© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
24.5.2003
Nguyễn Khải
Thượng đế thì cười
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12 
 
8.

Càng về già hắn càng không thích nghe những câu nói làm duyên của người già, những câu đùa tình tứ của người già, và cả cái liếc mắt mà lòng con ngươi đã bạc phếch của người già. Hắn lại càng sợ phải nghe những bài thơ của các mối tình già, những chuyện tình tái xuân lãng mạn của người già. Câu chuyện tình của bà chị hắn với ông anh rể muộn mằn là chuyện nhân nghĩa, là sự đền bù một cuộc tình bị lỡ dở những năm còn trẻ mới khiến được hắn cảm động, khiến hắn quan tâm và trân trọng. Nhưng hắn vẫn không giấu được nụ cười ẩn náu đâu đó giữa các hàng chữ. Bây giờ người vợ già của hắn lại nói từ sáng đến tối, đến nửa đêm rằng bà luôn luôn yêu hắn, luôn luôn sợ mất hắn, luôn luôn dõi theo hắn mỗi lần hắn bước ra khỏi nhà, không phải đi đâu xa cả năm cả tháng mà chỉ là đi ăn quà sáng hoặc đi uống một tách cà phê ở đầu đường. Thế là hắn nổi điên lên dẫu hắn vẫn biết sự cáu giận của mình là rất vô lý, rất quái gở. Thằng con lớn nói nửa thật nửa đùa: "Ðã già mà vẫn được vợ yêu là hạnh phúc lắm đấy. Bố phải nghĩ mình là người chồng rất hạnh phúc, nghĩ thế là sẽ thấy nhẹ nhõm ngay". Nhưng hắn không thể nghĩ như thế được, hắn vốn rất sợ những hành vi buồn cười, những lời nói buồn cười, đã là hai cái xác sắp đem chôn còn bày đặt ghen tuông, rình mò, sợ bị ai đó cướp mất. Chỉ có đứa khùng mới đi cướp một cái xác khô về để hầu và để chôn thôi. Vợ hắn bảo: "Anh mặc quần áo đàng hoàng đâu có giống cái xác khô, vẫn còn tươi tắn lắm, chỉ như người mới 60 thôi". Mấy bố con ngồi trò chuyện với nhau, hắn nói nhăn nhó: "Mẹ chúng mày điên thật rồi, mắc bệnh tâm thần phân liệt rồi, lấy chuyện hư, chuyện tưởng tượng làm chuyện thật, càng lúc càng tin là chuyện có thật. Chúng mày phải nghĩ cách giùm tao..." Thằng con lớn vẫn vừa cười vừa nói: "Bố thường khoe một đời biết nhịn những cái nhỏ để được những cái lớn. Bố thử chiều mẹ một chút xem sao?" Hắn hỏi lại: "Tức là tao nhận tao đã có lỗi?" - "Với người có bệnh cứ nhận đại là đã có lỗi, có nhiều lầm lỗi thì đã mất gì nào? Mẹ còn sống được bao lâu mà bố phải nhất quyết giành cho được phần thắng?" - "Tao tự hào là một người chồng, một ông bố rất có trách nhiệm từ trẻ đến già. Tao chả có lỗi gì với mẹ con chúng mày cả". Ðứa con lại hỏi: "Xưa nay bố có lỗi gì với bạn bè mà sao bố chịu nhường nhịn các chú ấy nhiều thế?" Hắn nói: "Với bạn bè tao rất có lỗi, người ngoài nhìn vào nghĩ rằng tao không có lỗi, nhưng tự tao biết tao rất có lỗi với họ". Con hắn lại cười: "Họ chưa đánh bố đã chạy làm sao lại có lỗi được?" - "Có chứ, cô chú Anh Ðức sinh con trong rừng, nuôi con dưới bom B.52, tao rất có lỗi với vợ chồng chú ấy. Chú Nguyên Ngọc lấy vợ năm đã ngoài bốn chục tuổi, vợ chú ấy cũng phải ngồi trong nhà tù của Mỹ ngụy nhiều năm, chả lẽ tao không có lỗi. Chú Phan Tứ rời chiến trường ra Hà Nội chỉ để đi nằm bệnh viện, ra ra vào vào, chết đi sống lại mấy lần, chả lẽ tao không có chút ân hận nào? Nói ngay cậu Chí Trung của chúng mày, một đời lăn lộn trong bom đạn, bây giờ già lắm rồi, đứng lên ngồi xuống đã phải vịn bàn chống tay, nói một lúc là thở, đã ngoài bảy mươi mà một gia đình cho riêng mình cũng không có. Tao với cậu ấy còn nhiều chuyện phải tranh cãi nhưng tao đâu có dám tranh cãi, hễ cậu ấy cáu lên là tao tháo chạy ngay. Tao gần như được tất cả, cậu ấy gần như mất tất cả, chỉ còn lại mỗi cái quân hàm thiếu tướng. Thiếu tướng chứ đến đại tướng đâu có lấp đầy được những thiếu vắng của tuổi già. Tao có tư cách gì mà tranh luận, mà phân phải trái với những con người như thế. Tao không đồng tình với họ nhiều chuyện nhưng tao ngưỡng mộ họ, tao vẫn nhìn vào họ để gìn giữ sự ngay thẳng trong ngòi bút của mình".

Nói tới chuyện có lỗi hắn lại nghĩ tới Nguyễn Trọng Oánh, một người bạn rất thân của hắn từ thuở mới về tạp chí Văn nghệ Quân đội. Cả hai đều là lính quân khu, lính đại đoàn được điều động về Tổng cục Chính trị, giống như một lũ tiểu quỷ đang ở gò ở đống bỗng chốc được lên thượng giới để sống kề cận với các vị đại tiên; đang là tôm tép ở rãnh nhỏ ngòi nông được vớt ra sông lớn hồ rộng, sống mãi rồi cũng có ngày trở thành cá lớn. Suốt một thời đánh Pháp tự nghĩ, tự viết chả có pháp thuật gì, thầy bà gì biết đến ngày nào mới thành chánh quả? Hắn là người sinh trưởng ở Hà Nội, sau nhiều năm ở làng ở rừng được về lại thành phố ngu ngơ như người nhà quê. Còn Oánh chỉ là chàng trai nông thôn lần đầu ra sống ở Hà Nội nhìn đâu cũng lạ. Cái vui của kháng chiến thành công, của tuổi trẻ, của Hà Thành hoa lệ, của những năm tháng nhảy cao bay xa sắp tới, hắn lại lấy được cả tiền nhuận bút truyện vừa Xây dựng khoảng 15 ngàn (là một trăm rưởi khi đổi tiền), sáng trưa tối đều có thể ra phố ăn quà thoả thích, sống thoả thuê, sống mãn nguyện mọi giờ mọi phút trong ngày, không ai muốn ngủ cả, không đi chơi thì ngồi tán chuyện, đọc thơ, đọc văn cho nhau nghe, rồi nghe các bậc đàn anh tâm sự về nghề nghiệp, kể chuyện về cuộc sống và thói quen viết lách của các tên tuổi lớn trên văn đàn hồi trước cách mạng và những năm ở rừng trong kháng chiến. Rồi những cái chết trận và chết bệnh của Trần Ðăng, Hoàng Lộc, Thâm Tâm, Hải Triều, Ngô Tất Tố, Nguyễn Ðình Lạp... Trong những câu chuyện linh tinh mỗi ngày mỗi đêm, hắn và Oánh gần như chỉ ngồi nghe chứ không dám mở miệng nói leo, biết gì mà nói, chuyện của nghề mới là anh tập việc, người trong nghề cũng chỉ mới được làm quen, sách của Tây thì chưa được đọc, sách của ta cũng chỉ mới đọc dăm bảy cuốn tiểu thuyết trước cách mạng. Vốn liếng sách vở không, từng trải việc đời không, mà lại dám nuôi mộng thành nhà văn nhà báo không sợ là hão huyền sao? Năm 1957, hắn bắt đầu viết các tập ghi chép về một vùng nông thôn công giáo ở Nam Ðịnh đăng rải làm nhiều kỳ trên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Những chương sách có thể tồn tại độc lập được lập tức có bạn đọc ngay và tên của hắn bắt đầu được nhắc trong giới viết lách và những bạn đọc yêu văn học. Hắn đã bấm được ngón chân và đã đi được vài bước trên lối đi cheo leo dễ trượt ngã của văn chương. Nhưng Oánh thì chưa, trên bầu trời thi ca những năm ấy đã có sẵn những vùng sáng chói loà của các thi bá: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, lại có cả những vùng nghịch sáng của Trần Dần, Hữu Loan, Hoàng Cầm. Thơ của Oánh trong nhiều năm vẫn phải đứng lẫn trong đám đông, thơ nghiệp dư, thơ của anh bộ đội yêu thơ, thích làm thơ. Tuổi trẻ mà mộng chưa đạt là dễ giận thân lắm. Bạn bè cùng lứa đã bắt đầu có sự phân biệt, đã có người nổi tiếng, và nhiều người đã có chỗ đứng riêng trên các trang báo tuần báo ngày. Những người nổi tiếng nhất những năm ấy là Nguyên Ngọc và Phùng Quán. Phùng Quán nói: "Mình đi từ Hà Nội và Vĩnh Linh không cần phải giấy giới thiệu, chỉ cần nói Phùng Quán đây, là các barie đều nhấc lên để mình dắt xe vào". Nên Oánh chịu khó đi lắm, chịu khó viết lắm. Khi hắn ra Cồn Cỏ vào giữa năm 1965, đến xã Vĩnh Kim đã gặp Oánh ở đấy rồi. Oánh vừa từ Cồn Cỏ trở về đất liền đang đợi xe ra Hà Nội. Chả ai phân công Oánh ra Cồn Cỏ cả, thích đi là đi, thử đến một nơi nóng nhất của cuộc chiến tranh phá hoại vừa mới bắt đầu xem có làm được một bài thơ hay không? Quả nhiên bài thơ của Oánh về các chiến sĩ Cồn Cỏ là rất hay, sẽ còn lấp lánh lâu dài trong số những bài thơ hay thời chống Mỹ. Năm 1968, Oánh lên đường vào với bộ đội binh đoàn 559, định đi vài tháng rồi ra, nào ngờ được nửa thời gian lại có lệnh đi tiếp vào B2, tiếp sức cho Tạp chí Văn nghệ Giải phóng vừa mới mất một người lãnh đạo đầy uy tín là nhà văn Nguyễn Thi.

Tháng 5 năm 1975, hắn mới gặp lại bạn cũ sau bảy năm xa cách, đã nghĩ sẽ phải nói với nhau rất nhiều chuyện, chuyện đời, chuyện nghề, chuyện cơ quan cũ. Nào ngờ bạn cũ nhìn hắn như mới quen biết lần đầu, nói cười với hắn rất gượng gạo, khi nói chuyện với hắn ánh mắt cứ nhìn chéo đi như ghét lắm, giận lắm. Hắn là người nhạy cảm nên biết ngay vì lẽ gì bạn lại ghét mình, giận mình. Cái tội của hắn là đã không có mặt ở các chiến trường phía Nam suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ. Bạn bè thay nhau vào còn hắn vẫn bình thản ở lại miền Bắc, quanh quẩn với vợ với con suốt bấy nhiêu năm, và viết, viết quá nhiều, tới đâu viết đó, thậm chí có nơi chưa từng đến, chỉ nghe kể chuyện vẫn cứ viết được như tập bút ký chính luận về Hoà Vang.

Người đi chiến trường sống chết từng giờ vẫn là người viết văn nghiệp dư, hành quân, vác gạo, đào hầm, rồi ốm đau, rồi bình phục, rồi lại tiếp tục hành quân, có lúc nào rảnh rỗi được vài ngày để ngồi viết. Người viết khoẻ nhất là Nguyễn Thi cũng mới chỉ là những phác thảo dở dang, gần như là những trang ghi chép viết kỹ, còn phải mất nhiều năm tháng sống trong hoà bình để ngẫm nghĩ, lựa chọn, gọt giũa mới có thể thành một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh được. Nhưng chưa kịp chuẩn bị gì cho cái hồi sau thì đã chết rồi. Chết là hết, là bản thảo bị cháy, một sự nghiệp thành giấc mộng, cái nỗi đau ấy phải là người trong nghề mới cảm nhận được hết những xót xa. Và bây giờ chiến tranh vừa chấm dứt được vài ngày đã thấy hắn vác mặt vào, vào để hỏi han, để thu thập tài liệu, để được sống ít ngày trong cái không khí chiến thắng, không khí giải phóng, sau đó hắn lại về Hà Nội ngồi viết, còn viết nhanh hơn, nhiều hơn những người ở chiến trường vẫn còn chưa hết bàng hoàng. Thế là giận, vì sao lại giận, cũng chẳng có lý do chính đáng nào, là giận cho cái thằng hay gặp may, nhưng sự may rủi lại là những yếu tố không thể loại bỏ trong mỗi số phận, luôn luôn có, mãi mãi có, không tuỳ thuộc vào mình có thích hay không thích. Mình ghét hắn, chế giễu hắn, hắn vẫn cứ gặp may, hắn có tự tổ chức ra những cơ may đó đâu mà bảo phải chịu trách nhiệm về sự lấn phần may của người khác. Nhưng về già hắn lại gặp nhiều sự không may rồi! Cái chuyện không may của hắn không một ai có thể tưởng tượng nổi, nó buồn cười lắm, thê thảm lắm, mà chỉ cần hắn thay đổi cách sống một chút là hắn hoàn toàn có thể thoát ra vì tất cả đều tuỳ thuộc vào hắn, không có một trở ngại nào từ bên ngoài có thể ngăn trở hắn tự thay đổi. Vậy mà một người thông minh như hắn, luôn luôn biết tự điều chỉnh cách sống bằng sự từng trải của người khác lại phải chịu bó tay trong một trường hợp không một ai chịu bó tay, không một ai chịu đứng im để than vãn về sự không may của mình. Hắn luôn đề phòng mọi nghịch lý của đời sống nhưng chính hắn lại rơi vào một nghịch lý chưa từng nghe nói, chưa từng biết có thể có một trường hợp lạ lùng như thế nên không nhận ra những dấu hiệu báo trước, không hề chuẩn bị và cũng không biết cách chuẩn bị. Từ trẻ đến già hắn chỉ chuẩn bị là người thua, người chịu thiệt, người đứng phía sau, ngồi hàng dưới, rút cuộc hắn vẫn cứ là người thắng. Nhưng trong một trường hợp hắn nghĩ mình phải là người thắng, mãi mãi thắng thì hắn lại chịu thua, thua thảm hại bởi một người đàn bà rất thân thiết, không có bất cứ sức mạnh nào để đốn gục hắn cả.


9.

Năm 70 tuổi bỗng dưng hắn được rất nhiều. Ðầu năm hắn có nhà mới (do hắn bán nửa căn nhà cấp bốn phía sau để có tiền xây nửa căn nhà phía trước thành nhà cấp hai, một trệt hai lầu), cả đời chưa bao giờ hắn nghĩ có thể được ở một toà nhà khang trang đến thế. Cả tuần lẽ hắn không ngủ được trọn đêm, ngủ được một giấc dài là hắn vùng dậy ngồi chồm hỗm trên tấm nệm trải ngay trên nền nhà, ngắm nghía căn phòng từ nay là thế giới của riêng hắn, muốn bày biện ra sao cũng được, muốn thức muốn ngủ lúc nào cũng được, và cái bàn nhỏ hắn có thể viết cả ngày lẫn đêm chả ai dám quấy nhiễu, mà cái việc thất thường của hắn cũng không quấy nhiễu một ai. Trong nhiều chục năm cái bàn viết của hắn là bàn công cộng, đang viết có khách tới chơi thì gạt bản thảo sang một bên, rót trà mời khách, nhiều trang không thể đọc lại vì đã vàng ố nước cặn trà. Ðang viết lại chạy vụt ra ngoài để mua một bao thuốc Ðiện Biên hay Tam Ðảo, lại đứng nói chuyện với bạn cùng khu tập thể một lát, về ngồi lại vào bàn tìm mãi không thấy trang bản thảo viết dở, hỏi con lớn năm nó đã lên tám, con trả lời vừa lấy giấy trên bàn đi chùi đít rồi. Ăn cơm gia đình thì vợ con ngồi ăn dưới đất, còn chủ và khách thì dọn cơm trên bàn vì cũng chỉ có hai cái ghế. Một cái bàn, hai cái ghế, hai cái giường, một cái tủ nhỏ, kê vừa chật mười lăm mét vuông của căn hộ một gia đình cấp uý, cấp tá thì được thêm nửa gian nữa, rồi cơi một gian phía trước, vẩy một gian phía sau, vẫn sống rất thoải mái gần hai chục năm trời, lúc chiến tranh lúc hoà bình, lúc mới một con, lúc đã ba con, ba con chết mất đứa đầu ở sông Hồng còn lại hai, hai năm sau đẻ bù một thằng út lại thành ba, lúc khóc lúc cười, lúc buồn lúc vui, có lúc là cây bút trẻ đầy triển vọng, có lúc lại là tên phản trắc viết lách xỏ xiên, bao nhiêu chuyện thăng trầm của một đời người đều diễn ra trên mười mấy mét vuông nền xi măng ấy cả, cái gian nhà tiều tuỵ ấy mãi mãi là thiên đường của một thời đối với hắn, hắn thành danh từ đấy, thành người bố của một bầy con từ đấy, vợ chồng gắn bó với nhau trong bấy nhiêu năm cũng bắt đầu từ đấy, nơi ấy là đất lành, đất ra hoa ra trái, ra văn chương ra sự nghiệp chứ còn nơi nào khác nữa. Hà Nội với hắn thu gọn lại chỉ là một rẻo đất bãi sát sông Hồng, mùa nước lũ một màu trắng đục ngầu bọt, ngầu rác che phủ tất cả, nước rút lại đến mùi tanh khắm của bùn khô, rác thối, chuột chết, mèo chết, chó chết, hết mùi tanh là đến mùa ruồi, ruồi bay đen như mây từng mảng lớn mảng nhỏ bâu kín mâm cơm, đình màn, dây phơi quần áo, cười to nói lớn là ruồi bay vào tận trong cuống họng. Ðêm đến, nhất là những đêm cuối chạp, đầu xuân, đi họp về đứng trên bờ đê nhìn xuống cái vực đen thăm thẳm, le lói những chấm đèn vàng sẫm mà ghê quá, ngại quá, như sắp bước chân xuống cõi âm ty địa ngục nào. Nhưng trong cái địa ngục hun hút ấy là một đống thịt nồng nặc mùi khai đang ủ trong chăn ấm, là tiếng nói mê của trẻ con, tiếng ngáy nhỏ của người vợ sau một ngày chạy vạy mệt nhọc, địa ngục mà cũng là thiên đường chứ hắn còn có thiên đường nào khác! Có lần hắn đi họp ở nước ngoài, đoàn Việt Nam có hai người và đoàn Ba Lan cũng có hai người, có bốn người mà được ở hẳn một toà lâu đài giữa thành phố Praha, một đoàn ở tầng trên, một đoàn ở tầng dưới. Mỗi tầng có tới mười mấy phòng ở sao cho hết! Những đêm ấy hắn không ngủ, cứ đi lang thang từ phòng này sang phòng nọ, vì cả ngày sau hắn đều ở hội nghị, ăn trưa ở khách sạn, mãi tới khuya mới được về nơi ở như hoàng cung của mình. Rồi hắn về Hà Nội, lại chui đầu vào căn nhà hạnh phúc của hắn, cởi giày ra, áo ngoài áo trong cởi ra, lại quần áo bộ đội và cái áo bông bộ đội, lại ra nhà vệ sinh tập thể, cứt rải từ ngoài vào trong, lại ruồi, lại cái mùi tanh khẳm quen thuộc, đêm ngủ với các con nồng nặc một mùi khai nước đái trẻ con, mùi hôi của màn, mùi mốc của chiếu, trời thì mưa phùn, trong nhà nhớp nháp hơi nước của gió nồm, chỉ khó chịu có một đêm đầu, đêm sau ngày sau lại chả ngửi thấy mùi gì hết, ngửi đâu cũng chỉ thấy mùi da thịt của vợ của con, mùi hạnh phúc, mùi thanh bình, lòng dạ yên tĩnh hẳn lại và hắn lại xắp giấy bút, pha một ấm trà hương chuẩn bị viết tiếp những trang bản thảo đang bỏ dở. Thời trước, ba mươi lăm, bốn mươi tuổi là phải làm nhà, mua nhà, hoặc chỉ mua một căn hộ để sống tách khỏi cái đại gia đình. Thời bây giờ đám doanh nhân trẻ và các viên chức nhà nước tinh khôn lại thêm có cái đức lo xa đã có nhà riêng từ năm ba mươi, ba lăm tuổi. Còn hắn mãi tới năm bảy mươi tuổi mới làm được cái nhà tử tế để vợ con cùng ở. Làm xong nhà chả biết hắn còn được ở nhà mới thêm mấy năm rồi lại phải ra ở gò ở bãi. Vì biết không thể ở được lâu trong ngôi nhà của mình nên hắn không dám rút ngắn niềm vui bằng những giấc ngủ vặt vãnh của người già. Ngủ thì vẫn phải ngủ nhưng những lúc thức là hắn lại đi tha thẩn từ phòng này qua phòng nọ, đi chán lại ngồi xuống các bậc thang trắng bóng, hút vài hơi thuốc với một cảm giác cực kỳ khoan khoái. Vật ngoài thân cũng mới chỉ thuộc về mình có ít ngày còn quyến luyến không nỡ rời, rời ra thì nhớ lắm, tiếc lắm huống người đàn bà đã là phân nửa của hắn từ non nửa thế kỷ, ngày vui cũng nhiều, ngày buồn cũng lắm, con sống có con chết có mà cũng sắp kết thúc cả rồi, hoặc hắn hoặc vợ hắn cũng sẽ phải rũ áo ra đi, sẽ chia tay nhau mãi mãi mà hắn không quyến luyến ư, không đau đớn ư? Lại không sẵn sàng nhận mọi lỗi lầm cho dù chả có lỗi lầm nào, sẵn sàng làm tất cả những gì vợ hắn một đời mong mỏi, dầu việc làm ấy có ngược lại nếp cũ, ngược lại với thói tật gia trưởng của một thằng đàn ông châu Á cổ hủ!

Vợ hắn nói với hắn: "Trong những cái được của anh một đời có đến phần nửa là công của vợ anh nhưng trong con mắt anh, tôi không phải là vợ, chỉ là con tôi con đòi, có nợ với nhà anh từ kiếp nảo kiếp nào nay phải trả cho hết thì mới hoá sang kiếp khác được. Một đời ăn ở với nhau chả bao giờ anh hỏi tôi muốn gì, cần gì. anh cứ làm theo ý anh còn tôi là con ở con hầu không thích cũng không dám cãi lại. Tôi sinh cho anh năm đứa con, ba sống hai chết, chả có lần nào anh đưa tôi đi bệnh viện, tôi bị băng huyết, bị sát rau cũng phải sau đó anh mới biết. Sinh con xong khát khô cả cổ, người ta thì có sữa do chồng đưa vào còn tôi thì chỉ húp có nước rau muống luộc. Ðẻ xong có bao giờ tôi được kiêng cữ lấy vài tuần, sợ chồng bận, sợ chồng không viết được tôi lại tự đi nấu cơm, tự giặt giũ. Anh có người vợ dễ bảo đến thế còn chửa vừa lòng sao? Còn chửa bằng anh bằng em sao? Tôi chỉ trở thành gánh nặng cho anh có vài năm nay, vì tôi đã già rồi, lại mang nhiều bệnh. Nhưng anh đâu có vất vả thêm vì tôi, tất cả lại dồn lên đầu mấy đứa con, tiền là của chúng nó, đưa mẹ đi bệnh viện, chăm nuôi mẹ ở bệnh viện cũng là chúng nó, anh vẫn ngồi nhà mà, một tuần đến thăm vợ một lần mà cũng ngại, cũng thấy là khó nhọc. Người sướng đến thế mà không biết sướng...".

Tất cả những tội lỗi của một thằng đàn ông tự xem là ông chủ tuyệt đối của gia đình thật ra đều xuất phát từ lòng yêu thương cả, hắn đã xem vợ là chính hắn, là một nửa của hắn, còn có việc làm nào ở đời này mà không phải vì vợ vì con. Hắn được danh, cái danh ấy là của cả chồng cả vợ, cái lợi cũng thế, một đời chưa bao giờ hắn cầm tiền hoặc có một khoản tiền để tiêu riêng. Vì đã nghĩ như thế là đủ, là đã làm tròn bổn phận làm chồng làm cha, nên hắn không cần có những chiều chuộng, nịnh bợ, những lời nói vuốt ve, hắn vốn rất sợ những lời nói của kịch, của sân khấu, những trò phường tuồng như hắn vẫn chế giễu trong mối quan hệ vợ chồng cha con. Ðến chơi nhà bạn bè hoặc các bậc huynh trưởng thấy vợ chồng họ dạ thưa với nhau nhiều quá, săn sóc âu yếm nhau lộ liễu quá hắn đều cảm thấy rất khó chịu, nói quấy quá dăm ba câu chuyện rồi tìm cớ cút thẳng. Hắn không thấy cần nhưng vợ hắn lại rất cần, hắn có thú vui được đi rồi được viết, niềm vui bất tận của người sáng tạo, còn vợ hắn ngoài những nghĩa vụ ở cơ quan và gia đình còn có niềm vui riêng nào nữa nhỉ? Nửa thế kỷ chung sống nhưng những lần được đi cùng với nhau tới nhà hát, tới rạp chiếu phim có thể đếm trên đầu ngón tay. Hoàn toàn không có chuyện vợ chồng con cái đi nghỉ dài ngày vào dịp hè hoặc đi chơi ngắn ngày vào những dịp lễ tết, lúc thì con còn nhỏ, lúc thì đang có chiến tranh, lúc thì đã quá già để có thể phơi cái khung xương khô ra bãi biển. Hắn không cần đi đâu cả, cũng không cần phải chơi bời với ai, trò chuyện với ai trong một thời gian dài mà không thấy buồn, không thấy trống vắng. Chính là cái khoảng thời gian ngồi một nơi, sống một mình lại là những ngày hắn khoan khoái nhất, mãn nguyện nhất vì cùng được phiêu lưu với các nhân vật của mình, được cùng trò chuyện với họ, tranh cãi với họ, mỗi ngày một chủ đề, có lần hắn thắng, có lần hắn thua nhưng bao giờ cũng bằng lòng về các cuộc trò chuyện tưởng tượng dông dài ấy. Sau chuyến đi Thái Bình lần thứ hai, suốt mấy tháng sau hắn sống như người mộng du, lúc là chàng "lãng tử"; lúc là anh thương binh đã bị bom Napal đốt cháy hết gương mặt và hai bàn tay; lúc lại nhà báo tỉnh với số phậm hẩm hiu của một thời thế đã thay đổi. Nhân vật nào hắn cũng ao ước, cũng gắn bó vì họ đều có tính cách mạnh dám vượt khỏi những trói buộc của hoàn cảnh để được trung thành với chính mình. Bạn bè hắn thường nói nửa đùa nửa thật rằng hắn có tài viết nhanh viết nhiều, gặp bất cứ ai, nghe bất cứ chuyện gì hắn đều có thể viết được. Thật ra hắn chỉ quan tâm và chỉ viết hay những gì có liên quan đến những mộng mơ lớn nhỏ của hắn, liên quan đến tiểu sử và cái thế giới thầm kín của hắn. Gặp một người thú vị đúng như hắn mong ước, hắn còn vần vò, nhào nặn họ đến chán chê trong cõi tưởng tượng của hắn, gần như hắn đã biến hoá thành chính họ, họ là cái mong muốn được là, là cái sẽ là, nhân vật văn học là con người khác của hắn chứ không bao giờ là hắn. Là giống con người mộng mơ chứ không thể giống với con người thật, con người hàng ngày của hắn nhạt nhẽo muốn chết làm sao thành nhân vật văn chương được. Trong những ngày hắn chuẩn bị viết và viết không ai muốn gần hắn cả, là con người đáng ghét nhất, khó chịu nhất, ăn như nuốt bã cám, nói như người dở hơi, đi lại trong nhà như cái bóng, động tí là gắt, rất dễ gắt, gần như một kẻ hoàn toàn vô tích sự khiến mọi sinh hoạt trong gia đình hoá ra nặng nề, hoá ra căng thẳng. Chính trong những ngày ấy vợ hắn bắt đầu có dấu hiệu của bệnh liệt rung, mãi sau này khi bệnh đã phát lộ hắn mới biết, dầu vợ hắn đâu như đã nói với các con, với cả hắn nhiều lần về sự cứng dần của các đốt ngón tay, sự thiếu chính xác khi gắp thức ăn, khi đánh răng, khi rửa mặt và hay có những cơn nhức đầu vặt. Hắn đã quên luôn là vợ hắn đang già dần, đứng lên ngồi xuống đã khó nhọc, và bước đi đã có cái dáng lom khom của một bà già sáu mươi tuổi.

Lần đầu tiên vợ hắn phải nằm bệnh viện vì bệnh sỏi mật, sau gần hai chục năm phải vào bệnh viện để sinh đứa con sau cùng. Vợ hắn nói với hắn trong hơi thở ngắt quãng: "Từ nay tôi phải sống dựa vào chồng con rồi, tôi không hầu được bố con ông như trước nữa. Rồi ông sẽ bận đấy chứ không rảnh rỗi ngồi viết như những năm tôi còn khoẻ đâu". Hắn nói thản nhiên: "Bà không giúp tôi được, con cái cũng không giúp được thì phải mượn người làm, nhà nào chẳng thế". Vợ hắn nghe xong có vẻ buồn, còn như rất buồn, thì ra người vợ già chả còn quan trọng bao nhiêu tới cuộc sống của gia đình, tới công việc viết lách của hắn. Không có vợ thì đã có người giúp việc, hắn vẫn có tiền mà, xưa kia phải nuôi con bằng tiền nhuận bút, bây giờ con không phải nuôi mà tiền nhuận bút vẫn có, hắn vẫn viết nhanh viết nhiều như những năm còn trẻ, các báo ngoài Hà Nội và của thành phố vẫn săn bài của hắn như thời xưa, hắn đâu có phải thay đổi gì cách sống cách viết nếu như bà vợ già bắt đầu đau yếu.

Hắn cũng đã nghĩ thế, vợ hắn đau bệnh đâu có ảnh hưởng gì nhiều tới đời văn của hắn, tới cả đời riêng nữa, vì ngoài người vợ mỗi năm một già đi hắn chưa từng để ý tới một người đàn bà nào khác.Thèm muốn thì vẫn có nhưng nghĩ tới những phiền phức buồn cười của mối tình vụng trộm lúc đã già là hắn lại sợ, hắn sợ trở thành một trò cười trước mắt con cái nhưng còn sợ hơn là mất sự yên tĩnh quen thuộc khi ngồi trước trang giấy trắng. Danh cũng không bằng được thảnh thơi ngồi viết, lợi đến mấy cũng không sướng bằng cái lúc được viết, vợ con cũng là nhỏ trước trang bản thảo, đời hắn chỉ là viết, là cái gông cái cùm hắn tự nguyện chui đầu vào, đưa tay vào, bỏ nó đi để trở thành người tự do thì thà chết quách còn hơn. Danh và lợi và gái là những cạm bẫy hiểm độc đến danh nhân anh hùng cũng khó thoát nhưng hắn lại chuồi được ra rất dễ dàng, với hắn chả có gì quyến rũ hơn là tờ giấy cây bút. Nhưng một đời văn mà không có những ham muốn, đau khổ, dằn vặt, thất bại của mọi đời thường thì lấy gì mà viết, đời không có đam mê, không có thất bại thì nhạt bằng nước ốc, nước đã trong sao quấy bột thành hồ! Hắn không sợ điều đó vì trời đã cho hắn cái khả năng thoát xác nhập hồn rất dễ dàng, với giá đồng nào hắn cũng đều nhập được trọn vẹn, thành thục, là đàn ông hay đàn bà, là tiện dân hay quý tộc, là cụ đạo hay ông sư, là thánh nhân hay tội phạm... Hắn có thể là tất cả mà cũng không là ai cả, là hình bóng của đối tượng hắn khai thác, là kẻ chỉ có thật trong tưởng tượng nên không có cái bẫy nào giữ được hắn lâu dài. Tưởng là thế mà hoá ra không phải thế. Về mấy năm cuối đời hắn lại bị sập bẫy do chính hắn thiết kế, tự hắn chui đầu vào và tự hắn đánh sập xuống và hiện nguyên hình là một thằng đàn ông khốn khổ mà bất cứ ai cũng có thể thoát ra rất dễ dàng, riêng hắn chẳng những không thể thoát ra mà còn tự chằng thêm dây trói, đêm ngày dãy dụa trong những vòng trói ấy. Và hắn đã nghĩ đến cái chết, đã nói ra miệng đến cái chết tự nguyện với con cái để vĩnh viễn thoát khỏi sự trừng phạt cay nghiệt nhất mà hắn đang được nếm trải.


10.

Cuối năm 1956, hắn làm công tác cải cách ruộng đất ở tỉnh Quảng Yên, đợt cuối. Một sáng, hãy còn tối trời vừa thức giấc hắn đã nhìn thấy một hình người ngồi nép vào một chân cột. Hắn vùng dậy, hỏi nhỏ: "Ai ngồi đấy thế?" Cái bóng kia lê người lại: "Bẩm đội con là địa chủ Tịnh đây ạ". Hắn nhìn trước nhìn sau rồi kéo bà lão lên ngồi cạnh, nói nhỏ: "Trước đông người cụ muốn gọi sao thì gọi nhưng vắng người cụ cứ xem con như con cháu của cụ" - "Con không dám..." - "Cụ nói lại đi, cụ xưng là bác đi..." - "Tôi không dám, chả là tôi có một chuyện này..." Mấy bước cuối, đội cải cách làm tiếp luôn việc sửa sai, trao trả lại quyền công dân cho một số cán bộ thôn xã, hạ thành phần những người bị quy sai, điều chỉnh lại việc phân chia ruộng đất, không khí làng xóm nhẹ nhõm hẳn, vui vẻ hẳn, người bị tố và người đi tố sau vài cuộc họp đã làm lành với nhau cũng nhanh chóng. Trong một bữa ăn gia đình nhân có hai con trai ở bộ đội về thăm mẹ, bà lão Tịnh có mời hắn sang uống rượu. Người con trai lớn của bà hơn hắn mươi tuổi, là cán bộ cấp trung đoàn nói với hắn trong nước mắt: "Bây giờ thì mẹ đã coi em như đứa con út trong nhà. Không có em bảo vệ mẹ và chị..." Thật tình hắn không bảo vệ gì bà lão cả, hắn chỉ không làm nhục bà thêm thôi. Trong cách nhìn trong cách nói mỗi khi gặp hắn bộc lộ rõ sự tôn trọng của hắn đối với bà, bà là địa chủ nhưng bà còn là mẹ của các cấp trên hắn trong quân đội. Ông đội tỏ ra dễ dãi thì bà con nông dân lập tức dễ dãi ngay. Họ đã ăn ở với nhau hàng mấy đời nếu mình không sinh sự thì tự họ làm sao lại sinh ra sự.

Ðối thoại, dàn hoà, đoàn kết là phương châm nằm lòng suốt một đời của hắn. Hắn không thể là người của hành động, hành động bao giờ cũng đòi hỏi sự bạo liệt của người lãnh đạo, người chỉ huy, không có bạo liệt thì chả làm được việc gì đến nơi đến chốn, việc nhỏ cũng hỏng nói gì tới chiến tranh, cách mạng. Năm 68 tuổi hắn nhận huy hiệu 50 năm tuổi Ðảng, trong lời phát biểu hắn nói rằng hắn xứng đáng được nhận danh hiệu một đảng viên cộng sản lão thành, nhưng trong thâm tâm hắn lại tự thú hắn không thể xứng đáng. Hắn chưa bao giờ là một chiến sĩ cách mạng trong hành động thực tiễn, hắn thường tỏ ra rất uỷ mị, rất mềm yếu trước kẻ thù khi họ đã thất bại, đã phải gánh chịu một số phận bi thảm liên luỵ tới cả vợ cả con họ. Hắn sợ phải đối mặt với những cảnh ngộ thương tâm, bất kể người trong cảnh ngộ trước đây họ là ai, đã làm những gì. Năm 1987 khi về làng Thổ Tang hắn có xin với Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc được trò chuyện dài ngày với phạm nhân Vũ Hồng Khanh, một lãnh tụ Việt Nam Quốc dân đảng thời Nguyễn Thái Học, được quản thúc tại quê nhà do tuổi đã quá cao. Hắn gọi ông già là mọ và tự xưng là cháu. Một đảng uỷ viên xã đi theo lấy làm khó hiểu: "Chú là đại biểu quốc hội, là nhà văn của cả nước sao chú lại gọi một tên phản động là mọ và xưng là cháu?" Hắn trả lời: "Nhưng ông lão ấy còn lớn tuổi hơn cả bố tôi, tôi không thể gọi khác được". Năm hắn gặp lại bố đẻ và bà mẹ già, những người đã làm nhục hắn một thời thơ ấu, ông bố hắn nói rất thản nhiên: "Cái năm ấy chẳng qua là do hoàn cảnh...", hắn nói theo ngay: "Cậu chả nên nhắc lại cái chuyện ngày xưa làm gì, con cũng quên nó từ lâu rồi". Hắn quên thật và lấy làm thương cảm cho những người gắn bó một đời với một thể chế đã bị sụp đổ hoàn toàn từ một tuần nay. Rồi đây hai vợ chồng già sẽ sống bằng gì, vì con cái đã mỗi người tháo thân mỗi ngả. Tuổi già không có người chăm sóc, lại buồn, lại lo là sẽ khốn khổ vô cùng. Rồi hắn an ủi rất thành thật: "Cậu mợ còn có vợ chồng chúng con nữa kia mà. Chả có gì đáng phải lo lắm đâu". Không bao giờ hắn hé răng hỏi lại những người đã từng khiến hắn phải run sợ, vì lẽ gì họ lại có đủ ác tâm vu cho một đứa trẻ vốn là con mình phạm một tội mà họ biết chắc không hề có, không phải một lần mà những hai lần để dễ bề đuổi nó đi. Hắn chưa bao giờ có ý định trả thù, hắn không có máu trả thù. Vả lại thời thế đã trả thù giúp hắn rồi, một cuộc báo thù trọn vẹn, đẹp đẽ mà kẻ có thù có oán không cần mở miệng nói nửa lời, chỉ là người chiến thắng thôi, thắng từ trong nhà, trong dòng họ vốn chưa bao giờ biết sự có mặt của hắn ở đời này.

Một người hiền lành, thích nhân nhượng, không tính oán kết thù với bất cứ ai một khi họ đã thất bại lại không thể tìm ra một cách kết thúc tốt đẹp trong quan hệ vợ chồng lúc đã về già sao? Hắn là người thắng, vợ hắn là người thua, một đời bị chồng con phá phách, tước đoạt, về già như một phế tích hoang tàn lại không đáng thương sao? Hắn đã từng tha thứ những người đã làm hắn khốn khổ mà không hề tự hỏi tại sao lại làm thế, chỉ thấy thương thôi, thấy xót xa thôi, chỉ muốn làm nhẹ bớt cái khổ của người đã từng làm cho mình khổ. Tại sao hắn lại không thể tha thứ những hành động vô lý, quá đáng của người vợ đã bắt đầu lẫn, đã có những ám ảnh phi thực tế của người có bệnh? Chỉ tại hắn đã xem vợ là một nửa của hắn, là chính hắn, lại có thể hiểu lầm một nửa này cũng là hắn, tại sao thế? Vợ hắn đã tự tách khỏi hắn từ bao giờ vậy, đang là hoàn toàn thuộc về hắn đột nhiên trở thành kẻ thù của hắn, vò xé cái nửa còn lại của hắn vào chính cái lúc hắn cần yên tĩnh nhất, thảnh thơi nhất để được sống bình thản, không lo nghĩ mấy năm cuối của một đời người tạm gọi là mãn nguyện. Và hắn đã quyết định không thể tha thứ sự phản bội đó, sự nổi loạn muộn mằn đó của cái nửa hắn vốn tin chỉ có hy sinh chứ không bao giờ dám chống trả. Như những năm đã qua. Vợ hắn nói: "Về già anh được tất cả, còn tôi chỉ được có mỗi một anh thôi. Anh mà ruồng bỏ tôi thì tôi thành tay trắng. Cho nên tôi phải giám sát anh, theo dõi anh, anh không thoát được tôi đâu. Tôi chỉ cầu xin ông giời cho tôi được chết sau anh dầu chỉ một ngày để tôi được yên tâm rằng anh không có người đàn bà nào khác, những đứa con nào khác ngoài vợ con chính thức của anh". Những người đàn ông khác có thể không thông minh bằng hắn nhưng đều có thể nói đùa một câu: "Bà còn hầu tôi vài năm nữa là ít, hầu tôi sống còn phải hầu tôi chết nữa kia, phải làm xong cái giỗ đầu cho tôi rồi bà có muốn đi đâu hãy đi!".

Nhưng hắn không nói và có ý định sẽ không bao giờ nói, hắn không cho phép cái nửa kia của hắn dám ngờ vực, dám chống đối cái nửa còn lại, xét cho cùng có bao giờ tách khỏi cái nửa kia. Hắn không cho phép những người thân yêu nhất lại dám ngờ vực sự tận tâm, lòng chung thuỷ với vợ con của hắn. Một người hoàn toàn trong trắng trong cuộc sống cá nhân lại tự nhận đã có lỗi, một cái lỗi chưa bao giờ hắn phạm phải, nghĩ một cách tội lỗi thì có, đôi lúc vẫn có nhưng làm những việc không xứng đáng thì chưa bao giờ, chưa một lần nào, chỉ vì thương vợ, vì bệnh tật của vợ cứ cho là vì cả cái bệnh hoang tưởng của vợ mà chịu nhận lỗi cho vợ được vui lòng, cho mọi việc rắc rối được êm xuôi để giữ được sự yên tĩnh vốn có của gia đình, các con hắn vẫn khuyên hắn nên làm như thế.

Thì hắn vẫn thường tự nhận nhiều lầm lỗi chưa bao giờ hắn phạm phải hoặc trong thâm tâm hắn vẫn cho thái độ ấy, việc làm ấy chả có gì là lầm lỗi, nhưng hắn vẫn nhận trước bạn bè, trước chi bộ, trước cấp trên thì sao? Người ta chưa nói hết câu hắn đã vội vàng nhận lấy tất cả, với bộ mặt giọng nói của người hối lỗi thì sao? Hắn đã trườn qua mọi chuyện rắc rối bằng sự sám hối nhanh nhảu để dành thời gian cho công việc viết lách thì đã sao? Cái lỗi được nhận khiến xung quanh quên đi nhanh chóng hắn đã là người có lỗi, tập thể luôn luôn đúng và hắn luôn luôn sai, đã kết luận được như thế thì còn gì phải căm ghét hắn nữa. Thế là tha liền, quên liền và hắn cũng quên luôn đã từng nhận những lầm lỗi gì. Nhiều người bạn của hắn đã phải chịu vất vả cả năm, cả nhiều năm vì đã tranh cãi đến cùng một cái lỗi, xét đến cùng là hết sức vớ vẩn so với những hoạt động khác của một đời người. Hắn vẫn thầm chê cái bệnh ham tranh luận, ham lý lẽ, ham phân tích sai đúng, phải trái của người này người kia là bệnh của thằng ngu. Hắn còn đọc được ở đâu đó, hình như của cụ Mác thì phải, rằng mọi tấn bi kịch đều sinh ra từ cái ngu của con người.

Cái tấn tuồng nửa bi nửa hài của vợ chồng hắn lúc cuối đời có phải từ cái ngu của hắn không nhỉ?
Nguồn: Tạp chí Nhà Văn, Hà Ná»™i, 2003