© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
29.12.2002
Tạ Duy Anh
Đi tìm nhân vật
tiểu thuyết
 1   2   3   4   5   6   7   8   9 
 
Chương XV

Tôi ra khỏi nhà lúc 8 giờ 5 phút tối. Tôi đã nhìn đồng hồ tới hai lần để thấy rõ kim phút chỉ vào con số một. Tôi muốn mình được làm chứng về điều đó, rằng tôi đã ra khỏi nhà lúc 8 giờ 5 phút. Tôi không hiểu vì lẽ gì điều đó lại cần thiết với tôi, cũng như không hiểu tại sao mình cần một sự chính xác số học đến như vậy? Nàng nói là nếu muốn gặp nàng, trước 9 giờ tôi phải có mặt dưới chân Cổng Vòm. Từ nhà, tôi đi bình thường đến đó cũng chỉ mất nửa giờ. Như vậy mình hoàn toàn có thể yên tâm là mình đã tính thời gian dôi ra gần gấp đôi.

Vào giờ ấy đường phố ken dày các loại xe cộ. Những ngọn đèn đủ mầu như chảy ra thứ ánh sáng nhão nhoét, dính nhớp nháp. Vào giờ ấy những bản năng ban ngày vờ vĩnh nhắm mắt nhẩy xổ ra như con mèo trong câu chuyện ngụ ngôn đội lốt cô gái mỹ miều, vụt thò hết móng vuốt khi thấy con mồi. Bất cứ xó xỉnh nào cũng thấy ẩn hiện những chủ nhân của bóng tối. "Thật là một sự nhạo báng dễ chịu" - Tôi thầm nghĩ. Và rồi những ý nghĩ cứ nối tiếp nhau xuất hiện trong đầu tôi. Ðột nhiên tôi nhớ tới một kỷ niệm từ thời thơ bé. Nỗi dày vò sau khi cô gái dở điên dở dại bỏ đi từ trong sâu thẳm ký ức tôi nhoi lên như một con sâu. Hắn và bóng đêm tiền định với nỗi u ám của màu thời gian. Những lời hô hào giả dối của tên độc tài trước đám đông không còn cá tính. Nàng Mona Liza trên bức tường nhiễm vi trùng giang mai... Những ý nghĩ, những ý nghĩ xảo quyệt, tìm đủ mọi cách để cắt nhỏ tôi ra. Tôi cảm nhận nó như một căn bệnh của thế kỷ: Bệnh nhiễu tâm do bị ức chế bởi quá nhiều nỗi sợ và dục vọng. Khi tôi tự ra lệnh cho mình không nghĩ gì cả, thì ngay cái mệnh lệnh đó lại trở thành một ý nghĩ chết tiệt và lập tức kéo theo lúc nhúc những ý nghĩ khác. Cuối cùng bất lực, tôi đành phải nói to lên cho chính mình nghe: Cần phải đến Cổng Vòm trước 9 giờ! Như một trò chơi xảo quyệt, đúng lúc đó tôi chợt nhớ ra là mình chưa rút phích ấm điện. Nước sẽ cạn cho đến khi ruột ấm đỏ hồng lên và kết thúc bằng một tiếng nổ. Căn phòng có thể bốc cháy cùng với những bí mật của quá khứ mà tôi vẫn chưa dám động đến. Hàng trăm người sẽ hô hoán nhau chạy đến để thấy kẻ không phải là mình gặp nạn. Những ý nghĩ đó làm đầu tôi muốn vỡ ra. Nhưng quay về sẽ muộn mất. Tôi liếc nhanh vào đồng hồ để tự bào chữa cho hành động quay về của mình.

Tôi mở cửa phòng và lao thốc vào. Có mùi khét nhưng không có chiếc ấm điện nào hết. Nó đã hỏng từ hôm qua do tôi cắm phích mà quên chưa đổ nước, hiện đang ở chỗ thợ sửa chữa. Ngay lúc ấy tôi nhìn thấy một con chuột đang ung dung vuốt râu. "Thủ phạm đây rồi" - Tôi nhớ tới tập bản thảo bị cắn nát và hét lên. Tôi vơ chiếc chổi phất trần lao vào nó. Tay tôi vồ xuống đất, vẹo khớp đau điếng trong khi con chuột đã rúc rích ở chân giường phía trong cùng. Tôi căm tức bò sát đất, định lừa đâm cho nó một nhát. Nhưng nó đã kịp biến mất và chui tọt qua khe cửa ra ngoài. "Bây giờ thì nó sẽ ngồi ở chỗ nào đó để cười nhạo mình". Tôi sập mạnh cửa, lập bập móc khóa. Khi tôi đang lựa chiều bấm khóa thì chuông điện thoại réo. Thây kệ! Nếu đầu dây bên kia có là Thượng Ðế chăng nữa thì ngài cũng cứ vui lòng gọi lại cho tôi vào lúc khác. Nó sẽ tắt sau hồi réo thứ ba - tôi tự nhủ. Nhưng chiếc khóa chết tiệt cứ luôn luôn chệch ra ngoài lỗ bấm. Chuông điện thoại đổ sang hồi thứ tư, thứ năm và không có dấu hiệu gì chứng tỏ nó chịu im đi cho. Tôi xoay ngược khóa một vòng khiến nó rít lên một tiếng han gỉ rất ghê rợn. Chuông điện thoại đổ sang hồi thứ bảy, nghe nóng bỏng và gấp gáp. Hay lão sếp về với quỷ Satan rồi cũng nên và người ta coi việc chưa báo được cho tôi là một day dứt? ít có khả năng xảy ra điều đó. Hôm qua lão còn hẹn tôi sẽ nói chuyện nghiêm túc. Ngay sau lời hẹn đầy dọa nạt, lão ưỡn bụng cười khiến nếp thịt kéo yếm ở cổ rung lên như sóng. Chuông điện thoại đã kịp đổ đến hồi thứ chín, y như tiếng chuông báo động ngày tận thế. Tôi giật cửa lao vào, vồ lấy ống nghe. Tôi vừa áp lên tai thì một giọng phụ nữ the thé quát vào tai:

- Hẹn hò thế đấy hả! Anh đùa với tôi phải không? Sao cái lúc ấy thì anh ngọt ngào thế?

Chị ta chợt gào rống lên:

- Ðồ xỏ lá! Tôi đâu phải là con điếm để anh cần thì gọi. Anh hãy nói thẳng với tôi một câu, bao giờ thì bố mẹ anh đến rước tôi về. Nếu không tôi sẽ bóp chết cái mầm lừa đảo của anh trong bụng tôi.

- Này, nhưng mà ai đấy?

- A, còn ai nữa cơ à - Chị ta rít lên. Ðồ, đồ...

- Tôi ở số máy...

Ðầu dây bên kia chợt im phắc rồi một giọng phụ nữ nhỏ nhẹ e lệ cất lên:

- Xin lỗi, em nhầm máy...

Tôi dập ống nghe xuống. Lần này chiếc khóa đã chịu chui vào lỗ bấm. Tôi chạy bộ trên hè phố. Thật may là tôi đã dự phòng số thời gian gấp đôi. Chợt một người đàn ông ăn mặc lịch sự, trông rất quen đang đi về phía tôi. Tôi không sao nhớ ra ông ta là ai. Ông ta khẽ nghiêng người tránh tôi. ở sát mặt nhau, tôi nhìn rõ cả chiếc nốt ruồi quen thuộc dưới cằm ông ta. Ông ta là ai nhỉ. Tôi lục tung các ngăn trí nhớ và ngăn nào cũng thấy khuôn mặt ông ta nhưng vẫn không giúp tôi nhớ cụ thể là ai. Một người tôi từng gặp đâu đó, từng mặt đối mặt. Tôi bước chậm lại, tay đặt lên trán. Một cảm giác khó chịu như kiểu một chiếc khóa nào đó của trí nhớ bị hóc, không sao mở ra được. Tôi gõ vào trán và chỉ thấy nó âm âm, u u. Hình ảnh ông ta gắn với một cái gì đó thuộc về quá khứ, với chiến tranh, với thằng bé đánh giầy nào đó bị đâm chết, với kim Tự-tháp, với động vật hoang dã, với những nụ cười nhợt nhạt, toe toét, nham hiểm, với ánh sáng và bóng tối... nhưng không thuộc về một cái gì mà trí nhớ có thể bám vào được. Tôi thấy mệt, bứt rứt, hoang mang và điên loạn khi chưa nhớ ra ông ta là ai. Tôi lao vụt trở lại đuổi theo ông ta. Nhưng ở một lối rẽ, ông ta đã biến mất. Tôi giậm chân lạch bạch xuống vỉa hè.

- Này, này...

Tôi quay ngoắt sang tiếng người vừa gọi, mắt long lên. May là ban đêm nên chị ta không nhận ra cơn giận dữ của tôi. Chị đi dạo với một con chó cảnh và không hiểu sao tôi chỉ muốn hét lên với chị ta.

- Gì thế?

- Làm ơn cho biết mấy giờ rồi ạ.

Tôi đáp đại khái:

- Chín giờ kém.

- Thôi chết! Sao lại thế được. Làm ơn xem giúp lại xem.

- Chín giờ kém.

- Sớm quá! - chị ta quay sang tôi - Cảm ơn anh.

Khuôn mặt người đàn ông lại hiện lên. Ông ta khiến tôi nhớ đến một cái gì chảy nhão nhoẹt và cái sự nhão nhoẹt ấy gợi tôi nhớ tới những cơn đau vò xé của cha tôi luôn thể gợi tôi nhớ đến những ghi chép bí ẩn của ông mà tôi chưa dám động đến. Tôi biết rằng chỉ cần tôi cả gan lật trang đầu tiên, cánh cửa quá khứ sẽ rít lên kèn kẹt và khi đó tôi có muốn đóng lại cũng không được. Tôi sẽ bị đẩy đến chỗ một mình đối mặt với những thứ có thể đánh tráo số phận của tôi.

Chiếc ba-ri-e sắt có bánh xe khoang đen khoang đỏ đột ngột từ nơi ẩn nấp lao ra, rít lên một chuỗi những âm thanh gai người. Dòng xe cộ đang chảy bị chặn đứng lại, ùn lên. Ngay cả lúc này cái khuôn mặt vừa bắt gặp kia cũng không tha ám ảnh tôi.

- Chú đánh giầy chứ?

Tôi gầm gừ:

- Lúc này là lúc nào? Ðợi đến ngày mai.

Sai lầm của tôi là cho nó thấy rõ trong câu trả lời một sự lưỡng lự. Nó bám chặt lấy như tôi vẫn bám vào hy vọng.

- Còn lúc nào hơn lúc này nữa? - nó cúi xuống vuốt ve chiếc giầy của tôi - Giầy của chú "xịn" thế, da cá mập hẳn hoi.

Tôi dùng chân hất nó ra bằng một sự ghét bỏ mà tôi chưa thấy xuất hiện ở tôi bao giờ. Có thể từ một tình huống tương tự thế này mà một thằng bé đánh giầy nào đó bị đâm chết - Tôi nghĩ một cách lạnh lùng. Thằng bé thấy tôi khó đăm đăm thì thôi không nài nữa. Mặt nó khá ngộ nghĩnh. Nó ngã xuống, khuôn mặt kia sẽ tối lại, y như một ngọn nến bị thổi tắt. Nó có vẻ đang chăm chú vào một điểm nào đó. Chợt nó lách nhẹ về phía trước, như con mèo tiến về phía con chuột, nơi một phụ nữ đang cúi xuống sửa tất miệng ê a hát... Ðoàn tàu rầm rầm lao qua, như một con quái vật, trùm lên một khoảng tối. Thằng bé lặn sâu vào khoảng tối đó và khi mặt đường sáng trở lại thì không ai, kể cả quỷ sứ, còn thấy bóng dáng nó. Và ngay cả quỷ sứ cũng phải giật mình trước tiếng kêu chói tai của người bị cắt mất bóp tiền.

Tôi tự nhủ là mình không được mủi lòng. Còn những tiếng kêu khác của đồng loại, thê thảm hơn, chói tai hơn mà ta buộc phải làm ngơ. Việc cao cả nhất với tôi lúc này là phải đến được Cổng Vòm trong vòng ít phút nữa. Qua nốt đoạn đường này, đến chỗ ngã tư đằng kia là tôi có thể nhìn thấy nó. Chỗ đó tôi đã từng đến. Ðó là hôm từ quán cà phê bước ra, trong khi còn đang muốn tiếp tục câu chuyện về tính cách người Việt, tiến sĩ N kéo tôi đến dưới Cổng Vòm. Nhưng đến nơi, hà hít cái hương vị mốc meo của thời gian, chúng tôi quên khuấy mất cuộc tranh luận dang dở. Tiến sĩ N ngửa cổ nhìn lên nóc vòm trong khi tôi chợt nhớ đến cuốn sách bìa da dê của cha tôi mà cũng đột nhiên tôi nhớ ra không bao giờ còn thấy nó nữa. Lát sau tiến sĩ N hỏi tôi: "Cậu có biết câu chuyện về chiếc cổng Kerkaporta(1) không?". Tôi thành thật lắc đầu thì ông ta mỉm cười bảo: "Cậu cứ hình dung nó như một thứ lỗ chó ở ta. ấy thế mà nhân loại đã chui qua nó để từ dã man sang nền văn minh ngày nay đấy".

Cái sự bất tuân kỷ luật một cách vô tâm, lạnh lùng này của ký ức, một lần nữa làm tôi muốn phát điên. Nó còn muốn dìm tôi ngập sâu vào những sự kiện gần như vô nghĩa với tôi. Và tôi liên tục tự hỏi để thoát khỏi nó, rằng, những sự kiện ấy thì có liên quan gì đến thời khắc hiện tại, khi tôi chỉ có một mục đích duy nhất là đến chỗ nàng chỉ trước 9 giờ?

*


Có những người khi còn sống họ chỉ cứ thấp thoáng trong tầm quan sát của ta. Họ bị ẩn khuất trước vô vàn những sự kiện, những cá nhân khác. Họ chìm đi dưới bề mặt cuộc sống ồn ào. Ðôi khi ta lãng quên họ, như lãng quên một kỷ niệm trung tính. Họ kể những câu chuyện liên quan đến số phận họ nhưng ta không nhớ. Ta không nhớ vì bản thân họ không kích thích sự quan tâm hiếu kỳ của ta. Họ lại chẳng có gì đặc biệt, đôi khi chỉ cần giống như một sự dị dạng. Tóm lại họ cứ chết dần trong ta cho đến khi, một hôm nào đó, họ lặng lẽ tắt thở, từ biệt thế gian này. Sự lãng quên vốn là căn bệnh của văn minh, được thời gian phụ họa, nhanh chóng chôn vùi một cá thể không lặp lại xuống đáy. Ðôi khi (và ngày càng thường xuyên hơn) nó chôn cả những người đang sống. Nó chôn cả những người vừa mới sống. Và theo đà tăng tiến, khi mà lãng quên đạt đến độ hoàn hảo, nó chôn cả những người chưa sinh ra, chưa từng sống.

Trường hợp ông Bân với tôi, có thể nói, là một bi kịch của thời gian và trí nhớ. Khi ông sống, mặc dù chúng tôi có mối quan hệ đặc biệt, ông vẫn không sao khiến được tôi chú ý. Tôi, thậm chí còn cười nhếch mép trước cái ý định ít nhiều kỳ quặc, đi tìm nhân vật của ông. Vì thế ông chỉ sống trước mắt tôi chứ ít sống trong tôi. Nghĩa là chỉ khi nào gặp ông, cùng ăn bữa cơm đạm bạc trong tình trạng chỉ vài câu là hết chuyện, cùng đối mặt nhau bên tách cà phê mà cả tôi và ông không nghiện, tôi mới có khái niệm về sự hiện diện của ông. Còn lại tôi lấp đầy ký ức bằng những thứ không dính gì đến ông. Ngoài những gì do chính ông kể về kỷ niệm đau đớn thời thơ bé, tôi không biết (đúng hơn là không muốn biết) tí gì về đời tư của ông, nhất là mỗi lần đến căn phòng ở tầng áp mái của ông, thấy ngập lên một sự tự hành xác, tự đày đọa mình trong cô đơn, trong sự vò nát tâm can bằng những đêm ngồi bóp trán khiến râu ria tua tủa, mắt trũng xuống, môi khô nứt khiến phô ra những chiếc răng cửa không được che kín (và cũng là do tôi phỏng đoán thế thôi do ấn tượng đập vào mắt là chính). Tôi chưa bao giờ hỏi về vợ con ông hay chí ít về một mối tình nào đó. Nhìn dáng ông lòng khòng, ngực lép, hơi lõm vào trong... luôn luôn gợi trong tôi một ý nghĩ hài hước: "Sao ông ta không nghĩ ông ta có tất cả những yếu tố để thành một nhân vật, còn phải tầm ở đâu?". Ðó chỉ là một trong hàng trăm ý nghĩ của tôi về ông Bân mỗi khi chúng tôi gặp nhau.

Ấy vậy mà sau khi ông chết trong sự lãng quên đạt đến độ hồn nhiên của người đời, thì từ những mảnh sa mạc khô cằn trong ký ức tôi lại nảy lên chiếc mầm xanh kết quả từ sự sống của ông. Tôi có thêm một bí ẩn nữa thêm vào đống tài sản được thừa kế từ quá khứ. 13 cuốn sổ ghi chép của ông, cùng với bọc thư khổng lồ "gửi từ thế giới bên kia", cùng với những phác thảo trong đó có một phác thảo về tôi, đủ cho tôi giải mã những bí mật lớn của thời cuộc mà ông và tôi là nhân chứng, là người bị văng ra ngoài thành những vật thể mất trọng lực. Nhưng chính vì bị văng ra mà chưa bao giờ ông và tôi thèm khát hướng về cuộc sống đến thế.

Chỉ còn phải qua một ngã tư là tôi đã có thể nom thấy chiếc Cổng Vòm. Nếu gặp nàng tôi sẽ nói cho nàng biết một trong những bí mật vào loại lớn nhất của cả tôi và nàng. Rằng, trong vòng một phần triệu triệu giây, chỉ vừa đủ thời gian một tia sáng lóe lên rồi tắt, tôi đã được bay bằng tốc độ siêu ánh sáng qua trùng trùng điệp điệp những miền lãng quên của ký ức trở về với một trong những sự kiện, vào loại tầm thường nhất, để mở chiếc khóa vào một thế giới sâu thẳm như vũ trụ, đó là bi kịch của một số phận. ở đó ký ức tôi còn ghi nguyên vẹn câu chuyện sau đây:

Vào một buổi chiều đầu đông, cái thời điểm mà chỉ một kẻ đần độn và vô cảm mới không đi ra đường để hàng tỉ đầu dây thần kinh được rung lên một cách đầy hoan lạc. Một buổi chiều như thế tôi đến thăm ông Bân. Tôi bắt gặp ông trong cái dáng vẻ của một kẻ "đần độn và vô cảm". Ông mặc chiếc áo dạ cũ kỹ, ngồi tụt xuống trong chiếc ghế mây thủng mặt và gần như một kẻ đã chết. Tôi dừng lại ở cửa bởi không nỡ khuấy động ông. Lát sau ông ra hiệu cho tôi vào và tự tìm lấy một chỗ mà ngồi. Tôi làm theo cái mệnh lệnh im lặng đó. Mãi lâu sau ông mới như bừng tỉnh để cảm thấy mình vừa là một kẻ phi lý và bất nhã.

Chúng tôi ngồi đối diện nhau và như thường lệ, tôi nghe, nhìn ông làm phép là chính. Luôn luôn tôi nghĩ, giả sử ông ta không tự tìm đến mình và giả sử không có sự trùng lặp giữa một số phận do ông ta bịa ra với cuộc đời thật của mình, thì mình sẽ không bao giờ phí thì giờ với con người tẻ nhạt này. Còn ông Bân, như một sự quỵ lụy bẩm sinh, ông cố gắng không mệt mỏi để giữ chân tôi, cầu xin tôi cái điều luôn luôn thừa mứa.

Nhưng buổi chiều hôm ấy thì khác. Sau khi cố gắng lịch sự với tôi, bằng thái độ, ông muốn hôm nay, ngay cả tôi cũng đừng quấy rầy ông. Ông muốn ngồi một mình, tự dày vò mình, được là kẻ cô đơn với cái khoái cảm bệnh hoạn là sỉ nhục mình. Ông đã ý tứ nói xa xôi về điều đó. Ông đã đuổi khéo tôi bằng câu hỏi: "Hôm nay anh không có việc gì sao?". Nhưng, cũng như một thứ khoái cảm bệnh hoạn, tôi thích xử sự một cách trái khoáy, một kiểu chơi ác với người ít có ấn tượng: Tôi quyết định lì lợm ngồi lại.

- Cảm ơn cậu đã không tự ái - ông Bân nói thay cho lời thú nhận quả là ông đã muốn đuổi khéo tôi - Cảm ơn cậu đã hình dung ra hoàn cảnh nguy hiểm của mình mà ở lại. Bởi vì nếu hôm nay cậu không đến, mình dự định sẽ nộp mình cho quỷ sứ.

Cái giọng khác thường của ông không hiểu sao khiến tôi muốn bật cười. Nhưng cũng ngay tức khắc tôi hiểu ra rằng tôi rất có thể là kẻ lạc lõng bỉ ổi. Tôi cố gắng im lặng để nghe ông và để rồi, như quý vị thấy, suốt nhiều năm tôi đã không nhớ tới câu chuyện này, giống như không nhớ hàng ngàn câu chuyện tôi cho là vô bổ khác.

Câu chuyện ông Bân kể, chỉ cần đổi vị trí người kể, sẽ trùng khít với câu chuyện nàng thổ lộ với tôi qua bức thư. Nhân vật của nàng là ông và em, còn nhân vật của ông Bân là tôi và Nàng. Chính tôi là nguyên nhân của việc kể lại câu chuyện ấy và đổi cách xưng hô. "Kẻ làm chứng cũng ngủ tít thò lò thì ai sẽ là người làm sáng lên công lý?" - ý nghĩ này len vào đầu tôi một cách giảo hoạt. Hai câu chuyện cùng một nội dung và chỉ khác nhau ở phần kết. Ông Bân bảo rằng ông đã lừa dối nàng một cách tinh tế. Ông đã phóng đại sự khốn khổ bằng một màn kịch tuyệt khéo, bằng vai diễn xuất thần và ông ngầm theo dõi sự biến chuyển từng tí một trên gương mặt nàng. Ðầu tiên, ông nhận thấy nàng quyết sẽ hy sinh đời nàng cho một người có khát vọng lớn như ông. Ông lập tức điều chỉnh dung lượng, rằng nỗi khổ của ông đem chia cho người khác là một sự độc ác và ai nhận hộ ông sẽ chất lên cuộc đời ông nỗi khổ lớn gấp bội. Ngay lập tức ông đọc được từ nàng: "Vậy thì em sẽ giải phóng cho ông". Ông phát tín hiệu im lặng, đủ để vô tội với nàng. Ðêm ấy ông vờ ngồi vào bàn viết để vô can hóa sự cổ vũ nàng ra đi của ông. Nàng sẽ bịa ra lý do nào đó. Và quả nhiên nàng đã làm như vậy: "Em ra ngoài một lát". Ông đã hoàn toàn ra ngoài bi kịch để nói: "Em nhớ về sớm nhé". Quỷ nhại lại theo cách của nó: "Em nhớ biến sớm đi nhé". Bởi vì cả ông và nó đều biết rất rõ nàng bỏ đi, dấn thân vào nơi mà nàng sẽ bị nuốt chửng. Ông vờ lừa quỷ: "Nàng đi đâu nhỉ, không khéo...". Nó nháy mắt: "Mọi chuyện thế là xong nhé. Chào ông bạn, kẻ dối trá tinh tế!". Ông quát lên: "Mi xem đây. Ta sẽ đi tìm nàng". Ông lao bổ xuống phố, không cần xem đồng hồ cũng biết nó đã quá đủ để nàng đi khuất. Ông quay về trong sự nhẹ nhõm ngụy tạo: "Ta đã đi tìm nàng. Ta tìm khắp chốn. Ta lo lắng cho nàng xiết bao. Cầu cho nàng bình an"...

Kể từ bấy đến nay - ông Bân nói tiếp - đêm nào tôi cũng nằm mơ thấy nàng. Sự thật mà tôi chôn chặt là bằng việc có mặt của nàng, tôi cứ thấy lo sợ về điều gì đó. Có thể là những bước chân dậm dịch khua trên cầu thang mà đêm nào tôi cũng nghe trong nỗi hốt hoảng. Thực ra mình sợ ai và sợ cái gì nhỉ? Nỗi sợ thực sự chính là tôi đã không tìm được câu trả lời cho mình. Mỗi ngày nó một đè nặng lên cuộc sống của tôi. Khi nàng viết cho tôi những bức thư (chi tiết này tôi quên hoàn toàn khi ông Bân còn sống) từ thế giới bên kia, tôi lại thấy nó như những lời phán quyết tôi về sự hèn nhát. Chỉ có sự hóa thân trở lại làm trinh nữ của nàng mới giúp tôi tháo được chiếc ách, chính là chiếc ách đã cùm Ponti Pilat.

Một phần triệu triệu giây sau tôi đã lại ở trong dòng ý nghĩ: "Mình không có lý do gì để không đến Cổng Vòm trước 9 giờ". Tôi bỗng ngước nhìn trời như tìm kiếm xem giờ này ông Bân đang ở đâu. Ðúng vào lúc tôi nhìn và xác định dứt khoát chiếc kim phút chỉ vào số 11, nghĩa là cộng vào mọi trục trặc, tôi mới chỉ đi hết 50 phút, thì một tiếng quát khô khốc cắt đôi niềm hứng khởi của tôi:

- Anh kia! Mắt mù à?

Tôi sững lại và nhận ra chiếc dây thừng căng ngang đường. Trước mắt tôi Cổng Vòm hiện lên đen đúa như một vật sót lại của cơn đại hỏa hoạn. Phía dưới nó mọi người đang đi lại, đo vẽ quanh một vật gì đó đen thui. Họ gồm cảnh sát, những người mặc áo blouse, như những cái bóng di động. ở vòng xa xa bọn người hiếu kỳ đang vừa theo dõi các nhà chức trách vừa sôi nổi tranh cãi. Tôi hỏi một gã đàn ông có ria quanh mép khiến mặt gã nom như bị quệt nhọ nồi:

- Có chuyện gì thế anh bạn?

Thay cho việc trả lời, gã lạnh lùng nhìn tôi, hất hàm về phía mọi người, lên xe rồ máy lao thẳng. Một linh cảm nào đó khiến giọng tôi y như thứ giọng của kẻ vừa phạm tội. Cuối cùng thì một gã đầy hiếu thắng đã mô tả một đoạn văn phiếm chỉ như sau:

- Ngọn lửa bùng lên, bốc cao, sáng rực cả một vùng. Nhưng ở lõi của nó, một khuôn mặt xinh đẹp còn rực sáng gấp bội. Ngọn lửa ôm lấy khuôn mặt phát sáng ấy và nó cho cảm giác đang vuốt ve khuôn mặt nàng.

Tôi lảo đảo bám vào chiếc cọc người ta vừa kịp cắm xuống. Tiếng bàn tán vẫn râm ran:

- Tôi dạo mát ở đây và thấy cô ta, ăn mặc như một thiếu nữ quý phái. Cô ta có vẻ như đang chờ ai, liên tục xem đồng hồ, cho đến khi tôi tưởng có một quả pháo sáng. Không, lửa của sao băng thì đúng hơn.

- Như một mảnh thiên thạch lao từ trời xuống và phát sáng - người khác sửa lại.

Tôi ôm chặt lấy đầu, cố gắng đừng để ai nhận ra tôi là kẻ liên can đến vụ tự bốc cháy (thật khó tin vào điều này) của cô gái nào đó mà lý trí lạnh lùng của tôi khẳng định chính là nàng. Một lần nữa tôi muốn được cả thế giới chứng cho rằng tôi đã đến trước chín giờ.

- Ðồng hồ của ông chỉ mấy giờ rồi?

- Kém 9 phút nữa thì đến 10 giờ...

- Ông nói sao! Tại sao đồng hồ của tôi mới có 9 giờ 7 phút? - Tôi chìa tay có đeo đồng hồ ra, cảm thấy đất dưới chân đang cựa mình.

Người đàn ông đã cẩn thận quay sang so giờ với một chiếc đồng hồ khác, thấy hoàn toàn yên tâm, thản nhiên cười với tôi:

- Ðồng hồ chạy chậm là chuyện bình thường. Chẳng biết ông thế nào chứ tôi đã từng may mắn khi để đồng hồ chạy sai đấy.

Tôi có cảm giác gã đàn ông này đang ngọt ngào nhạo báng tôi. Tôi chờ thêm câu hỏi "khi đi ông có nhìn đồng hồ không?" để hoàn tất một buổi tối rủi ro của gã. Nhưng hình như ngay lập tức cả thế giới cũng không là gì trước mắt gã. Do không nện được cho gã một cái, tôi hét lên:

- Không, không thể thế được! Không thể có sự chơi xỏ nhau từ ở cấp ấy được. Ðồ lừa lọc nham hiểm!

Chẳng ai hiểu gì, đúng hơn, tôi cứ việc hét, gào, rú... chẳng bận tâm đến ai. Từ những cái nhìn vô cảm mà tôi thấy mình bị xốc lên giá treo cổ. Tự dưng tôi muốn rũ xuống, như một con rối xổ hết cót. Có cái gì cực kỳ phi lý vừa mới xảy ra. Bàn tay số phận thò vào để thực hiện ý muốn của nó hay chỉ là trò nhạo của những kẻ chuyên ẩn mình trong bóng tối? Tôi thấy kiệt sức trước những câu hỏi đó, mà âm vang của nó từng dội suốt bao nhiêu thế kỷ vào trời thẳm. Và gần như không thể chịu nổi hay đó chính là cái cách giữ cho bộ mặt cuộc sống vẻ hài hước trong cả những trò đùa ác, bỗng dưng tôi nhớ ra, rõ mồn một, bộ mặt người đàn ông đi ngược chiều với tôi trên vỉa hè: Ông ta là phát thanh viên truyền hình nổi tiếng. Ngày nào cả triệu khuôn mặt của ông ta cũng hiện lên ở khắp nơi.



Thay cho đoạn kết

Tôi trở lại Cổng Vòm ngay sau đám tang tràn ngập hoa trắng của nàng để hình dung lại giây phút nàng hóa thân trở về làm trinh nữ vĩnh cửu. Có những biến cố kỳ lạ xảy ra với tôi. Chẳng hạn lần đầu tiên tôi đi qua phố G mà không có cảm giác rờn rợn hoặc lo sợ mình biến thành người khác. Trong một tâm trạng nửa thức nửa ngủ - tôi rất hay có tâm trạng này kể từ sau khi nàng hóa thân - tôi gặp lại cha mẹ tôi, vợ chồng tiến sĩ N, ông gác rừng, gã thợ săn, ông Bân, cô bé bị chôn sống, ả gái điếm trầm mình năm nào và vô số người mà tôi chưa hề gặp mặt nhưng đều nhận là anh em của tôi. Họ sống trong bầu không khí thanh nhẹ, hoan hỉ... đến mức khi tỉnh dậy tôi cứ băn khoăn: Không biết cuộc sống nào là thực?

Ðêm nào tôi cũng ngồi nhìn ra phía bên ngoài cửa sổ, nhất là những đêm giông bão nhưng tai lại dỏng về phía cửa chính. Dường như - tôi tin thế - một ngày nào đó, vẫn với tiếng bước chân rất nhẹ nhưng sau đó sẽ là tiếng gõ cửa...

Một lá thư được bí mật chuyển đến tay tôi. Nội dung như sau:

Chúc mừng ông đã không phải rơi vào tay tôi! Tôi vừa có đủ bằng chứng để kết luận lần cuối cùng: Ông không liên quan gì đến vụ một kẻ hung đồ đã vô cớ dùng dao nhọn đâm vào cổ thằng bé đánh giầy, gây án mạng ở phố G cách đây vài năm. Tuy nhiên lý trí tỉnh táo và chắc chắn là sáng suốt của tôi muốn tôi - do chỗ mến ông - khuyên ông nên tránh xa cô gái mà ông vẫn đem lòng tơ tưởng. Một ngàn lần cô ta không xứng với ông! Tôi chỉ tự cho phép tôi nói được có thế. Dù sao cũng chúc ông hạnh phúc! Chào ông!

Tôi muốn cười phá lên, vo tròn tờ giấy ném mạnh xuống đất. Rồi chẳng hiểu sao tôi lại cúi xuống nhặt lên. Chính khi đó tôi nhớ đến cuốn nhật ký của cha tôi và câu nói trước khi người từ giã thế gian mà giờ đây như vẳng xuống từ trời: Can đảm lên con, đừng sợ!



Tân Mai - Hà Nội những ngày xa Bá tước,

tháng 8/1998 đến tháng 12/1998

Sửa lần cuối tháng 8/1999.



Phần phụ lục

(4 truyện cổ tích đặc sắc)



I - Rùa chạy thi với thỏ

(Chuyện này có trong Sách giáo khoa cấp I (?) rất phổ biến những năm 60, 70, nay không sưu tầm được nguyên văn, chỉ xin tóm lược lại)



Vì bị thỏ chê mình chậm chạp, rùa quyết thách thỏ chạy thi. Thỏ cầm chắc phần thắng trong tay nên chẳng có gì phải chuẩn bị, lo lắng.

Không ngờ rùa khôn lỏi, quyết cho thỏ một phen thất bại. Rùa chọn địa điểm, hẹn thỏ ngày hôm sau rồi suốt đêm ngầm bố trí hàng chục họ hàng giống nhau nấp sẵn trong những mô đá trên suốt quãng đường chạy thi. Vào cuộc thỏ ưỡn ngực chạy như bay nhưng luôn luôn thấy tiếng rùa ở phía trước: Ta ở đây lâu rồi. Cuối cùng gần đến đích thì đã thấy rùa tươi cười bảo: "Sao nhà ngươi chạy chậm thế?" Vốn thật thà, ngờ nghệch, thỏ tin là mình thua thật và nhận thất bại. Cả họ nhà rùa đắc ý lắm.

Chú dẫn: truyện ca ngợi sự mưu trí của rùa, biểu tượng cho nhân dân lao động bình thường, cần cù mà thông minh.



II - Trí khôn của tao đây

Một con cọp từ trong rừng đi ra, thấy một anh nông dân cùng một con trâu đang cày dưới ruộng. Trâu cặm cụi đi từng bước, lâu lâu lại bị quất một roi vào mông. Cọp lấy làm ngạc nhiên. Ðến trưa, mở cày, Cọp liền đi lại gần Trâu hỏi:

- Này, trông anh khỏe thế, sao anh lại để cho người đánh đập khổ sở như vậy?

Trâu trả lời khẽ vào tai Cọp:

- Người tuy nhỏ, nhưng người có trí khôn, anh ạ!

Cọp không hiểu, tò mò hỏi:

- Trí khôn là cái gì? Nó như thế nào?

Trâu không biết giải thích ra sao, đành trả lời qua quýt:

- Trí khôn là trí khôn, chứ còn là cái gì nữa? Muốn biết rõ thì hỏi người ấy!

Cọp thong thả bước lại chỗ anh nông dân ôn tồn nói:

- Trí khôn của anh đâu, cho tôi xem một tí có được không?

Anh nông dân suy nghĩ một lát rồi nói:

- Trí khôn tôi để ở nhà. Ðể tôi về lấy cho anh xem. Anh có cần, tôi sẽ cho anh một ít.

Cọp nghe nói, mừng lắm.

Anh nông dân toan đi, lại làm như sực nhớ ra điều gì bèn nói:

- Nhưng mà tôi đi khỏi, lỡ anh ăn mất trâu của tôi thì sao?

Cọp đang băn khoăn chưa biết trả lời thế nào thì anh nông dân đã nói tiếp:

- Hay là anh chịu khó để tôi buộc tạm vào gốc cây này cho tôi được yên tâm.

Cọp ưng thuận, anh nông dân bèn lấy dây thừng trói Cọp thật chặt vào một gốc cây. Xong anh lấy roi cày quất túi bụi vào đầu, vào lưng Cọp, vừa quát vừa thét:

- Trí khôn của tao đây! Trí khôn của tao đây!

Cũng chưa hả, anh chất rơm chung quanh Cọp, châm lửa đốt và lại quát:

- Ðã thấy trí khôn của tao chưa? Ðã thấy trí khôn của tao chưa?

Trâu thấy vậy thích quá, bò lăn ra mà cười, không may hàm răng trên va vào đá, răng gãy không còn chiếc nào.

Mãi sau dây thừng cháy đứt, Cọp mới vùng dậy ba chân bốn cẳng cút thẳng vào rừng không dám ngoảnh nhìn lại.

Từ đó, cọp sinh ra con nào trên mình cũng có những vằn đen dài, vốn là dấu tích những vết cháy, còn trâu thì chẳng con nào có răng ở hàm trên cả.



III - Truyện Tấm Cám

Ngày xưa, có Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Hai chị em suýt soát tuổi nhau. Tấm là con vợ cả. Cám là con vợ lẽ. Mẹ Tấm đã chết từ hồi Tấm còn bé. Sau đó mấy năm thì cha Tấm cũng chết. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám. Nhưng dì ghẻ của Tấm là người rất cay nghiệt. Hàng ngày, Tấm phải làm lụng luôn canh, hết chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo; đêm lại còn xay lúa giã gạo mà không hết việc. Trong khi đó thì Cám được mẹ nuông chiều độc ăn trắng mặc trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, không phải làm việc nặng.

Một hôm người dì ghẻ đưa cho hai chị em mỗi người một cái giỏ bảo ra đồng bắt con tôm cái tép. Mụ ta hứa hẹn: "Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ!"

Ra đồng, Tấm nhờ mò cua bắt ốc đã quen chỉ một buổi là được đầy giỏ vừa cá vừa tép. Còn Cám thì đủng đỉnh dạo hết ruộng nọ sang ruộng kia. Mãi đến chiều vẫn không được gì.

Thấy Tấm bắt được một giỏ đầy, Cám bảo chị:

- Chị Tấm ơi chị Tấm! Ðầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về dì mắng.

Tin là thật, Tấm bèn xuống ao lội ra chỗ sâu tắm rửa. Cám thừa dịp trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi ba chân bốn cẳng về trước. Lúc Tấm bước lên chỉ còn giỏ không, bèn ngồi xuống bưng mặt khóc hu hu.

Bấy giờ Bụt đang ngồi trên tòa sen, bỗng nghe tiếng khóc của Tấm, liền hiện xuống hỏi:

- Con làm sao lại khóc?

Tấm kể lể sự tình cho Bụt nghe. Bụt bảo:

- Thôi con hãy nín đi! Con thử nhìn vào giỏ xem còn có gì nữa không?

Tấm nhìn vào giỏ rồi nói:

- Chỉ còn một con cá bống.

- Con đem con cá bống ấy về thả xuống giếng mà nuôi. Một bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai còn một đem thả xuống cho bống. Mỗi lần cho ăn con nhớ gọi như thế này:

Bống bống bang bang

Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta

Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người.

Không gọi đúng như thế thì nó không lên, con nhớ lấy!

Nói xong Bụt biến mất. Tấm theo lời Bụt thả bống xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ mỗi bữa ăn, Tấm đều để dành cơm giấu đưa ra cho bống. Mỗi lần nghe lời Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống ngày một lớn lên trông thấy.

Thấy Tấm sau bữa ăn thường mang cơm ra giếng, mụ dì ghẻ sinh nghi, bèn bảo Cám đi rình. Cám nấp ở bụi cây bên bờ giếng nghe Tấm gọi bống, bèn nhẩm lấy cho thuộc rồi về kể lại cho mẹ nghe.

Tối hôm ấy mụ dì ghẻ bảo Tấm sáng mai dậy sớm chăn trâu, và dặn:

- Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.

Tấm vâng lời, sáng sớm hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa. ở nhà, mẹ con Cám mang bát cơm ra giếng, cũng gọi bống lên ăn y như Tấm gọi. Nghe lời gọi, bống ngoi lên mặt nước. Mẹ Cám đã chực sẵn, bắt lấy bống đem về nhà làm thịt.

Ðến chiều Tấm dắt trâu về, sau khi ăn xong Tấm lại mang bát cơm để dành ra giếng. Tấm gọi nhưng chả thấy bống ngoi lên như mọi khi. Tấm gọi mãi, gọi mãi, cuối cùng chỉ thấy cục máu nổi lên mặt nước. Biết là có sự chẳng lành cho bống. Tấm oà lên khóc. Bụt lại hiện lên hỏi:

- Con làm sao lại khóc?

Tấm kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo:

- Con bống của con, người ta đã ăn thịt mất rồi. Thôi con hãy nín đi! Rồi về nhặt lấy xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm.

Tấm trở về theo lời Bụt đi tìm xương bống, nhưng tìm mãi các xó vườn góc sân mà không thấy đâu cả. Một con gà thấy thế, bảo Tấm:

- Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho!

Tấm bốc nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bếp bới một lúc thì thấy xương ngay. Tấm bèn nhặt lấy bỏ vào lọ và đem chôn dưới chân giường như lời Bụt dặn.

*


Ít lâu sau nhà vua mở hội trong mấy đêm ngày. Già trẻ gái trai các làng đều nô nức đi xem. Trên các nẻo đường, quần áo mớ ba mớ bảy dập dìu tuôn về kinh như nước chảy. Hai mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Thấy Tấm cũng muốn đi, mụ dì ghẻ nguýt dài. Sau đó mụ lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc, bảo Tấm:

- Con hãy nhặt xong cho dì chỗ gạo này rồi có đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dở; về không có gì để thổi cơm dì đánh đó.

Nói đoạn, hai mẹ con quần áo xúng xính lên đường. Tấm ngồi nhặt một lúc, thấy sốt ruột, nghĩ rằng không biết bao giờ mới nhặt xong, bèn ngồi khóc một mình. Giữa lúc ấy, Bụt hiện lên hỏi:

- Con làm sao lại khóc?

Tấm chỉ vào cái thúng, thưa:

- Dì con bắt phải nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, rồi mới được đi xem hội. Lúc nhặt xong thì hội đã tan rồi còn gì mà xem.

Bụt bảo:

- Con đừng khóc nữa. Con mang cái thúng đặt ra giữa sân, để ta sai chim sẻ xuống nhặt giúp.

- Nhưng ngộ chim sẻ ăn mất thì khi về con vẫn cứ phải đòn.

- Con cứ bảo chúng nó thế này:

Rặt rặt (tức chim sẻ) xuống nhặt cho tao

Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết

Thì chúng nó sẽ không ăn của con đâu.

Tự nhiên ở trên không có một đàn chim đáp xuống sân nhặt thóc ra một đằng, gạo một nẻo. Chúng nó lăng xăng ríu rít chỉ trong một lát đã làm xong, không suy xuyển một hạt. Nhưng khi chim sẻ đã bay đi rồi, Tấm lại nức nở khóc. Bụt lại bảo:

- Con làm sao lại khóc?

- Con rách rưới quá, người ta không cho con vào xem hội.

- Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ thứ cho con trẩy hội.

Tấm vâng lời, đi đào các lọ lên. Ðào lọ thứ nhất lấy ra được một áo mớ ba, một cái xống lụa, một cái yếm lụa điều và một cái khăn nhiễu. Ðào lọ thứ hai lấy ra được một con ngựa bé tí, nhưng vừa đặt con ngựa xuống đất bỗng chốc nó đã hý vang lên và biến thành ngựa thật. Ðào đến lọ cuối cùng thì lấy ra được bộ yên cương xinh xắn.

Tấm mừng quá vội tắm rửa rồi thắng bộ vào, đoạn cưỡi lên ngựa mà đi. Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Nhưng khi phóng qua một chỗ lội, Tấm đánh rơi một giày xuống nước không kịp nhặt. Khi ngựa dừng lại ở đám hội. Tấm lấy khăn gói chiếc giày còn lại rồi chen vào biển người.

Giữa lúc ấy thì đoàn xa giá cũng vừa tiến đến chỗ lội. Hai con voi ngự dẫn đầu đoàn đến đấy tự nhiên cắm ngà xuống đất kêu rống lên, không chịu đi. Vua sai quân lính xuống nước thử tìm xem; họ nhặt ngay được một chiếc giày thêu của Tấm lúc nãy đánh rơi xuống đó. Vua ngắm nghía giày không chán mắt. Bụng bảo dạ: - "Chà, một chiếc giày thật xinh! Người đi giày này hẳn phải là trang tuyệt sắc".

Lập tức vua hạ lệnh cho rao mời tất cả đám đàn bà con gái xem hội ướm thử, hễ ai đi vừa chiếc giày thì vua sẽ lấy làm vợ. Ðám hội lại càng náo nhiệt vì các bà, các cô chen nhau đến để thử giày. Cô nào cô ấy lần lượt kéo vào ngôi lầu giữa bãi cỏ rộng để ướm một tí cầu may. Nhưng chả có một chân nào đi vừa cả. Mẹ con Cám cũng trong số đó. Khi Cám và dì ghẻ bước ra khỏi lầu thì gặp Tấm, Cám mách mẹ:

- Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử giày đấy!

Mụ dì ghẻ của Tấm bĩu môi:

- Con nỡm, chuông khánh còn chẳng ăn ai

Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre

Nhưng khi tấm vừa đặt chân vào giày thì vừa như in. Nàng mở khăn lấy luôn chiếc thứ hai đi vào. Hai chiếc giày giống nhau như đúc. Bọn lính hầu hò reo vui mừng. Lập tức vua sai đoàn thị nữ rước nàng vào cung. Tấm bước lên kiệu trước con mắt ngạc nhiên và hằn học của mẹ con Cám.

Tuy sống sung sướng trong hoàng cung, Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Nàng xin phép vua trở về để soạn cỗ cúng. Mẹ con Cám thấy Tấm sung sướng thì ghen ghét để bụng. Nay thấy Tấm về, lòng ghen ghét lại bừng bốc lên. Nghĩ ra được một mưu, mụ dì ghẻ bảo Tấm:

- Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo xé lấy một buồng cau để cúng bố.

Tấm vâng lời trèo lên cây cau: Lúc lên đến sát buồng thì ở dưới này mụ dì ghẻ cầm dao đẵn gốc. Thấy cây rung chuyển, Tấm hỏi:

- Dì làm gì dưới gốc thế?

- Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con.

Nhưng Tấm chưa kịp xé cau thì cây đã đổ. Tấm ngã lộn cổ xuống ao chết. Mụ dì ghẻ vội vàng lột áo quần của Tấm cho con mình mặc vào rồi đưa vào cung nói dối với vua rằng Tấm không may bị rơi xuống ao chết đuối, nay đưa em vào để thế chị. Vua nghe nói trong bụng không vui, nhưng vẫn không nói gì cả.

Lại nói chuyện Tấm chết hóa thành chim vàng anh, chim bay một mạch về kinh đến vườn ngự. Thấy Cám đang giặt áo cho vua ở giếng, vàng anh dừng lại trên cành cây, bảo nó:

- Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.

Rồi chim vàng anh bay thẳng vào cung đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay đến đó. Vua đang nhớ Tấm không nguôi, thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo:

- Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo.

Chim vàng anh bèn đậu vào tay vua, rồi rúc vào tay áo. Vua yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Vua sai làm một cái lồng bằng vàng cho chim ở. Từ đó, ngày đêm vua chỉ mê mải với chim, không tưởng đến Cám.

Cám vội về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói dối vua. Trở lại cung vua, Cám nhân lúc vua đi vắng, bắt chim làm thịt nấu ăn, rồi vứt lông chim ở ngoài vườn. Thấy mất vàng anh, vua hỏi. Cám đáp:

- Thiếp có mang, thèm ăn thịt chim, nên trộm phép bệ hạ đã giết thịt ăn mất rồi.

Vua không nói gì cả. Lông chim vàng anh chôn ở vườn hóa ra hai cây xoan đào. Khi vua đi chơi vườn ngự, cành lá của chúng sà xuống che kín thành bóng, sai lính hầu võng vào hai cây rồi nằm chơi hóng mát. Khi vua đi khỏi thì cành cây lại vươn thẳng trở lại. Từ đó, không ngày nào là vua không ra nằm hóng mát ở hai cây xoan đào.

Cám biết chuyện ấy lại về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo, cứ sai thợ chặt cây làm khung cửi rồi kiếm điều nói dối vua. Về đến cung, nhân một hôm gió bão, Cám sai thợ chặt hai cây xoan đào lấy gỗ đóng khung cửi. Thấy cây bị chặt, vua hỏi thì Cám đáp:

- Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ.

Nhưng khi khung cửi đóng xong, Cám ngồi vào dệt lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi rủa mình:

Cót ca cót két

Lấy tranh chồng chị

Chị khoét mắt ra

Thấy vậy Cám sợ hãi, vội về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo đốt quách khung cửi, rồi đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên tâm. Về đến cung, Cám làm như lời mẹ nói. Nó mang tro đã đốt đem đi đổ ở lề đường cách xa hoàng cung. Ðống tro bên đường lại mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá xum xuê. Ðến mùa có quả, cây thị chỉ đậu được có một quả, nhưng mùi thơm ngát tỏa ra khắp nơi. Một bà lão hàng nước ở gần đó một hôm đi qua dưới gốc, ngửi thấy mùi thơm, ngẩng đầu nhìn lên thấy quả thị trên cành cao, bèn giơ bị ra nói lẩm bẩm:

- Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi chứ bà không ăn.

Bà lão nói vừa dứt lời, thì quả thị rụng xuống đúng vào bị. Bà lão nâng niu về nhà cất trong buồng, thỉnh thoảng vào ngắm nghía và ngửi mùi thơm.

Ngày nào bà lão cũng đi chợ vắng. Từ trong quả thị chui ra một cô gái thân hình bé nhỏ như ngón tay, nhưng chỉ trong chớp mắt đã biến thành Tấm. Tấm vừa bước ra đã cầm lấy chổi quét dọn nhà cửa sạch sẽ, rồi đi vo gạo thổi cơm, hái rau ở vườn nấu canh giúp bà hàng nước. Ðoạn Tấm lại thu hình bé nhỏ như cũ rồi chui vào vỏ quả thị. Lần nào đi chợ về, bà lão cũng thấy nhà cửa ngăn nắp, cơm ngon, canh ngọt sẵn sàng, thì lấy làm lạ.

Một hôm bà hàng nước giả vờ đi chợ, đến nửa đường lại lén trở về, rình ở bụi cây sau nhà. Trong khi đó, Tấm từ quả thị chui ra rồi cũng làm việc như mọi lần. Bà lão rón rén lại nhìn vào khe cửa. Khi thấy một cô gái xinh đẹp thì bà mừng quá, bất thình lình xô cửa vào ôm choàng lấy Tấm, đoạn xé vụn vỏ thị. Từ đó Tấm ở với bà hàng nước, hai người thương nhau như hai mẹ con. Hàng ngày, Tấm giúp bà lão các việc thổi cơm, nấu nướng, gói bánh, têm trầu để cho bà ngồi bán hàng.

Một hôm vua đi chơi ra khỏi hoàng cung. Thấy có quán nước bên đường sạch sẽ, bèn ghé vào. Bà lão mang trầu nước dâng lên vua. Thấy trầu têm cánh phượng, vua sực nhớ tới trầu vợ mình têm ngày trước cũng y như vậy, liền phán hỏi:

- Trầu này ai têm?

- Trầu này con gái già têm - bà lão đáp.

- Con gái của bà đâu, gọi ra đây cho ta xem mặt.

Bà lão gọi Tấm ra. Tấm vừa xuất hiện, vua nhận ra ngay vợ mình ngày trước, có phần trẻ đẹp hơn xưa. Vua mừng quá, bảo bà lão hàng nước kể lại sự tình, rồi truyền cho quân hầu đưa kiệu rước Tấm về cung.

Cám thấy Tấm trở về và được vua yêu đương như xưa, thì nó không khỏi sợ hãi. Một hôm, Cám hỏi chị:

- Chị Tấm ơi chị Tấm, chị làm thế nào mà đẹp thế.

Tấm không đáp, mà hỏi lại:

- Có muốn đẹp không để chị giúp!

Cám bằng lòng ngay. Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi. Tấm bảo Cám xuống hố rồi sai quân hầu dội nước sôi vào hố. Cám chết. Tấm sai đem xác làm mắm bỏ vào chĩnh gửi cho mụ dì ghẻ, nói là quà của con gái mụ gửi biếu. Mẹ Cám tưởng thật, lấy mắm ra ăn, bữa nào cũng nức nở khen ngon. Một con quạ ở đâu bay đến đậu trên nóc nhà kêu rằng:

- Ngon ngỏn ngòn ngon! Mẹ ăn thịt con, có còn xin miếng.

Mẹ Cám giận lắm, chửi mắng rầm rĩ rồi vác sào đuổi quạ. Nhưng đến ngày mắm ăn gần hết, dòm vào chĩnh, mụ thấy đầu lâu của con thì lăn đùng ra chết.



IV - Mỵ Châu - Trọng Thủy

Sau khi đã giúp An Dương Vương xây Loa Thành, thần Kim Qui cho An Dương Vương một cái móng của mình để làm lẫy nỏ mà giữ thành. Theo lời thần dặn, nỏ có được cái lẫy làm bằng móng chân thần sẽ là chiếc nỏ bắn trăm phát trúng cả trăm và chỉ một phát có thể giết hàng nghìn quân giặc.

An Dương Vương chọn trong đám gia thần được một người làm nỏ rất khéo tên là Cao Lỗ và giao cho Lỗ làm chiếc nỏ thần. Lỗ gắng sức làm trong nhiều ngày mới xong. Chiếc nỏ rất lớn và rất cứng, khác hẳn những nỏ thường, phải tay lực sĩ mới giương nổi. An Dương Vương quý chiếc nỏ vô cùng, lúc nào cũng treo gần chỗ nằm.

Lúc bấy giờ Triệu Ðà làm chúa đất Nam Hải, mấy lần Ðà đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng vì do An Dương Vương có nỏ thần, quân Nam Hải bị giết hại rất nhiều, nên Ðà đành cố thủ đợi cơ hội khác. Triệu Ðà thấy dùng binh không lợi, bèn xin giảng hòa với An Dương Vương, và sai con trai là Trọng Thủy sang cầu thân nhưng chủ ý tìm cách phá chiếc nỏ thần.

Trong những ngày đi lại để kết tình hòa hiếu. Trọng Thủy được gặp Mỵ Châu một thiếu nữ mày ngài mắt phượng, nhan sắc tuyệt trần, con gái yêu của An Dương Vương. Trọng Thủy đem lòng yêu Mỵ Châu, Mỵ Châu dần dần cũng xiêu lòng. Hai người trở nên thân thiết, không còn chỗ nào trong Loa Thành là Mỵ Châu không dẫn người yêu mình đến xem. An Dương Vương không nghi ngờ gì cả. Thấy đôi trẻ thương yêu nhau, vua liền gả Mỵ Châu cho Trọng Thủy. Một đêm trăng sao vằng vặc, Mỵ Châu cùng Trọng Thủy ngồi trên phiến đá trắng giữa vườn, cùng nhau nhìn dãy tường thành cao ngất. Gió lạnh thổi, mây ngàn xa bay, đêm mỗi lúc một khuya... Trong câu chuyện tỉ tê, Trọng Thủy hỏi vợ rằng:

- Nàng ơi! Bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không đánh được?

Mỵ Châu đáp:

- Có bí quyết gì đâu chàng! Âu Lạc đã có thành cao, hào sâu, lại có nỏ thần, lại bắn một phát chết hàng nghìn quân địch như thế còn ai đánh nổi được.

Trọng Thủy làm bộ ngạc nhiên, vờ như mới nghe nói đến nỏ thần lần đầu, chàng ngỏ ý muốn xem chiếc nỏ. Mỵ Châu không ngần ngại, chạy ngay vào chỗ cha nằm, lấy nỏ đem ra cho chồng xem. Nàng lại chỉ cho chàng biết cái lẫy vốn là chiếc móng chân thần Kim Qui và giảng cho Trọng Thủy nghe biết cách bắn. Trọng Thủy chăm chú nghe, chăm chú nhìn cái lẫy, nhìn khuôn khổ cái nỏ hồi lâu rồi đưa cho vợ cất đi.

Hôm sau Trọng Thủy xin phép vua về thăm cha và thuật lại cho Triệu Ðà biết về chiếc nỏ thần. Ðà sai một gia nhân chuyên làm nỏ, chế một cái lẫy giống hệt cái lẫy của An Dương Vương. Lẫy giả làm xong. Trọng Thủy giấu vào trong áo lại trở sang Âu Lạc.

An Dương Vương vốn chiều con gái, thấy con mỗi khi gặp chồng thì vui vẻ sung sướng, liền sai gia nhân bày tiệc rượu, để ba cha con cùng vui. Trọng Thủy uống cầm chừng, còn An Dương Vương và Mỵ Châu say túy lúy. Trọng Thủy thừa lúc bố vợ và vợ ngủ say, lẻn ngay vào phòng tháo lẫy bằng móng chân thần Kim Qui và thay cái lẫy giả bằng móng rùa thường vào.

Hôm sau thấy chồng có vẻ bồn chồn, hết đứng lại ngồi không yên, Mỵ Châu hỏi chồng rằng:

- Chàng như có vẻ lo nghĩ gì, phải không?

Trọng Thủy đáp:

- Tôi sắp phải đi bây giờ. Phụ vương dặn phải về ngay để còn lên miền Bắc, miền Bắc xa mãi trên kia.

Mỵ Châu buồn rầu, lặng thinh. Trọng Thủy nói tiếp:

- Bây giờ đôi ta sắp phải xa nhau, không biết đến bao giờ gặp lại! Nếu chẳng may giặc dã, có khi nàng không ở chốn này nữa, tôi biết đâu mà tìm?

Mỵ Châu nói:

- Thiếp có áo lông ngỗng hễ thiếp chạy về phương nào thiếp sẽ rắc lông ngỗng dọc đường, chàng cứ theo dấu lông ngỗng mà tìm.

Nói xong Mỵ Châu nức nở khóc.

Về đến đất Nam Hải, Trọng Thủy đưa ra cái móng rùa vàng cho cha. Triệu Ðà mừng rỡ vô cùng, reo lên rằng: "Phen này đất Âu Lạc sẽ về tay ta!" ít lâu sau Triệu Ðà ra lệnh cất quân sang đánh Âu Lạc.

Nghe tin báo, An Dương Vương cậy có nỏ thần, không phòng bị gì cả. Ðến khi quân giặc đã đến sát chân thành, An Dương Vương mới sai đem nỏ thần ra bắn thì thấy không hiệu nghiệm nữa.

Quân Nam Hải phá cửa thành, kéo ùa vào. An Dương Vương vội lên ngựa, cho Mỵ Châu ngồi sau lưng, phi ngựa thoát ra cửa sau. Ngồi sau lưng cha, Mỵ Châu bứt lông ngỗng ở áo rắc khắp dọc đường. Ðường núi gập ghềnh hiểm trở, ngựa chạy luôn mấy ngày đêm, mới đến núi Dạ Sơn gần bờ biển. Hai cha con định xuống ngựa ngồi nghỉ thì quân giặc đã đuổi gần đến. Thấy đường núi quanh co dốc ngược, bóng chiều đã xuống, không còn lối nào chạy, An Dương Vương hướng ra biển khấn thần Kim Qui phù hộ cho mình. Vua vừa khấn xong thì một cơn gió lốc bốc cát bụi lên mịt mù làm rung chuyển cả núi rừng. Thần Kim Qui hiện lên, bảo An Dương Vương rằng: "Giặc ở sau lưng nhà vua đấy!"

An Dương Vương tỉnh ngộ, liền rút gươm chém Mỵ Châu, rồi nhảy xuống biển tự tận (2) Quân của Triệu Ðà kéo vào chiếm đóng Loa Thành còn Trọng Thủy một mình một ngựa theo dấu lông ngỗng đi tìm Mỵ Châu. Ðến gần bờ biển thấy xác vợ nằm trên đám cỏ, tuy chết mà nhan sắc không mờ phai. Trọng Thủy khóc oà lên, thu nhặt thi hài đem về chôn trong Loa Thành, rồi đâm đầu xuống giếng trong thành mà chết.

Ngày nay ở làng Cổ Loa, trước đền thờ An Dương Vương còn cái giếng gọi là giếng Trọng Thủy. Tục truyền khi Mỵ Châu đã bị cha giết rồi, máu nàng chảy xuống biển, trai ăn được nên mới có ngọc châu. Lấy được ngọc trai đó đem về rửa nước giếng trong thành Cổ Loa thì ngọc trong sáng vô cùng.




1) Chiếc cổng phụ bị bỏ quên, là nơi quân Thổ tiến vào hạ thành Byzance, trở thành sự kiện ngẫu nhiên mở đầu thời đại Phục hưng.
2) Có sách chép: Thần Kim Qui làm phép rẽ nước đưa An Dương Vương xuống thủy phủ. Ngày nay trên núi Mộ Dạ huyện Diễn Châu, Nghệ An có đền thờ An Dương Vương.