© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Ngôn ngữ
26.3.2005
Lê Mạnh Chiến
Hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt
8 kỳ
 1   2   3   4   5   6   7   8 
 

VII. Giải thích sai lệch các từ ngữ liên quan đến lịch sử và văn hoá

Nhóm từ ngữ có nội dung liên quan đến các khoa học xã hội và các hình thái ý thức xã hội có mặt rất ít trong từ điển này, chỉ ở con số vài ba chục. Phần nhiều là một số từ thường gặp trong sách giáo khoa lịch sử ở bậc trung học trở xuống. Tuy chỉ với một số từ ít ỏi nhưng vì soạn giả chỉ dựa vào trí nhớ hoặc đoán mò nên đã sai phạm rất nhiều trong việc giải nghĩa các từ hoặc các từ tố, gần như ở từ nào cũng có sai phạm. Chúng tôi xin nêu ra một số vị dụ.


1. ấm sinh 廕生

Soạn giả giải thích: ấmchức quyền, là ơn huệ cuả cha ông để lại; sinhhọc trò, và ấm sinhdanh vị phong kiến do cha làm quan to mà con trai được hưởng. Giải thích như vậy chỉ đúng ở từ tố sinhhọc trò, còn từ tố ấm và từ ấm sinh thì giảng chưa đúng. Trong tiếng Hán, chữ ấm 廕 (hoặc 蔭) có nghĩa gốc là che chở và nghĩa thứ hai là được che chở nhờ quan chức và công lao của ông cha. Các từ điển lớn cho biết rằng, ấm sinh là người nhờ cha ông có công lao với triều đình nên được vào học ở trường Quốc tử giám để được bổ dụng (hoặc có thể thi Hội mặc dầu chưa đỗ cử nhân). Như vây, ấm sinh 廕生 phải là một loại học trò. Hơn nữa, không phải hễ cứ là con quan to đều được làm ấm sinh, bởi vì trong mỗi gia đình quan to, số người được hưởng ân huệ như vậy đều có quy định. Chẳng hạn, theo quy định của nhà Thanh, quan trong triều từ tứ phẩm trở lên, và quan địa phương từ tam phẩm trở lên mới có một người con trai hoặc cháu trai được nhận làm ấm sinh.

Có thể nêu vài ví dụ về các vị ấm sinh, tuy chưa đỗ cử nhân nhưng được thi Hội và đã đỗ tiến sĩ.



2. cam lộ 甘露

Tuy soạn giả giải thích được rằng, cam 甘 nghĩa là ngọt, lộ 露 nghĩa là hạt móc đọng trên cây, nhưng ông đã giảng rất sai rằng, cam lộ nghĩa là nước phép của Phật. Thực ra, trước hết, cam lộ nghĩa là giọt móc ngọt. Người xưa tin rằng, trời cho móc ngọt là điềm lành, thiên hạ thái bình, cho nên, cam lộ có nghĩa là dấu hiệu của thời thái bình. Trong Phật giáo, từ cam lộ được dùng để chỉ giáo lý của Ðức Phật, chứ không phải là nước phép của Phật như soạn giả đã giảng giải. Hơn nữa, Phật không có nước phép. Chữ lộ露 này cũng có nghĩa là hiện ra (như trong các từ lộ diện, lộ thiên) và một số nghĩa khác nữa, trong đó có nghĩa là nước ngọt được chắt ép hoặc chưng cất từ hoa quả (tức là xi-rô), hay là nước ngọt do hoa và mầm lá tiết ra (gọi là mật hoa, mật lá). Bởi vậy, đôi khi người ta cũng gọi mật hoa là cam lộ.


3. cống sinh 貢生

Soạn giả giải thích: cống nghĩa là tiến dâng, sinh 生 là học trò, và, cống sinhngười thi đỗ hương cống thời phong kiến. Trong từ điển này không có từ hương cống, nhưng, theo Hán Việt từ điển của Ðào Duy Anh và vài cuốn từ điển khác thì hương cống là cử nhân từ trước thời Gia Long. Qua bài “Tổng luận về khoa cử ở nước Nam” trong sách Quốc triều hương khoa lục của Cao Xuân Dục, chúng ta được biết cụ thể hơn: Hương cống gọi là cử nhân, sinh đồ gọi là tú tài thì bắt đầu đổi gọi từ năm Mậu Tý, Minh Mạng thứ 9 (1828)”. Vậy, theo soạn giả thì cống sinh chính là cử nhân. Không đúng. Theo các từ điển của Trung Quốc, ở hai thời Minh và Thanh, các phủ, huyện, châu được chọn những người thi đỗ tú tài mà học giỏi để giới thiệu lên kinh đô học trường Quốc Tử Giám (sau này có thể thi tiến sĩ hoặc ra làm quan, mặc dầu chưa đỗ cử nhân). Như vậy cống sinh là người học trò chưa đỗ cử nhân nhưng được ưu tiên theo học trường Quốc tử giám để đi thi tiến sĩ hoặc ra làm quan như người đã đỗ cử nhân. Hán Việt từ điển của Ðào Duy Anh cũng giải thích rằng, cống sinh là người học trò giỏi do các tỉnh xét hạch lấy đậu, cấp lương ăn học để thi tiến sĩ, tức là được hưởng quyền lợi như cử nhân. Xin nêu một ví dụ:

Phan Dưỡng Hạo (1802 – 1849), quê ở xã Vân Tụ, huyện Ðông Thành (nay là huyện Yên Thành), tỉnh Nghệ An, thi Hương nhiều lần chỉ đỗ tú tài nhưng nổi tiếng học giỏi, được cử làm cống sinh vào học trường Quốc tử giám và thi đỗ thám hoa khoa Ðinh Mùi (1847), niên hiệu Thiệu Trị thứ bảy.


4. Cử nhân 举 人, cử tử 举 子

Theo soạn giả, cử có các nghĩa: cất lên; đưa lên, nổi dậy, thi đỗ; nhân nghĩa là người. Từ đó mà đi đến định nghĩa rằng, cử nhân là: 1. Người đậu chính thức khoa thi hương trong thời phong kiến; 2. Học vị đại học, trên tú tài, dưới tiến sĩ. Như vậy, theo soạn giả thì từ tố cử ở đây có nghĩa là thi đỗ. Chúng tôi nghĩ rằng, ông có hiểu sơ sơ về từ cử nhân rồi vận dụng chút hiểu biết ấy để đoán nghĩa của từ tố cử nghĩa là thi đỗ, nhưng đã đoán sai. Bởi vì, các từ điển lớn của Trung Quốc nêu gần hai chục nghĩa của chữ cử nhưng không nêu nghĩa này, mà chỉ giảng rằng, cử nghĩa là khoa cử khảo thí, nghĩa là việc thi tuyển (tương ứng với examination trong tiếng Anh) và cũng là cách gọi tắt của từ cử nhân. Dù chúng tôi có thể chưa tra cứu đến ngọn nguồn cũng vẫn đủ cơ sở để nói rằng, trong từ cử nhân 举 人 thì cử 举 hoàn toàn không có nghĩa là thi đỗ, như soạn giả đã ngộ nhận. Theo từ điển Từ nguyên thì nghĩa đầu tiên của từ cử nhântuyển dụng nhân tài, sau đó phát sinh nghĩa mới là người được tuyển dụng rồi sau nữa lại có nghĩa là người trúng tuyển kỳ thi ở các châu hoặc các tỉnh để được phép thi ở cấp trung ương. Như vậy, cử nghĩa là tiến dẫn, là tuyển chọn chứ không phải là thi đỗ. Trong lịch sử khoa cử ở Việt Nam, học vị cử nhân được sử dụng lần đầu tiên dưới thời vua Minh Mạng, từ khoa thi năm Mậu Tý 1828.

Trong từ cử tử 举 子 thì từ tố cử 举 lại có nghĩa là đi thi. Soạn giả đã định nghĩa đúng rằng, đó là người dự thi lối cử nghiệp. Nhưng theo ông, từ tố cử có nghĩa là thi đỗ. Ðiều đó cũng đủ chứng tỏ cái sai của ông, như chúng tôi vừa phân tích.

Ðộc giả có thể cho rằng, chúng tôi hơi câu nệ vào sách vở chữ Hán và có phần khắt khe đối với soạn giả. Xin độc giả hiểu rằng, nếu chỉ giải nghĩa mà thôi chứ không cắt nghĩa các từ tố thì chúng tôi không phải nói gì thêm ở hai từ này (và một số từ khác nữa). Nhưng vì soạn giả có chủ ý cắt nghĩa rành rọt từng từ tố để giúp người đọc hiểu thấu đáo các từ ngữ Hán Việt (cuối bài độc giả sẽ thấy đó là chủ trương từ đầu của ông) nên chúng tôi mới phải làm cái việc rất tốn công sức này, tuy không phải là vô ích.


5. dân tuý 民粹

Theo soạn giả, dânngười trong một nước, tuý nghĩa là say, rồi ông đưa ra một định nghĩa về từ dân tuý, tuy không sai nhưng rất dài dòng. Ðiều đáng chê trách là, ông không biết chữ Hán nhưng cứ đoán liều rằng, tuý nghĩa là say mê. Trong tiếng Hán, ở từ dân tuý 民粹 người ta dùng chữ tuý 粹 nghĩa là tinh hoa chứ không phải chữ tuý 醉 là say mê.

Phái dân tuý hay chủ nghĩa dân tuý là một trào lưu xã hội - chính trị ở Nga, xuất hiện trong những năm 70 của thế kỷ 19, coi nông dân (chứ không phải công nhân) là lực lượng cách mạng chủ yếu của nước Nga. Bắt nguồn ở từ narod trong tiếng Nga nghĩa là nhân dân (mà đại đa số dân Nga hồi ấy là nông dân), người ta đặt ra một từ là narodnichestvo, nghĩa là phái duy dân để chỉ trào lưu ấy. Từ này được dịch sang tiếng Anh là populism, tiếng Pháp là populisme, tiếng Hán là dân tuý chủ nghĩa 民粹主義 và tiếng Việt là chủ nghĩa dân tuý.


6. giám quốc 監國

Soạn giả cho biết: giám nghĩa là trông coi, quốcnước. Các từ tố này đã được giải nghĩa không sai. Nhưng, khi thấy ông định nghĩa rằng, giám quốcngười đứng đầu một nước cộng hoà tư sản thì chúng tôi thấy rằng, hiểu biết của ông về lịch sử hãy còn non kém lắm. Ông lại càng mắc sai lầm khi viết rằng, Ngày nay người ta dùng từ “tổng thống” để thay từ “giám quốc”.

Theo từ điển Từ nguyên, giám quốcngười cầm quyền tạm thời khi vua vắng mặt. Từ những thời xa xưa, khi vua đi đánh dẹp ở xa thì thái tử thường làm giám quốc để trông coi việc nước. Cũng có trường hợp, vua mới lên ngôi còn quá nhỏ thì đình thần cũng chọn một người làm giám quốc. Ví dụ, năm 1908, Phổ Nghi lên ngôi vua nhà Thanh khi mới hai tuổi, đình thần đã cử cha của ông ta là Tải Thuần làm giám quốc.

Ở nước ta cũng đã từng có chức giám quốc. Cuối năm 1787, Vũ Văn Nhậm theo lệnh của Nguyễn Huệ ra bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh rồi lập Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận (con vua Lê Hiển Tông, chú của Lê Chiêu Thống) làm giám quốc vì Lê Chiêu Thống đã chạy khỏi kinh thành để cầu cứu quân Thanh. Khi Nguyễn Huệ ra bắc giết Vũ Văn Nhậm, ông vẫn để Lê Duy Cận làm giám quốc.

Ðúng là hồi cuối thế kỷ 19, có người đã dùng từ giám quốc để chỉ chức tổng thống nước Pháp, nhưng đó chỉ là cách dùng tạm thời, gượng ép. Sang đầu thế kỷ 20, không ai gọi tổng thống Pháp là giám quốc nữa. Ngày nay, chúng ta vẫn phải gọi Tải Thuần và Lê Duy Cận là những ông giám quốc ở thời trước. Nếu gọi họ là tổng thống thì thật đáng xấu hổ.


7. liêm phóng 廉訪

Nếu chỉ giải thích rằng, liêm = trong trắng, không tham ô; phóng = dò xét; và, liêm phóng = sở mật thám của thực dân Pháp - như soạn giả đã làm thì quá sơ sài và hời hợt, lại khiến người đọc tưởng rằng từ này chỉ mới xuất hiện dưới thời Pháp thuộc. Phải nói rõ thêm rằng, phóng ở đây là do đọc chệch từ chữ phỏng 訪 nghĩa là hỏi cho biết, tức là tìm hiểu sự việc (như trong từ phỏng vấn). Cơ quan liêm phỏng đã có từ rất lâu rồi. Năm 1285, nhà Nguyên đặt ra Túc chính liêm phỏng ty ở các đạo để xem xét công và tội của các quan. Năm 1325, vua Trần Minh Tông đặt Liêm phỏng ty ở các lộ. Năm 1400, Hồ Quý Ly đặt chức liêm phỏng sứ ở các lộ. Thời nhà Thanh cũng gọi án sát sứ là liêm phỏng sứ. Trong thời Pháp thuộc, sở mật thám được gọi là sở liêm phóng.


8. ngọc tỉ 玉璽

Tỉ 璽 là cái ấn của hoàng đế. Ngọc tỉ là cái ấn bằng ngọc của hoàng đế. Soạn giả nêu định nghĩa: ngọc tỉ là ấn của nhà vua, tuy không hoàn toàn sai, nhưng chưa chính xác lắm, vì ngọc tỉ phải là cái ấn bằng ngọc. Nhưng khi thấy ông đưa ra một ví dụ: Bảo Đại đã giao ngọc tỉ cho đại diện của chính phủ cách mạng, khi tuyên bố thoái vị, thì chúng tôi hết sức ngỡ ngàng, vì vua Bảo Ðại làm gì có ngọc tỉ. Cái ấn của ông ta là bằng vàng, tên gọi là “Hoàng đế chi ấn”, tức là “ấn của hoàng đế” chứ chưa bao giờ gọi là tỉ và cũng không phải bằng ngọc. Theo từ điển Từ nguyên thì ngọc tỉ nghĩa là Hoàng đế chi ngọc ấn, tức là ấn bằng ngọc của hoàng đế. Từ điển này còn cho biết thêm rằng, thời xưa, ở Trung Quốc, ấn được làm bằng vàng hoặc bằng ngọc, nhưng từ thời Tần về sau thì ấn được làm bằng ngọc. Ðó là việc ở Trung Quốc. Ở Việt Nam hình như chưa ai biết thời nào đã từng có ngọc tỉ; riêng ở triều Nguyễn thì chỉ có ấn bằng vàng mà thôi.


9. ngự lâm pháo thủ

Trước hết, xin nói thêm rằng, ngự lâm pháo thủ là từ mà cụ Nguyễn Văn Vĩnh đã dùng để chỉ lính hầu cận của vua nước Pháp hồi thế kỷ 17. Khi giải thích từ này, soạn giả phân tích như sau: ngự = thuộc về vua; lâm = rừng; pháo = súng lớn; thủ = tay. Do đó, ông đi đến định nghĩa: ngự lâm pháo thủ nghĩa là những người lính bắn súng lớn ở trong rừng của vua. Một định nghĩa thật ngô nghê buồn cười và rất sai. Trong sách Tam quốc diễn nghĩa, ở hồi thứ 24 có chỗ nói rằng, “Tào Tháo cho 3000 người tâm phúc sung vào ngự lâm quân, cử Tào Hồng thống lĩnh”. Ngự lâm quân cũng là cấm vệ quân, là từ dùng để chỉ đội quân chuyên việc phòng thủ kinh đô và bảo vệ nhà vua. Trong từ ngự lâm pháo thủ, ngự lâm nghĩa là lính ngự lâm, tức là lính bảo vệ nhà vua. Rất nhiều người đã biết tác phẩm Ba chàng ngự lâm pháo thủ của nhà văn Alexandre Dumas. Tên sách bằng tiếng Pháp là Les trois mousquetaires, nghĩa là ba người lính mang súng mousquet. Súng mousquet là loại súng dùng cho cá nhân nên có cỡ như khẩu súng trường, chỉ một người mang, nhưng khi bắn thì phải có giá đỡ, bởi vì nó vẫn là loại súng hoả mai, nghĩa là phải châm mồi lửa mới bắn được. Tuy nhiên, ở thế kỷ 17 thì nó là thứ vũ khí rất quý, nên được dùng để trang bị cho quân cấm vệ, tức là dùng cho lính ngự lâm. Mousquetaires nghĩa là những người lính mang súng mousquet, thời đó được dùng làm lính bảo vệ kinh thành và bảo vệ nhà vua. Bởi vậy, khi dịch Les trois mousquetaires sang tiếng Việt, nếu dịch cho đúng từng chữ thì chỉ cần dịch là Ba người lính mang súng hoả mai; nếu muốn thể hiện dúng tinh thần của nguyên tác thì chỉ cần dịch là Ba người lính ngự lâm cũng chính xác rồi. Nhưng ông Nguyễn Văn Vĩnh biết rằng, lính ngự lâm đến thời bấy giờ mới bắt đầu có súng, oai hơn hẳn trước kia, do đó, ông đã thêm các chữ pháo thủ để cho những anh lính này không bị nhầm lẫn với loại lính ngự lâm cầm gươm giáo “tầm thường” trước đó.


10. thái thú 太守

Soạn giả giải thích rằng, thái là rất, là tuyệt cao, là tiếng tôn xưng; thú là chức quan; thái thú là chức quan Trung Quốc xưa được cử đứng đầu một nước chiếm cứ được. Chưa nói đến sự hiểu biết quá mù mờ về từ tố thú, định nghĩa này vừa lủng củng vừa sai. Lịch sử cho biết rằng, từ thời Chiến quốc, thú là chức quan đứng đầu một quận, tôn xưng là thái thú. Các đời sau có khi đổi thành quận thú. Nhà Hán đặt nước ta thành quận Giao Chỉ của Trung Quốc nên tên quan đứng đầu quận này cũng được gọi là thái thú. Như vậy, thái thú là chức quan đứng đầu một quận thuộc Trung Quốc, do các triều đại phong kiến Trung Quốc đặt ra.


11. tham tụng 參訟

Theo soạn giả, tham nghĩa là dự vào, tụng nghĩa là đi theo, và, tham tụng là chức quan to thời Hậu Lê. Ðịnh nghĩa này không rõ ràng, hơn nữa, soạn giả đã bịa sai nghĩa cho từ tố tụng. Chữ tụng 訟 ở đây nghĩa có nghĩa gốc là bàn luận và có mặt trong từ tố tụng chứ không có nghĩa là đi theo. Tham tụn 參訟 nghĩa đen là "được dự bàn luật lệ". Ðó là chức quan to nhất trong phủ chúa Trịnh, được dự bàn việc trong phủ chúa Trịnh, giữ vai trò tể tướng.


12. thứ sử 刺史

Trong từ thứ sử, thứ nghĩa là sai khiến. Soạn giả đã nói đúng nghĩa của từ tố ấy, nhưng, thật đáng ngạc nhiên khi ông giảng rằng, sử nghĩa là quan coi việc chép sử, và, thứ sửchức quan coi việc cai trị một quận. Chúng tôi nghĩ rằng, chữ sử ở đây không có nghĩa là lịch sử nên phải tra cứu thật kỹ. Theo từ điển Từ nguyên, chữ sử ở đây nghĩa là sứ giả (phái viên) của hoàng đế. Thứ sử vốn là chức quan quản lý một châu. Hán Vũ Ðế chia Trung Quốc (gồm cả một số vùng phụ thuộc, trong đó có nước ta) thành 13 châu, mỗi châu đặt một viên thứ sử. Thời đó, nước ta được gọi là quận Giao Chỉ, (nằm trong vùng Giao Chỉ, là một trong 13 châu thời ấy) do một viên thái thú (cấp dưới của thứ sử) đứng đầu. Viên thứ sử Giao Chỉ trông coi một vùng đất lớn hơn nước ta rất nhiều. Như vậy, chức thứ sử thời đó tương đương chức tổng đốc ở Trung Quốc gần đây. Từ thời nhà Tuỳ (581 - 618) về sau, thứ sử là tên gọi thay cho thái thú, cai quản một quận, tương đương với chức tri phủ của Trung Quốc sau này. Năm 931, khi Dương Ðình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ, ông đã cử Ðinh Công Trứ (cha của Ðinh Bộ Lĩnh) làm thứ sử Hoan châu.


13. tiên đan 仙丹

Theo soạn giả, tiên = người tiên; đan = thuốc viên; và, tiên đan = thuốc tiên. Trước hết, vì không hiểu gì về chữ đan 丹 cho nên soạn giả đành nói liều rằng, đó là thuốc viên. Thực ra, hoàn mới là thuốc viên. Cao, đan, hoàn, tán cơ mà! Từ đó, đủ thấy rằng, ông chưa thể hiểu từ tiên đan. Theo quan niệm của đạo giáo (taoism) ở Trung Quốc, tiên là người ở cõi trời, có cuộc sống trường sinh bất tử và có nhiều phép lạ. Ðan là tên gọi tắt của đan sa, tức là thần sa hoặc chu sa (xem mục từ 15 ở phần VIII dưới đây), một chất khoáng được các đạo sĩ dùng làm nguyên liệu chính để chế luyện thành thuốc có công dụng đặc biệt. Bởi vậy, chữ đan lại có nghĩa là thuốc được chế luyện theo một phương thức bí truyền, và, tiên đan nghĩa là thuốc trường sinh, mà theo đạo giáo thì người được uống nó sẽ trở thành tiên, sống mãi không chết.

Trong tiếng Việt, từ thuốc tiên thường có nghĩa là thuốc chữa bách bệnh (bệnh gì cũng chữa được), hoặc là thuốc chữa khỏi bệnh ngay chứ không có nghĩa là thuốc trường sinh.


14. tiền sử

Tiền là trước, sử là lịch sử, vậy nên soạn giả định nghĩa rằng, tiền sử là thời kỳ lịch sử trước khi có sử, rồi nêu ra một câu ví dụ: Ngay từ thời tiền sử nhân dân ta đã biết làm ruộng. Bên cạnh từ tiền sử, ta thấy có những từ như tiền án, tiền sự, tiền đồ, tiền vận, v.v, trong đó, từ tố tiền tuy có cùng một nghĩa là trước nhưng đóng vai trò khác hẳn, ví dụ, tiền án không phải là trước vụ án, mà nghĩa là vụ án từ trước. Từ tiền sử gồm hai từ tố gốc Hán nhưng được ghép lại theo kiểu Việt Nam. Nếu theo đúng quy tắc cấu tạo như ở những từ vừa kể thì từ tiền sử kia phải đổi thành sử tiền, như người Trung Quốc vẫn dùng. Vậy thì người biên soạn cũng phải có đôi lời chỉ bảo để cho người đọc khỏi thấy bối rối và khỏi vận dụng sai trong những trường hợp khác.

Ngoài ra, theo cách định nghĩa như trên thì người đọc hiểu rằng, tiền sử là một danh từ. Sự thực thì nó phải là một tính từ. Chính ví dụ do soạn giả đưa ra đã chứng tỏ điều đó. Ông viết: Ngay từ thời tiền sử... thì đúng, chứ ông không thể viết: Ngay từ tiền sử... Chúng ta có không ít cụm từ, trong đó, tiền sử đóng vai trò tính từ, như: người tiền sử, khảo cổ học tiền sử, v.v. Danh từ préhistoire trong tiếng Pháp hoặc prehistory trong tiếng Anh được người Trung Quốc dịch là sử tiền kỳ, sử tiền học, trong đó, từ sử tiền (tương ứng với tiền sử trong tiếng Việt) được coi như một tính từ. Trong các từ điển Hán Anh (hoặc Hán Pháp), từ sử tiền được dịch thành tính từ prehistorical (hoặc préhistorique)

Ðể cho chặt chẽ và hợp lý, trong từ điển nên viết rằng, tiền sử: (thuộc về) thời kỳ lịch sử trước khi có chữ viết, để thể hiện vai trò tính từ của từ này.


15. tiết độ sứ 節度使

Khi đọc đến định nghĩa: tiết độ sứ là chức quan cai trị một địa phương trong chế độ phong kiến, người đọc được biết quá ít về chức vụ này và không thể hình dung được vai trò, chức trách, quyền hạn, v.v. của nó. Trong thời buổi mà độc giả gồm vô số tú tài, cử nhân, tiến sĩ, họ đòi hỏi thông tin cụ thể, chính xác, thì định nghĩa qua loa này thật không đạt.

Tiết độ sứ là một chức quan do chính quyền phong kiến Trung Quốc đặt ra từ năm 710, thời nhà Ðường, nắm quyền về quân sự và dân sự ở một khu vực rộng lớn, tương đương một châu (đơn vị hành chính trực thuộc trung ương, tương tự như một tỉnh ở Trung Quốc hiện nay nhưng thường có diện tích lớn hơn) điều khiển các thứ sử (lúc này, thứ sử chỉ là quận trưởng). Thời đó, nhà Ðường cũng cử một viên tiết độ sứ để cai trị nước ta (nghĩa là coi nước ta như một tỉnh), gọi là Giao Châu tiết độ sứ. Năm 906, khi nhà Ðường sắp bị diệt vong, Khúc Thừa Dụ được cử làm tiết độ sứ ở Giao Châu. Năm 931, Dương Ðình Nghệ đánh đuổi được bọn tướng Nam Hán rồi tự xưng là tiết độ sứ. Chức tiết độ sứ bị bãi bỏ từ thời Nguyên.


16. trạng nguyên 状元

Trạng nguyên là người đỗ đầu khoa thi đình trong thời phong kiến. Nên biết rằng, rằng, ở Việt Nam, học vị trạng nguyên chỉ tồn tại đến năm Bính Thìn, năm Vĩnh Hựu thứ hai (1736) đời vua Lê Hy Tông thì chấm dứt, với người đỗ trạng nguyên là Trịnh Huệ, quê ở xã Sóc Sơn, huyện Quảng Hóa (nay thuộc huyên Quảng Xương), tỉnh Thanh Hóa, mặc dầu chế độ khoa cử của chế độ phong kiến Việt Namvẫn tồn tại đến 1919. Tuy nhiên, định nghĩa như thế có thể coi là tạm được. Ðiều đáng nói là, soạn giả chưa hiểu nghĩa của các từ tố trạngnguyên vì ông cho rằng, trạng nghĩa là hình dáng, tình hình, bày tỏ; và, nguyênđứng đầu. Ở đây, nguyên nghĩa là người đứng đầu (chứ không phải là đứng đầu). Ðành rằng chữ trạng 状 có các nghĩa như soạn giả đã nêu, nhưng đó không phải là nghĩa của từ tố trạng 状 trong từ trạng nguyên 状元. Nếu từ tố trạng có nghĩa như thế thì ta thật khó lý giải về nghĩa của từ trạng nguyên.

Theo từ điển Từ nguyên, chữ trạng 状 còn có nghĩa là tờ đơn, tức là văn bản đề đạt lên cấp trên để trình bày một sự việc hoặc yêu cầu một điều nào đó. Từ thời nhà Ðường, khi những người đã đỗ cử nhân muốn tham dự khoa thi đình, họ phải nộp đơn (trạng) cho bộ lễ, nếu thi đỗ, họ sẽ là tiến sĩ. Do đó, người đỗ đầu trong số các tiến sĩ (mà cũng chính là đứng đầu những người đã nộp tờ “trạng” để xin dự thi)) được gọi là trạng nguyên.


17. vương phi 王妃

Nhiều người nghĩ rằng, vương là vua, và vương phi là vợ vua. Soạn giả cũng hiểu sai như thế, rồi đưa ra ví dụ: Bà vương phi Dương Vân Nga trao long cổn cho thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Xin nói rõ rằng, chỉ ở những thời đại xa xưa, vương mới có nghĩa là vua một nước, ví dụ như Hùng vương, An Dương vương. Các vua ở Trung Quốc từ Tần Thuỷ Hoàng (thế kỷ III trước Công nguyên) trở về sau đều xưng là hoàng đế và thường phong tước vương cho con hoặc anh em mình. Ngay sau khi chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc, các vua nước ta từ Ðinh Tiên Hoàng trở đi cũng đều xưng là hoàng đế và cũng phong tước vương cho các con hoặc anh em. Phi là vợ thứ của vua (dưới hoàng hậu một bậc), hoặc vợ chính của hoàng tử. Chỉ vợ chính của người mang tước vương mới gọi là vương phi. Vợ thứ của vua dưới hoàng hậu một bậc thì gọi là hoàng phi chứ không phải là vương phi. Như vậy, soạn giả đã đưa ra một định nghĩa sai về từ vương phi. Ngoài ra, không thể gọi bà Dương Vân Nga là vương phi vì bà đã được Ðinh Tiên Hoàng phong làm hoàng hậu, và khi bà trao long bào cho Lê Hoàn thì con bà là Ðinh Toàn đang làm vua, bà đã là thái hậu.




VIII. Giải thích sai các thuật ngữ liên quan đến khoa học tự nhiên

Trong cuốn từ điển này, số lượng thuật ngữ về khoa học tự nhiên vô cùng ít ỏi, chỉ khoảng vài chục, phần nhiều đều là những thuật ngữ khá thông dụng trong đời sống hàng ngày. Tiếc thay, hầu hết các thuật ngữ này đều được giải thích rất hời hợt và sai. Dưới đây là xin nêu 15 trường hợp đáng lưu ý để làm ví dụ.


1. an tức hương 安息香

Sau khi giải nghĩa các từ tố (an = yên ổn; tức = hơi thở; hương = hương thơm), soạn giả định nghĩa rằng, đó là vị thuốc đông y dùng để chữa bệnh ho. Nếu gọi đây là định nghĩa thì chúng ta có thể dùng câu này để định nghĩa cho rất nhiều vị thuốc đông y khác, mà thực chất là chẳng định nghĩa gì cả. Nên định nghĩa cho rõ ràng, có tính khoa học một chút, như sau: An tức hương là nhựa của cây cánh kiền trắng, còn gọi là cây bồ đề, có tên khoa học là Styrax tonkinense, được dùng làm thuốc trong đông y để chữa chứng viêm phế quản và chứng nẻ vú.


2. chỉ xác 枳殼

Theo soạn giả thì chỉcây bưởi, xácvỏ, chỉ xácvị thuốc làm bằng vỏ bưởi phơi khô (ta hiểu là vỏ của quả bưởi chứ không phải là vỏ của cây bưởi). Nhưng, chúng ta biết rằng, cây bưởi có tên chữ Hán là dữu 柚 và tên khoa học là Citrus grandis hoặc Citrus maxima. Tra cứu các tài liệu của Trung Quốc, chúng tôi được biết, chỉ 枳 là cây câu quất, còn gọi là xú quất (nghĩa là quất hôi hoặc quýt hôi), có tên khoa học là Poncirus trifoliata, thân cây không cao lớn, lá có ba thuỳ, quả nhỏ và chua. Chỉ xácquả già của cây chỉ này được bổ đôi và phơi khô. Trong Ðông y, chỉ xá được dùng để chữa các chứng ho, hen, đờm, suyễn, đại tiện khó khăn và kiết lỵ ở trẻ con. Giáo sư Ðỗ Tất Lợi cho biết, cây chỉ 枳 để làm ra vị thuốc chỉ xác cũng có vài loài, đều thuộc họ Cam quýt. Người ta cũng lấy quả non phơi khô để làm ra vị thuốc chỉ thực 枳實. Như vậy, chỉ không phải là cây bưởi và chỉ xác không phải là vỏ bưởi phơi khô.


3. kinh lạc 經絡

Soạn giả cho biết rằng, chữ kinh có các nghĩa: sửa trị, đường dọc, sách vở, từng trải, thường. (Chúng ta hiểu rằng, trong từ kinh lạc, thì kinh có nghĩa là đường dọc). Còn chữ lạc thì ông cho rằng, đó là dây thần kinh, và, kinh lạc là hệ thống dây thần kinh nối liền các huyệt . Chúng tôi rất nghi ngờ về định nghĩa này, bởi vì hệ thống thần kinh thì do người phương Tây tìm ra và người Trung Hoa mới học hỏi trong mấy thế kỷ vừa qua, trong khi hệ kinh lạc là sản phẩm trí tuệ độc đáo của Trung Quốc mà người phương Tây hiện nay đang tiếp tục tìm hiểu. Bởi vậy, chúng tôi đã tra từ điển Từ hải và được biết như sau: Kinh lạc là mạng lưới các đường vận chuyển khí huyết (gần có nghĩa như là năng lượng, theo quan niệm của đông y) trong cơ thể. Kinh 經 là những đường chính chạy theo chiều dọc của cơ thể; lạc 絡 là những đường nối ngang giữa các đường dọc ấy; các huyệt châm cứu đều nằm trên mạng lưới kinh lạc. Hệ kinh lạc khác hẳn hệ thần kinh, và các đường kinh lạc không trùng với các dây thần kinh.


4. dạ hợp 夜合

Nếu không suy nghĩ và tra cứu thật cẩn thận thì rất dễ tưởng lầm rằng, ở từ dạ hợp, soạn giả đã cắt nghĩa rất đúng. Theo lời ông thì dạ = ban đêm; hợp = thích hợp; và, dạ hợp là một loài cây cùng họ với ngọc lan, hoa trắng rất thơm, nở về ban đêm. Cách cắt nghĩa từ tố hợp như trên đã khiến ông tin rằng, dạ hợp nghĩa là thích hợp với ban đêm nên loài hoa này ắt phải nở về đêm! Ðó là một điều sai nghiêm trọng. Ðúng là chữ hợp 合 có một nghĩa là thích hợp, là phù hợp, nhưng nó còn có nhiều nghĩa khác nữa. Trước hết, nghĩa ban đầu của nó là khép lại, mà đó cũng chính là nghĩa cụ thể trong từ dạ hợp 夜合. Từ điển Từ nguyên nói về cây dạ hợp như sau: mộc bản, diệp trường, hoa thanh bạch sắc, hiểu khai dạ hợp, cố danh. Nghĩa là: thân gỗ, lá dài, hoa màu trắng xanh, trời sáng thì nở, ban đêm thì cụp lại, do đó mà có tên ấy. Như vậy, vào ban đêm, hoa dạ hợp không thể nở được, dẫu đã nở rồi cũng phải cụp lại. Ngoài ra, dạ hợp còn là một tên gọi khác của cây hà thủ ô, một loài cây leo được dùng làm thuốc trong đông y.


5. long diên 龍涎

Cách giải thích của soạn giả về long diên chỉ hợp với yêu cầu và trình độ của học sinh tiểu học. Theo ông, long = rồng, diên = nước dãi; nghĩa đen của long diêndãi rồng; long diên là hương liệu giống như sáp, dùng làm thuốc. Bởi vì đối tượng chính của từ điển này hẳn không phải là học sinh tiểu học, bởi vậy, giải thích như thế thì quá mù mờ. Long diên 龍涎 còn gọi là long diên hương, tiếng Anh: ambergris) là một hợp chất giống như sáp, do một loài cá voi tiết ra, thường gặp ở dạng khối tròn nổi trên mặt biển, nặng từ 300-400g đến vài kilogram. Loài cá voi này có đầu rất to, gọi là cá nhà táng (tiếng Anh và tiếng Pháp gọi là cachalot). Long diên hương là một chất có mùi thơm, được dùng làm hương liệu, làm thuốc giảm đau, sát khuẩn, trị hen.


6. ngoại dịch (tiếng Anh: perilymph)

Soạn giả đã định nghĩa rằng, ngoại dịch là chất nước trong hốc xương tai trong của động vật . Ðịnh nghĩa này rất mù mờ và không khác gì mấy so với định nghĩa về nội dịch ở mục từ 11 dưới đây. Phải định nghĩa lại như sau: ngoại dịch là chất lỏng ở ngoài đường rối màng, ngăn cách đường rối màng với đường rối xương của tai trong. Xin giải thích thêm: đường rối màng (membraneuos labyrinth) là bộ phận cảm giác của tai trong, gồm một hệ thống ống màng vòng vèo; đường rối xương (bony labyrinth, osseous labyrinth) là hệ thống rãnh bên trong xương tai của động vật có xương sống, nơi chứa đường rối màng của tai trong.


7. nhãn áp 眼壓 (tiếng Anh: intraocular pressure; tiếng Pháp: pression intraoculaire)

Nhãn là mắt, áp là sức ép, ai cũng hiểu như thế, không có gì phải nói về các từ tố này. Nhưng, soạn giả đã nêu một định nghĩa hoàn toàn sai rằng, nhãn áp là áp suất của máu ở mắt! Ông hoàn toàn không hiểu rằng, áp suất của máu ở mắt hay ở bất cứ chỗ nào khác trên cơ thể cũng đều phụ thuộc vào sự co bóp của trái tim. Ðể đánh giá hoạt động của hệ tim – mạch, người ta chỉ cần đo huyết áp ở cổ tay chứ không cần (và nhiều khi không thể) đo ở các bộ phận khác trên cơ thể. Ðiều này chứng tỏ ông rất thiếu những tri thức cơ bản bình thường nhất.

Nhãn áp không phải là áp suất của máu ở mắt, mà áp suất của chất lỏng bên trong nhãn cầu.


8. nhiệt hạch 熱核 (tiếng Anh: thermonuclear, tiếng Pháp: thermonucléaire)

Từ phép suy luận thật đơn giản rằng, nhiệt là nóng, hạch là hạt, thế là soạn giả đưa ra cái định nghĩa: nhiệt hạch là nhiệt phát ra từ sự phá huỷ hạt nhân nguyên tử. Như vậy, ông đã coi từ nhiệt hạch là một danh từ, điều đó đủ chứng tỏ tầm mức hiểu biết của ông chưa tới những năm đầu của bậc trung học, khỏi phải bàn nữa. Từ nhiệt hạch không hề có vai trò danh từ. Nó là một tính từ, vốn được dịch từ chữ thermonuclear trong tiếng Anh (hoặc thermonucléaire trong tiếng Pháp) mà ra. Bởi vậy, nó phải nằm trong các tổ hợp từ như: phản ứng nhiệt hạch, năng lượng nhiệt hạch, vũ khí nhiệt hạch, bom nhiệt hạch, hoả tiễn nhiệt hạch, v.v. Nhiệt phát ra từ sự phá huỷ hạt nhân nguyên tử thì phải gọi là nhiệt năng hạt nhân, hay có người gọi là nhiệt năng hạch tâm, mà tiếng Anh gọi là nuclear heat, tiếng Pháp gọi là chaleur nucléaire, và tiếng Hán gọi là hạch nhiệt năng và không thể gọi là nhiệt hạch như soạn giả đã dạy. Phản ứng phá huỷ hạt nhân nguyên tử có tên là phản ứng hạt nhân hoặc phản ứng hạch tâm (hạch tâm nghĩa là hạt nhân nguyên tử), mà tiếng Anh gọi là nucleair reaction. Trái lại, phản ứng nhiệt hạch (thermonuclair reaction) là phản ứng tổng hợp hạt nhân, xẩy ra giữa các hạt nhân của các nguyên tố nhẹ khi chúng là những hợp phần của một chất khí ở nhiệt độ cao hàng chục triệu độ, kết quả là sẽ giải phóng năng lượng vô cùng lớn.


9. nhiệt hoá học

Theo soạn giả, nhiệt hoá học là ngành hoá học nghiên cứu nhiệt lượng sinh ra bởi những phản ứng hoá học. Ðịnh nghĩa như vậy hẳn là quá sơ sài và thiếu chính xác. Ðơn giản nhất cũng phải định nghĩa như sau: nhiệt hoá học là phân ngành của hoá học, chuyên nghiên cứu và phân tích những sự trao đổi nhiệt gắn liền với những phản ứng hoá học và những sự thay đổi trạng thái của vật chất.


10. nhiệt phân 熱分 (tiếng Anh: thermolysis, tiếng Pháp: thermolyse)

Nhiệt phân là sự chuyển hoá các hợp chất hữu cơ dưới tác động của nhiệt, có kèm theo sự phá huỷ chúng. Tiếc thay, soạn giả đã giải thích rằng, nhiệt phân là phép phân tích hoá học bằng nhiệt. Hiện tượng nhiệt phân nhiều khi xẩy ra ngoài sự mong muốn của con người, còn phép phân tích hoá học lại là việc mà con người chủ động thực hiện vì mục đích của mình. Hiện tượng nhiệt phân hoàn toàn không phải là phép phân tích hoá học bằng nhiệt như soạn giả đã nhầm lẫn.


11. nhu động 蝚 動 (tiếng Anh: peristalsis, tiếng Pháp: péristaltisme)

Theo soạn giả thì nhu nghĩa là mềm yếu, mềm dẻo, và, nhu động là từ y học chỉ cử động của ruột để đưa thức ăn xuống trong bộ máy tiêu hoá. Ðịnh nghĩa này của ông vừa thiếu chính xác vừa không tổng quát. Do không biết chữ Hán nên ông cứ tưởng rằng nhu nghĩa là mềm. Thực ra, trong tiếng Hán có đến ngót hai chục chữ có âm Hán Việt là nhu nhưng chỉ có một chữ nhu 柔 có nghĩa là mềm. Trong từ nhu động, nhu 蝚 có nghĩa là nhúc nhích như giun bò chứ không phải nhu 柔 là mềm như ông đã giải thích. Theo từ điển McGraw-Hill Dictionary of Scientific and Technical Terms (là từ điển giải thích các thuật ngữ khoa học và kỹ thuật bằng tiếng Anh, in hàng năm tại 18 thành phố trên khắp thế giới, rất đáng tin cậy) thì nhu động (peristalsis) là sự co duỗi nhịp nhàng của cơ trong ruột (hay trong các cơ quan khác có dạng ống mềm) dưới tác động phối hợp của những sợi cơ ngang và những sợi cơ dọc.


12. nội dịch (tiếng Anh: endolymph, tiếng Pháp: endolymphe)

Soạn giả nêu định nghĩa: nội dịch là chất nước ở tai trong của động vật. Ðịnh nghĩa này hoàn toàn không rõ ràng và cũng gần giống như định nghĩa về ngoại dịch mà soạn giả đã nêu (xem mục từ số 5 ở phần này), nó không cho biết nội dịch khác với ngoại dịch ở chỗ nào. Cần phải định nghĩa lại như sau: nội dịch là chất lỏng trong đường rối màng (membranous labyrinth) ở tai trong của động vật.


13. phức số 複 數 (tiếng Anh complex number, tiếng Pháp: nombre complexe)

Phức số (cũng gọi là số phức) là một số có dạng a+bi, trong đó, a và b là những số thực, và i2 = -1. Rủi thay, soạn giả định nghĩa rằng, phức số là số tính không theo hệ thập phân, ví dụ, số giờ tính ra phút là một phức số.

Ðây là một khái niệm toán học rất quan trọng trong chương trình trung học.


14. san hô 珊 瑚

Soạn giả cho rằng, santiếng ngọc chạm nhau; nghĩa là ngọc; và, san hô có hai nghĩa: 1) động vật thuộc ngành xoang tràng sống định cư thành tập đoàn san hô ở bờ biển, cơ thể có bộ xương cũng bằng chất khoáng, kết thành từng khối theo hình cành cây; 2) bộ xương của san hô. Ðịnh nghĩa như vậy, vừa dài dòng, vừa lủng củng, mà thực ra là chưa định nghĩa gì cả, bởi soạn giả đã sử dụng từ san hô để định nghĩa cho san hô. Theo nghĩa thứ hai thì "san hô nghĩa là bộ xương của san hô”, thật là bí hiểm! Chúng tôi đã tham khảo vài bộ từ điển khoa học trên thế giới và xin nêu định nghĩa như sau: San hô là bộ xương bằng đá vôi, thường có hình cành cây, do các tập đoàn động vật ruột khoang có tên là "trùng san hô" (Anthozoan) tiết ra. Chữ san 珊 này trong tiếng Hán không có nghĩa riêng như soạn giả đã bịa ra, nó chỉ có mặt trong hai từ là san san 珊珊 và san hô 珊瑚. San san là từ để mô tả tiếng va chạm giữa cái thẻ ngọc đeo ở thắt lưng (ngọc bội) và quần áo. Chữ 瑚 cũng không có nghĩa riêng, nó chỉ được dùng để tạo nên từ san hô mà thôi.


15. thạch anh 石英

Soạn giả dạy rằng, "thạch anh là khoáng chất dạng kết tinh trông óng ánh". Ðó không phải là định nghĩa, mà chỉ là một nhận xét về thạch anh. Có thể nêu định nghĩa: thạch anh là một khoáng vật tạo đá, trong suốt, thường không có màu, là đioxit silic SiO( kết tinh.


16. thạch tín

Thạchđá, tíntin, thạch tínhợp chất của asen chứa nhiều độc tố. Ðó là lời giảng của soạn giả. Thật là một lời giải thích rất hời hợt, chẳng nêu được một đặc điểm nào để phân biệt thạch tín với các chất khác. Thực ta, tên gọi đúng của khoáng chất này là tín thạch 信石 (vì nó được tìm thấy ở Tín Châu, nay thuộc vùng Thượng Nhiêu, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc), có thành phần chính là As2O3, rất độc, được dùng làm thuốc tiêu đờm, chữa sốt rét. Tín thạch còn được gọi tắt là tín, nhưng chữ tín 信 gồm chữ nhân 人 (hai nét bút ở bên trái của chữ tín 信 chính là biến thể của chữ nhân 人) ghép với chữ ngôn 言, do đó người ta còn gọi tín thạch là nhân ngôn 人言.


17. thần sa 辰 砂 (tiếng Anh: cinnabar, tiếng Pháp: cinabre)

Lời giảng giải của soạn giả về thần sa vừa sơ sài vừa sai hoàn toàn. Theo ông, thần nghĩa là ông thần, là linh diệu, là tinh thần; sa nghĩa là đá sỏi; và, thần sa là khoáng chất có màu đỏ tươi thắm, có hàm chất thuỷ ngân. Ðịnh nghĩa như vậy thì chỉ thích hợp với học sinh tiểu học. Ông chỉ nói đúng nghĩa của chữ sa, còn chữ thần mà hiểu như thế thì chỉ là sự đoán mò bậy bạ và là một sự bịa đặt tuỳ tiện của kẻ không biết chữ.

Thần sa là một hợp chất tự nhiên của lưu huỳnh và thuỷ ngân, có màu son đỏ, có công thức hoá học là HgS. Sở dĩ có tên là thần sa vì thứ khoáng vật này được tìm thấy ở Thần Châu 辰州 (thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc). Ở đây, chữ thần 辰 (nghĩa là buổi sáng, nhưng trong trường hợp này là tên của một vùng đất) không hề có nghĩa là ông thần hay tinh thần như soạn giả đã ngộ nhận. Cũng khoáng chất này nhưng không phải là sản phẩm của Thần Châu thì gọi là chu sa. Trong Ðông y, thần sa hoặc chu sa được dùng làm thuốc an thần. Vì là một hợp chất của thuỷ ngân nên thần sa là một chất độc.


18. trung khu 中 樞

Dựa theo âm mà không biết dạng chữ Hán nên soạn giả đoán rằng, khu = địa hạt rồi đưa ra định nghĩa: trung khu = khu vực thần kinh của vỏ não có chức năng khác nhau nhưng cùng tham gia vào các quá trình tâm lý. Ông không biết rằng, ở đây, khu 樞 có nghĩa ban đầu là cái trụ xoay của cánh cửa (ngày xưa chưa có bản lề), có nghĩa mở rộng là phần hệ trọng nhất. Chữ khu 樞 này có trong tên cuốn sách Hổ trướng khu cơ 虎帳樞機 của Ðào Duy Từ. Ngoài ra, nó còn có âm là xu trong từ xu mật viện 樞密院 để chỉ cơ quan giải quyết những công việc trọng yếu của quốc gia thời xưa.

Ðịnh nghĩa về từ trung khu (thần kinh) do soạn giả nêu ra vừa dài dòng, vừa chứng tỏ sự hiểu biết lờ mờ của ông. Từ này tương ứng với từ nerve center trong tiếng Anh, đó là một nhóm tế bào thần kinh thực hiện một chức năng đặc thù.


19. vi điện tử

Vi điện tử là hạt điện tử rất nhỏ, đó là cách giải thích ngớ ngẩn và sai nghiêm trọng của soạn giả, khiến người đọc vừa buồn cười, vừa đau xót và xấu hổ thay cho ông, bởi vì, với trình độ hiểu biết quá kém cỏi như thế mà cũng cả gan dám dạy mọi người. Có lẽ ông muốn phân biệt với các điện tử khác lớn hơn chúng chăng? Xin thưa rằng, điện tử, tức electron, là một loại hạt cơ bản bền vững, là thành phần tích điện âm trong mọi vật chất thông thường, có khối lượng bằng khoảng 9,11 x 10-28 gram và điện tích khoảng -1,602 x 10-19 coulomb. Như vậy, điện tử có khối lượng và điện tích rất cụ thể, làm gì có thứ điện tử rất nhỏ khác nữa?

Từ vi điện tử vốn được dịch từ tính từ microelectronic(al) trong tiếng Anh (hoặc micro-electronique trong tiếng Pháp), nó chỉ có thể đóng vai trò tính từ, như trong các cụm từ như mạch vi điện tử, thiết bị vi điện tử, v.v. để chỉ mạch điện tử hoặc thiết bị điện tử có kích thước cực kỳ nhỏ bé.


20. vi kế

Soạn giả giải thích: vi = nhỏ bé; kế = cái đo, rồi định nghĩa: vi kế là máy đo vật cực nhỏ, và đưa ra ví dụ: Vi kế điện tử có thể đo những vật nhỏ tới 1/2000 m/m. Ðọc định nghĩa này, chúng ta chưa rõ có phải là đo kích thước của vật cực nhỏ hay không, rồi đọc tiếp đến thí dụ lại càng không thể hiểu được, vì m/m hoàn toàn không có nghĩa gì cả và không hề có đơn vị đo nào như thế. Cuối cùng, chúng tôi cũng hiểu ra rằng, đó là cái micrometre (mà người Trung Quốc gọi là trắc vi kế và ở ta được gọi là vi kế), là dụng cụ để đo bề dày và đường kính của các vật, với độ chính xác rất cao đến dưới 1/1000 mm (chứ không phải để đo các vật cực nhỏ). Ðây là một dụng cụ đo của các kỹ sư hoặc thợ gia công cơ khí chính xác, mà ở nước ta thường gọi là “pan me” (tức palmer, cách gọi của người Pháp, theo tên người sáng chế ra nó là Jean Louis Palmer). Ðịnh nghĩa và ví dụ do soạn giả nêu ra đều sai hoàn toàn.

© 2005 talawas