thoát được khỏi những đau khổ về mặt tình cảm và tinh thần từng ám ảnh những người đi trước. Niềm hy vọng đó nhanh chóng tan vỡ; sự biến mất của những đau đớn trong tình yêu quả thật đã gây ra cả một sự buồn chán lớn, một cảm giác về trống rỗng, một sự chờ đợi phập phồng tuổi già và cái chết. Như thế, nửa sau cuộc đời Annabelle buồn bã và u tối hơn nhiều so với nửa đầu; đến cuối đời, nàng không còn giữ được chút kỷ niệm nào hết.

Quãng trưa, Michel đẩy cửa phòng nàng. Nàng thở rất yếu, tấm ga trải giường che ngực nàng gần như bất động - tuy thế theo bác sĩ như thế là đã đủ ô xy cho các cơ quan; nếu nhịp thở yếu đi nữa, người ta sẽ phải lắp một loại máy hỗ trợ hô hấp. Lúc này mũi kim của một ống truyền huyết thanh được cắm vào tay nàng, hơi ở trên khuỷu tay một chút, một điện cực được gắn vào thái dương, chỉ có thế. Một tia nắng mặt trời chiếu lên tấm ga trải giường đánh số và chiếu sáng một lọn tóc tuyệt mỹ màu sáng của nàng. Khuôn mặt nàng với đôi mắt nhằm nghiền, chỉ hơi xanh xao hơn so với thường lệ, có một vẻ yên bình vô hạn. Tất cả phiền não dường như đã ở bên ngoài; chưa bao giờ nàng hiện ra trước mắt Michel với vẻ hạnh phúc đến thế. Quả thật anh rất hay lẫn lộn trạng thái hôn mê và hạnh phúc; nhưng dù sao với anh nàng vẫn đang hạnh phúc vô hạn. Anh luồn tay vào tóc nàng, hôn lên trán và đôi môi ấm áp của nàng. Hiển nhiên làm vậy giờ là quá muộn; nhưng anh vẫn cảm thấy rất thanh thản. Anh ở trong phòng nàng cho đến khi bóng tối buông xuống. Trở lại hành lang, anh mở một quyển sách viết về thiền trong Phật giáo do tiến sĩ Evans-Wentz biên tập (từ nhiều tuần nay anh đã có quyển sách này trong túi; nó nhỏ xíu, bìa màu đỏ sậm).

Sao cho mọi người ở phía Ðông
Sao cho mọi người ở phía Tây
Sao cho mọi người ở phía Bắc
Sao cho mọi người ở phía Nam
Sung sướng, gìn giữ được hạnh phúc;
Sống trong tình bạn bè.

Ðó không hoàn toàn là lỗi của họ, anh nghĩ; họ đã phải sống trong một thế giới khó khăn, một thế giới đầy cạnh tranh và đối đầu, phù phiếm và bạo lực; họ đã không được sống trong một thế giới hài hòa. Mặt khác họ đã không làm gì để đổi thay thế giới này, không đóng góp chút nào để cải tạo nó. Anh tự nhủ nhẽ ra phải cho Annabelle một đứa con; rồi đột nhiên anh nhớ những gì anh đã làm, hay đúng hơn là nhớ là anh đã bắt đầu làm điều đó, rằng chí ít anh cũng đã chấp nhận điều đó; và suy nghĩ đó khiến anh cảm thấy tràn ngập một niềm vui to lớn. Khi đó anh hiểu được sự bình yên và dịu dàng đã xâm chiếm anh mấy tuần nay. Giờ anh không thể làm được gì nữa, không ai còn có thể làm gì trong cái vương quốc của bệnh tật và cái chết; nhưng ít nhất trong vài tuần nàng đã có cảm giác được yêu.

Người nào thực hành tư tưởng tình yêu
Sẽ không bao giờ sa vào các thực hành đồi bại
Nếu cắt đứt các mối liên hệ đam mê
Và quay đầu về chính đạo,

Khi có khả năng thực hành tình yêu đó
Anh ta sẽ tái sinh trên tầng trời Brahmâ
Sẽ nhanh chóng được đầu thai
Và sẽ luôn đến được địa hạt của Niết Bàn

Nếu anh ta không giết người, không nghĩ đến chuyện làm hại ai
Nếu anh ta không tìm cách tự nâng mình lên bằng cách hạ người
Nếu anh ta thực hành tình yêu vũ trụ
Khi chết đi, anh ta sẽ không có những suy nghĩ hận thù.

Buổi tối mẹ Annabelle đến để xem có tin tức gì mới không. Không, tình hình không tiến triển; trạng thái hôn mê sâu vẫn rất vững, người y tá kiên nhẫn nhắc lại cho bà, có khi phải mất hàng tuần mới có thể chẩn bệnh được. Bà vào gặp con gái, sau khoảng một phút bà đi ra, nước mắt đầm đìa. “Tôi không hiểu...”, bà lắc đầu. “Tôi không hiểu cuộc sống này thế nào cả. Nó đáng yêu thế, các người biết đấy. Nó luôn luôn dịu dàng, không làm gì xấu xa. Nó không than phiền gì, nhưng tôi biết nó không được hạnh phúc. Nó không có được cuộc đời mà nó xứng đáng.”

Bà đi sau đó không lâu, rõ ràng rất kiệt sức. Khá lạ lùng, anh không cảm thấy đói và buồn ngủ. Anh đi lại trong hành lang, đi xuống đến sảnh đợi. Một người Antille ngồi ở quầy tiếp tân đang chơi trò giải ô chữ; anh ta gật đầu chào anh. Anh mua một cốc sô-cô-la nóng ở máy tự động và lại gần cửa kính. Trăng trôi trên những tòa nhà; một vài chiếc xe hơi chạy trên đại lộ Châlons. Anh có đủ kiến thức về y khoa để biết cuộc sống của Annabelle hiện chỉ còn được treo mong manh trên một hơi thở. Mẹ nàng có lý do để không tin vào điều đó; con người được tạo ra không phải để chấp nhận cái chết: không phải cái chết của chính mình cũng như của người khác. Anh lại gần người gác cửa, hỏi xin anh ta giấy; hơi ngạc nhiên nhưng anh ta cũng đưa một tập giấy có in mẫu của bệnh viện (chính tập giấy này về sau đã cho phép Hubczejak xác định được tập văn bản giữa đống ghi chép tìm thấy ở Clifden). Một số người đeo đẳng dai dẳng vào cuộc sống, họ, như Rousseau đã nói, nhăn nhó rời bỏ nó; nhưng anh cũng hiểu Annabelle thì khác.

Nàng là đứa trẻ sinh ra cho hạnh phúc,
Hướng về người muốn có kho báu trái tim nàng
Nàng sẵn lòng dâng hiến đời mình cho người khác
Giữa những trẻ thơ sinh ra từ giường nàng

Qua tiếng kêu trẻ nhỏ,
Qua dòng máu giống nòi
Giấc mơ nàng luôn hiện hữu
Ðể lại một dấu vết
Ghi dấu vào thời gian,
Ghi dấu vào không gian

Ghi dấu vào thịt da
Thánh hóa vĩnh viễn
Trong núi, trong không khí
Và trong nước những dòng sông,
Trong bầu trời đã hóa chuyển.

Giờ đây nàng ở đó,
Trên chiếc giường người chết
Bình yên trong cơn mụ mị
Ðáng yêu vô ngần.

Cơ thể chúng ta sẽ giá lạnh và chỉ giản đơn là hiện hữu
Trong cỏ, Annabelle của anh
Sẽ là hư vô
Của con người cá nhân.

Chúng ta sẽ yêu ít đi
Dưới hình dạng con người của mình
Có thể mặt trời, và mưa trên mộ chúng ta, gió và mưa đá
Sẽ chấm dứt những nỗi đau của chúng ta


© 2005 talawas


[1]RMI (Revenue Minimum d’Insertion): tiền trợ cấp thất nghiệp.
[2]Rasta: từ chỉ nĩưng người sống xa hoa dù không có thu nhập ổn định
[3]Từ tiếng Anh, chỉ vẻ bên ngoài, kể cả cách ăn mặc, thể hiện.
[4]Auguste Comte (1798 - 1857), triết gia Pháp, cha đẻ của thực chứng luận.