© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
4.7.2005
 
Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ Việt Bắc
Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn (1/15)
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15 
 
Mục lục

  1. Lời dẫn
  2. Phác qua những nét của tiến trình thảo luận và tranh luận
  3. Xuân Trường - Vài ý nghĩ khi đọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu
  4. Xuân Diệu - Ðọc tập thơ Việt Bắc
  5. A.T - Hai cuộc thảo luận về Việt BắcVượt Côn Ðảo
  6. Hoàng Yến - Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không?
  7. Hoàng Yến - Ðọc thơ Việt Bắc của Tố Hữu
  8. Minh Tranh - Tình yêu trong tập thơ Việt Bắc
  9. Tin ngắn Văn nghệ: Cuộc họp thứ nhất thảo luận về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu tại trụ sở Hội Văn nghệ Việt Nam
  10. Vũ Ðức Phúc - Hoàng Yến chưa nắm vững vấn đề hiện thực
  11. Hoàng Cầm - Tập thơ Việt Bắc ít chất sống thực tế
  12. Tin văn hóa: Hai cuộc nói chuyện văn nghệ
  13. Cuộc hội nghị phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu lần thứ hai sôi nổi và tiến bộ rõ rệt
  14. Cuộc họp thứ ba thảo luận tập thơ Việt Bắc
  15. Tin văn hóa: Các cuộc họp phê bình tập thơ Việt Bắc
  16. Hiện Thực - Sổ tay văn nghệ (trích)
  17. Lê Ðạt - Giai cấp tính trong thơ Tố Hữu
  18. Vũ Ðức Phúc - Phản đối cái buồn của Hoàng Cầm khi đọc thơ Tố Hữu
  19. Nhân Hồng - Chúng ta tiếp thu di sản của nhà thơ Xô viết vĩ đại như thế nào?
  20. Phan Cự Ðệ - Ðọc tập Việt Bắc: Tình cảm chưa theo kịp ý thức con người
  21. Nguyễn Văn Phú - Vài điểm non yếu trong nghệ thuật tập thơ Việt Bắc
  22. Hoài Việt - Không đồng ý với Hoàng Yến và Hoàng Cầm
  23. Lê Ðạt - Học tập Maiakovski, phát huy sức sống mới của thi ca Việt Nam
  24. Lê Quang Thành - Góp ý kiến thảo luận về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu
  25. Nguyễn Viết Lãm - Tư tưởng và tình cảm trong tập thơ Việt Bắc có hiện thực không?
  26. Nhân Hồng - Vấn đề phê bình văn nghệ ở Liên Xô
  27. Thẩm Lăng - Việt Bắc và Tố Hữu
  28. Tin văn hóa: Hưởng ứng phong trào phê bình văn học của báo Văn nghệ
  29. Hiện Thực - Sổ tay Văn nghệ (trích)
  30. Hoàng Cầm - Bổ sung ý kiến của tôi về tập thơ Việt Bắc
  31. Ðông Hoài - Góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc
  32. Chu Dương (Trung Quốc) - Vài ý kiến về phê bình văn nghệ (trích dịch)
  33. Vài ý kiến về phê bình văn học
  34. Nguyễn Viết Lãm - Ðặc tính sáng tạo trong tập thơ Tố Hữu
  35. Bạn đọc góp ý kiến (Lê Bá Súy - Ngô Linh Ngọc - Ðức Minh - Lê Bạch Sơn)
  36. Thư bạn đọc (Vũ Ðức Phúc)
  37. Nguyễn Viết Lãm - Những nhược điểm của tập thơ Việt Bắc
  38. Trần Ðộ - Vài cảm tưởng của một độc giả thông thường
  39. Bạn đọc góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc (Nguyễn Văn Sáng - Xuân Sách)
  40. Ý kiến của các bạn văn nghệ (Trương Chính)
  41. Vũ Ðình Liên - Mối tình dân tộc trong tập thơ Việt Bắc
  42. Hoài Thanh - Tình yêu quê hương đất nước trong tập thơ Việt Bắc
  43. Tú Mỡ - Góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu
  44. Nguyễn Ðình Thi - Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng
  45. Nguyễn Ðình Thi - Lập trường giai cấp và đảng tính, vấn đề hiện thực và lãng mạn
  46. Nguyễn Ðình Thi - Nhà thơ lớn lên với thời đại
  47. Trọng Anh - Ðồng bào miền Nam với thơ Tố Hữu
  48. Hoàng Trung Thông - Ý kiến kết thúc cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc

  49. Phụ lục: tập thơ Việt Bắc
    Cá nước
    Phá đường
    Bà mẹ Việt Bắc
    Giữa thành phố trụi
    Lên Tây Bắc
    Bao giờ hết giặc
    Bầm ơi
    Lượm
    Em bé Triều Tiên
    Bắn
    Voi
    Ðợi anh về
    Bài ca của người du kích
    Cho đời tự do
    A-liêu-sa nhớ chăng
    Hành khúc
    Nếu thầy mẹ chết
    Bài ca Tháng Mười
    Ðời đời nhớ ông
    Sáng tháng Năm
    Hoan hô chiến sĩ điện Biên
    Ta đi tới
    Việt Bắc
    Lại về


*


Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin
43 Lò Ðúc - Hà Nội

Chịu trách nhiệm xuất bản: Bùi Việt Bắc
Chịu trách nhiệm bản thảo: Phạm Ngọc Luật
Biên tập: Thái Hà
Sửa bản in: Vân Trang
Trình bày: Ðắc Huy
Vẽ bìa: Lưu Chí Cương
Chế bản: Ðông Tây

Thực hiện liên kết xuất bản: Nhà Sách Ðông Tây
62 Nguyễn Chí Thanh
Tel & Fax: (04) 7733041
Email: sach32bt@hn.vnn.vn
Website: www.nhasachdongtay.com.vn

In 800 cuốn khổ 13x19 cm tại Xưởng in Tháng tám.
Số đăng ký KHXB số 1881-XB-QLXB/20-VHTT ngày 24/12/2004. In xong và nộp lưu chiểu quý I năm 2005.


*


1. Lời dẫn

Cuốn sách mà bạn đọc đang cầm trên tay là một tập hợp những tư liệu thông tin bài vở thảo luận và tranh luận về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, ngay sau khi tác phẩm này lần đầu in thành sách riêng và phát hành rộng rãi khắp miền bắc Việt Nam khi đó, tức là từ tháng 12.1954.

Người soạn tập tư liệu này vốn không phải là - và cũng không có tham vọng trở thành - một chuyên gia về Tố Hữu, dù chỉ về phần sáng tác thơ hay là về toàn bộ các thể loại tác phẩm của tác gia ấy. Sưu tập này được thực hiện chỉ vì người soạn thấy rằng tiến trình thảo luận và tranh luận xung quanh tập thơ Việt Bắc hồi nửa đầu năm 1955 trên báo chí ở Hà Nội, trong giới văn nghệ và cả trong một bộ phận công chúng nữa, - là một sự kiện văn học sử không thể bỏ qua.

Các tư liệu rút từ báo chí đương thời mà tôi đã tập hợp từ cách nay vài chục năm, ban đầu chỉ như một hồ sơ tư liệu để dùng riêng, càng về sau càng trở thành loại tư liệu tương đối khó tìm. Bởi vậy, gần đây nhân xem lại tập tư liệu này, tôi đã dành thời gian bổ sung, hoàn chỉnh và đưa in làm tài liệu dùng chung cho các đồng nghiệp nghiên cứu và những bạn đọc có quan tâm.

Có đồng nghiệp khuyên nên viết một chuyên luận hoặc ít ra là một bài dăm ba chục trang in cùng với sưu tập này, bảo rằng làm thế mới bõ công sưu tập. Ngưòi soạn đã toan làm theo, chợt nghĩ chính bài viết đó có thể sẽ khiến người ta ngờ các tài liệu tập hợp in vào đây đã bị dàn dựng theo một ý đồ "định hướng" nào đấy, - điều mà người soạn hoàn toàn không có chủ định. Vậy thì xin gác bài viết ấy lại. Tập sách này chỉ làm nhiệm vụ cung cấp tư liệu mà thôi.

Khi tập hợp in vào sách này, các tư liệu được xếp theo trật tự thời gian chúng xuất hiện trên báo chí đương thời. Người soạn chú trọng giữ lại diện mạo đương thời của các tư liệu nên đã cho in đúng theo văn bản đăng báo, không sửa lại theo những văn bản được các tác giả của chúng nhuận chính và sắp xếp lại, đưa in trong các cuốn sách về sau.

Cũng nhằm giúp bạn đọc sách này hình dung những đường nét của sự kiện văn học sử đã lùi xa càng rõ, càng cụ thể bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu, người soạn đã sưu tầm đưa in vào phụ lục sách này toàn bộ tập thơ Việt Bắc theo đúng dạng thức văn bản in sách lần đầu của tác phẩm này, tức là với đúng những văn bản các câu thơ bài thơ mà những người đương thời đã đọc, từ đó đã có những nhận xét, những ý kiến, rồi viết thành những bài nhận xét có kèm theo những trích dẫn mà báo chí đương thời đã đăng tải, - và cả hai thứ nói trên đều là đối tượng tập hợp của sưu tập tư liệu này. Sự sửa chữa, nhuận sắc vào các bài thơ trong mỗi lần in lại về sau là thuộc thẩm quyền nhà thơ tác giả; còn ở sưu tập này điều cần thiết lại là giữ lại diện mạo các bài thơ ở lát cắt thời gian văn học sử xác định ấy.

Chuẩn bị ra sách vào thời điểm này, một việc nữa người soạn lẽ ra cần làm là liên hệ xin phép các tác giả những bài viết và tác phẩm được đưa vào sưu tập này. Tuy vậy sau 50 năm, việc liên lạc với tất cả các tác giả là điều rất khó thực hiện. Người soạn tin rằng các tác giả từng can dự sự kiện văn học đã lùi xa 50 năm nay không phản đối công việc có tính chất thuần tư liệu của tôi ở đây.

Với tất cả nỗ lực và sự nghiêm túc của một người làm tư liệu, hy vọng tập sách này sẽ có ích. Người soạn rất mong nhận được sự chỉ bảo và bổ sung của đồng nghiệp và bạn đọc gần xa.

Hà Nội, tháng Tám 2004

Lại Nguyên Ân


2. Phác qua những nét của tiến trình thảo luận và tranh luận

30.11.1954 Sách Việt Bắc (106 trang khổ 11 x 16 cm), tập thơ của Tố Hữu, in xong tại nhà in Xuân Thu, 89 Ðại lộ Nguyễn Thái Học, Hà Nội.
08.12.1954 Sách Việt Bắc được xuất bản.
15.12.1954Sách Việt Bắc được nộp lưu chiểu tại Thư viện Quốc gia.
21.01.1955 Báo Nhân dân số Tết Ất Mùi đăng bài của Xuân Trường: “Vài ý nghĩ sau khi đọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu”.
15.02.1955Báo Văn nghệ số 63 đăng (kỳ 1) bài phê bình của Xuân Diệu: “Ðọc tập thơ Việt Bắc".
28.02.1955 Báo Văn nghệ số 64 đăng tiếp (kỳ 2, hết) bài phê bình của Xuân Diệu.
04.03.1955 Mạn đàm về tập thơ Việt Bắc do Phòng Văn nghệ quân đội tổ chức.
11.03.1955 Báo Văn nghệ số 65 công bố mở một "tự do diễn đàn" thảo luận về tập thơ Việt Bắc, mở đầu bằng việc đăng bài của Hoàng Yến: “Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không?” Và đăng tin do A.T. viết: “Hai cuộc thảo luận về tập Việt BắcVượt Côn Ðảo".
23.03.1955 Báo Văn nghệ số 66 đăng bài của Minh Tranh: “Tình yêu trong tập thơ Việt Bắc".
31.03.1955 Cuộc họp thảo luận thứ nhất về tập thơ Việt Bắc do Ban Văn học của Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức tại trụ sở của hội.
01.04.1955 Báo Văn nghệ số 67 trong đề mục "Tranh luận về tập thơ Việt Bắc" đăng bài của Vũ Ðức Phúc: “Hoàng Yến chưa nắm vững vấn đề hiện thực”; bài của Hoàng Cầm: “Tập thơ Việt Bắc ít chất sống thực tế”.
03.04.1955 Báo Nhân dân đăng tin về cuộc họp thứ nhất (31.3.1955) thảo luận về tập thơ Việt Bắc ở Hội Văn nghệ Việt Nam; bài của Hoàng Yến: “Ðọc thơ Việt Bắc của Tố Hữu” (kỳ 1).
04.04.1955 Báo Nhân dân đăng tiếp bài của Hoàng Yến (kỳ 2).
05.04.1955Xuân Diệu nói chuyện với sinh viên về "Ðịch và ta trong thơ Tố Hữu"; báo Nhân dân đăng tiếp bài của Hoàng Yến (kỳ 3, hết).
07.04.1955Cuộc họp thảo luận thứ hai về tập thơ Việt Bắc do Ban Văn học của Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức.
08.04.1955Tuần báo Nói thật số 4 đăng bài: “Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu có thiếu chất sống thực tế không?”
10.04.1955Báo Nhân dân đăng bài: “Ðẩy mạnh phong trào phê bình văn nghệ”.
11.04.1955 Báo Nhân dân đăng tin và tường thuật cuộc họp phê bình tập thơ Việt Bắc ở Hội Văn nghệ Việt Nam tối 7.4.1955.
11.04.1955 Báo Văn nghệ số 68 trong mục "Tranh luận về tập thơ Việt Bắc" đăng bài của Vũ Ðức Phúc: “Phản đối cái buồn của Hoàng Cầm khi đọc thơ Tố Hữu”; bài của Lê Ðạt: “Giai cấp tính trong thơ Tố Hữu”; ký giả Hiện Thực (?) trong mục "Sổ tay văn nghệ" chấn chỉnh một câu trong một bài thảo luận về tập thơ Việt Bắc; đưa tin Xuân Diệu nói chuyện về thơ Tố Hữu cho sinh viên.
14.04.1955 Cuộc họp thảo luận thứ ba về tập thơ Việt Bắc do Ban Văn học của Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức.
14.04.1955 Báo Nhân dân đăng bài của Nhân Hồng: “Chúng ta tiếp thu di sản của nhà thơ Xô viết vĩ đại như thế nào?”
15.04.1955 Sách Việt Bắc in lần thứ hai, in xong tại nhà in Xuân Thu.
17.04.1955 Báo Nhân dân đưa tin cuộc họp thảo luận thứ ba về tập thơ Việt Bắc tại Hội Văn nghệ Việt Nam.
20.04.1955 Báo Tổ quốc số 9 đăng bài của Phan Cự Ðệ: “Ðọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu: Tình cảm chưa theo kịp ý thức con người.”
21.04.1955 Báo Văn nghệ số 69 trong mục "Tranh luận về tập thơ Việt Bắc" đăng: bài của Nguyễn Văn Phú: “Vài điểm non yếu trong nghệ thuật tập thơ Việt Bắc"; bài của Hoài Việt: “Không đồng ý với Hoàng Yến và Hoàng Cầm”; tin các cuộc họp phê bình tập thơ Việt Bắc các tối 7.4 và 14.4.1955; bài của Lê Ðạt: “Học tập Maiakovski, phát huy sức sống mới của thi ca Việt Nam” (kỳ 1).
21.04.1955 Báo Nhân dân trong mục "Phê bình văn nghệ" đăng bài của Lê Quang Thành: “Góp ý kiến thảo luận về tập thơ Việt Bắc" của Tố Hữu (kỳ 1).
22.04.1955 Báo Nhân dân đăng tiếp (kỳ 2, hết) bài trên của Lê Quang Thành.
23.04.1955 Báo Ðộc lập số 96 đăng bài của Nguyễn Viết Lãm: “Góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc: Tư tưởng và tình cảm trong tập thơ Việt Bắc có hiện thực không?”
27.04.1955 Báo Nhân dân đăng bài của Nhân Hồng: “Vấn đề phê bình văn nghệ ở Liên Xô” (kỳ 1).
28.04.1955 Báo Nhân dân đăng tiếp bài trên của Nhân Hồng (kỳ 2, hết).
30.04.1955 Báo Ðộc lập số 97 đăng bài của Thẩm Lăng: "Việt Bắc và Tố Hữu”.
01.5.1955 Báo Văn nghệ số 70 đăng bài của Hoàng Cầm: “Bổ sung ý kiến của tôi về tập thơ Việt Bắc"; bài của Lê Ðạt: “Học tập Maiakovski, phát huy sức sống mới của thi ca Việt Nam” (kỳ 2, hết); bài của Ðông Hoài: “Góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc"; ký giả Hiện Thực (?) trong mục "Sổ tay văn nghệ" nêu ý kiến uốn nắn sự sùng bái hình thức thơ leo thang; tòa soạn trích dịch ý kiến Chu Dương (Trung Quốc) về phê bình văn nghệ.
05.5.1955 Sách Việt Bắc (in lần thứ hai) nộp lưu chiểu.
05.5.1955 Báo Nhân dân trong mục “Ý kiến bạn đọc” đăng ý kiến phản ứng với một số nhận xét trong cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc.
07.5.1955 Báo Ðộc lập số 98 đăng bài của Nguyễn Viết Lãm: “Ðặc tính sáng tạo trong tập thơ Tố Hữu”.
08.5.1955 Báo Nhân dân đăng bài của Hồng Giao: “Cuộc phê phán tư tưởng Hồ Thích ở Trung Quốc”.
10.5.1955 Báo Văn nghệ số 71 trong đề mục "Chung quanh tập thơ Việt Bắc" đăng các ý kiến của Lê Bá Súy, Ngô Linh Ngọc, Ðức Minh, Lê Bạch Sơn trong bài Bạn đọc góp ý kiến; ý kiến của Vũ Ðức Phúc: Thư bạn đọc; tòa soạn đăng trích dịch xã luận tạp chí Người cộng sản (Liên Xô) về phê bình văn học.
14.5.1955 Báo Ðộc lập số 99 đăng bài của Nguyễn Viết Lãm: “Những nhược điểm của tập thơ Việt Bắc".
21.5.1955 Báo Văn nghệ số 72 trong đề mục "Chung quanh tập thơ Việt Bắc" đăng: bài của Trần Ðộ: “Vài cảm tưởng của một độc giả thông thường”; bài Bạn đọc góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc với các ý kiến của Nguyễn Văn Sáng, Xuân Sách.
01.06.1955 Báo Văn nghệ số 73 trong mục "Chung quanh tập thơ Việt Bắc" đăng: ý kiến Trương Chính trong mục "Ý kiến các bạn văn nghệ".
04.06.1955 Báo Nhân dân đăng tin Tòa soạn báo Văn nghệ tự phê bình về mục chữ và nghĩa đã được bạn đọc báo Nhân dân (5.5.1955) góp ý.
05.06.1955 Báo Tổ quốc số 12 đăng bài của Vũ Ðình Liên: “Mối tình dân tộc trong tập thơ Việt Bắc" của Tố Hữu.
10.06.1955 Báo Văn nghệ số 74 đăng bài của Hoài Thanh: “Tình yêu quê hương đất nước trong tập thơ Việt Bắc".
20.06.1955 Báo Văn nghệ số 75 đăng bài của Tú Mỡ: “Góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu”.
03.07.1955 Báo Nhân dân đăng bài của Ngô Ðiền: “Nhân dân Trung Quốc vạch mặt và đòi trừng trị tên phản cách mạng Hồ Phong”.
05.07.1955 Báo Tổ quốc số 14 khởi đăng bài của Ðăng Thai Mai: “Hồ Thích, từ tư tưởng mại bản đến chỗ phản quốc” (đăng liền 3 kỳ, đến số 16, ngày 5.8).
14.07.1955 Báo Văn nghệ số 77 đăng bài của Nguyễn Ðình Thi: “Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng”.
21.07.1955 Báo Văn nghệ số 78 đăng bài của Nguyễn Ðình Thi: “Lập trường giai cấp và đảng tính. Vấn đề hiện thực và lãng mạn”.
28.07.1955 Báo Văn nghệ số 79 đăng bài của Nguyễn Ðình Thi: “Nhà thơ lớn lên với thời đại”.
07.08.1955 Báo Nhân dân đăng bài của Trọng Anh: “Ðồng bào miền Nam với thơ Tố Hữu”.
11.08.1955 Báo Văn nghệ số 81 đăng bài của Hoàng Trung Thông: “Ý kiến kết thúc cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc".
11.08.1955 Báo Nhân dân đăng kỳ 1 bài trên của Hoàng Trung Thông.
12.08.1955 Báo Nhân dân đăng tiếp (kỳ 2, hết) bài trên của Hoàng Trung Thông.
20.09.1955 Báo Tổ quốc số 19 đăng bài của Ðặng Thai Mai: “Thanh trừ tư tưởng Hồ Phong và tập đoàn phản động của y”.
15.03.1956 Báo Văn nghệ số 112 đăng thông cáo của Ban Gíám khảo và Kết quả Giải thưởng văn học của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955 về Giải thưởng thơ: Giải Nhất: Việt Bắc, tập thơ của Tố Hữu.


*


3. Xuân Trường
Vài ý nghĩ sau khi đọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Trong thời kỳ cách mạng chưa thành công, chế độ thực dân còn chà đạp lên đời sống của nhân dân ta, bóp nghẹt tâm hồn của chúng ta, thơ Tố Hữu đã có tác dụng làm ấm lòng người đọc, bồi dưỡng lòng yêu Tổ quốc của quần chúng, khuyến khích người cán bộ nằm trong nhà tù giữ vững lòng tin đối với tiền đồ vẻ vang của dân tộc. Tập thơ Việt Bắc chủ yếu gồm những bài thơ sáng tác trong thời kỳ kháng chiến từ sau thu đông thắng lợi 1947, những bài thơ đã làm ấm lòng của chúng ta; và một số bài thơ sáng tác sau khi hòa bình thắng lợi những bài thơ này cũng đã có tác dụng giáo dục, cổ vũ cán bộ và nhân dân. Tập thơ Việt Bắc vừa mới ra chưa được 2 tháng, con số phát hành đã lên gần 3 vạn quyển. Chưa có một quyển sách nào phát hành nhiều như thế trong một thời gian ngắn.

Ở đây tôi không giới thiệu toàn quyển và đi sâu vào tập thơ Việt Bắc. Tôi chỉ trình bày một vài ý nghĩ đầu tiên khi đọc lại những bài thơ trong tập thơ này.

Có thể nói chủ đề bao trùm tập thơ Việt Bắc là tinh thần thiết tha yêu nước, chí khí phấn đấu kiên quyết bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Hình ảnh tiêu biểu cho tinh thần đó là Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, linh hồn của kháng chiến và anh bộ đội anh dũng, thân mến, nổi nhất trong tập thơ Việt Bắc. Tố Hữu đã để cả tâm hồn, tất cả tình cảm đằm thắm nhất của mình để diễn tả những hình ảnh yêu kính và quý mến nhất ấy của thời đại chúng ta.

Ðối với anh bộ đội, chỉ "gần nhau là thân thiết", chỉ "một thoáng lặng nhìn nhau" là "âm thầm thương mến". Trong đời sống bình dị của người nông dân Việt Nam có phút nào yêu nhau say sưa bằng chia cho nhau điếu thuốc lào:

Trưa nay trên đèo cao
Ta say sưa vài phút!
Chia nhau điếu thuốc lào
Nào anh hút tôi hút
Rồi lát nữa chia đôi
Anh về xuôi tôi ngược
Lòng anh và lòng tôi
Mang nặng tình cá nước

Tố Hữu thông cảm với anh bộ đội không phải chỉ qua bộ quần áo nâu. Tố Hữu thông cảm qua sức lao động của con người.

Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh Vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!

Tố Hữu đã từng mặc áo bộ đội, vai nặng ba lô, chân đạp rừng gai đá sắc, trèo đèo lội suối, cùng ăn cơm vắt thấm nước, dãi gió nằm sương với anh bộ đội. Nên Tố Hữu là nhà thơ thông cảm mãnh liệt đối với sức lao động ấy một khi nó dốc ra mặt trận đánh đổ quân thù. Xúc động biết bao khi đọc những đoạn thơ Tố Hữu để tình cảm của mình rung lên những nhạc điệu, những ý thơ hùng dũng:

Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Ðầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm
khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt

Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Ðầu bịt lỗ chân mai
Băng mình qua núi thép gai
ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt còn ôm
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện

Trong tập thơ Việt Bắc ngoài hình ảnh anh bộ đội, những hình ảnh bà mẹ, em thiếu nhi, chị phụ nữ cũng nổi lên đầy tình mến thương của nhà thơ. Nhưng Tố Hữu tha thiết yêu anh bộ đội, Tố Hữu không muốn tình yêu ấy bị chia xẻ. Tố Hữu muốn đặt tất cả những hình ảnh trong một cảm xúc chung đối với người chiến sĩ. Những bà mẹ trong thơ Tố Hữu là những bà mẹ của chiến sĩ, giản dị như cánh đồng quê, thiết tha yêu con nhưng lại yêu nước hơn. Em thiếu nhi trong thơ Tố Hữu là chiến sĩ nhỏ tuổi, tâm hồn em hồn nhiên, nhưng lòng em thấm sâu tình yêu nước, em là những chú "đồng chí nhỏ" làm nhiệm vụ giao thông vượt qua mặt trận, không sợ đạn của giặc, không sợ hiểm nghèo. Những chị phụ nữ trong thơ Tố Hữu là những chị dân công dù con bế con bồng "em cũng theo chồng đi phá đường quan", những chị ngày đêm ra tiền tuyến phục vụ chiến trường. Có những lúc tình cảm của Tố Hữu đi ra ngoài biên giới, nhớ tới em bé Triều Tiên, nhân dân Triều Tiên đang anh dũng chiến đấu. Tố Hữu yêu em bé Triều Tiên và em bé Triều Tiên trong thơ Tố Hữu là con của người dân công tải đạn, con của người nữ cứu thương, con của anh bộ đội "mặt đen khói đạn, chặn đường giặc lui".

Tố Hữu để hết tấm lòng yêu nước, yêu Ðảng, yêu dân vào một người, người anh hùng kiệt xuất, người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc và của Ðảng: Hồ Chủ tịch. Trong bài "Sáng tháng Năm", hình ảnh Hồ Chủ tịch là hình ảnh của người cha thân yêu và hiền từ, là hình ảnh chói lọi làm "trong sáng lòng anh xung kích", làm "vững tay người chiến sĩ nông thôn", vững tay anh công nhân quốc phòng, em học sinh đốt đuốc đến trường làng và "các chị dân công mòn đêm vận tải".

Lãnh tụ của chúng ta vĩ đại, vì Người là biểu hiện tập trung nhất những đức tính cao quý của dân tộc. Tố Hữu ca tụng lãnh tụ qua tình cảm của quần chúng đối với lãnh tụ.

Giọng của Người không phải sấm trên cao
Thấm từng tiếng, ấm vào lòng mong ước
... Người là Cha là Bác là Anh
Quả tim lớn lọc trăm giòng máu nhỏ

Qua những bài thơ ca tụng lãnh tụ, Tố Hữu đã tăng cường lòng tin của nhân dân đối với sự nghiệp của dân tộc dưới lá cờ vinh quang của Hồ Chủ tịch.

Ngoài bài "Sáng tháng Năm", trong những bài thơ khác cũng như hình ảnh người chiến sĩ, hình ảnh của Hồ Chủ tịch vĩ đại bao giờ cũng là hình ảnh tươi sáng nhất, bao trùm tất cả.

Ðiều làm người đọc thông cảm nhất với hình ảnh những người con yêu quý của nhân dân ta trong thơ Tố Hữu là những hình ảnh ấy gắn chặt với đất nước, dân tộc, quê hương. Ðây chính là phần mà thơ Tố Hữu hấp dẫn bạn đọc nhiều nhất, nâng cao tình cảm của chúng ta nhiều nhất. Và đây cũng chính là phần sáng tác tươi nhất trong tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Ðọc thơ Tố Hữu, chúng ta càng tin tưởng nhân dân ta anh hùng, đất nước ta đẹp đẽ, quê hương ta đầm ấm.

Hình ảnh vĩ đại của Hồ Chủ tịch là hình ảnh rộng lớn của đất nước:

Bác ngồi đó lớn mênh mông
Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non

Bên cạnh hình ảnh bộ đội gặp nhau lưng đèo Nhe là:

Cánh đồng quê tháng mười
Thơm nức mùa gặt hái
Người chiến sĩ trên chiến trường Tây Bắc
Mỗi bước, vàng theo đồng lúa chín
Lửa vui từng mái nứa tươi xanh

Và còn cảnh nào đẹp hơn khi chiến sĩ chiến thắng trở về:

Anh về cối lại vang rừng
Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân
Anh về sáo lại ái ân
Ðêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca

Em Lượm, em bé giao thông anh dũng hy sinh vì nhiệm vụ, thi sĩ lặng người lại trước "một giòng máu tươi", nhưng em Lượm hy sinh mà em Lượm không chết. Tố Hữu đặt em Lượm nằm trên cánh đồng lúa vàng rượi, tượng trưng cho lẽ sống:

Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng

Người chiến sĩ anh dũng tuyệt vời của chúng ta ở trên chiến trường một khi ngã xuống:

Máu của anh chị, của chúng ta, không uổng
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng

Ðất nước và con người, cảnh và người đối với Tố Hữu không thể xa rời, nhưng đất nước tốt đẹp là do người làm nên, cảnh vật vui tươi cũng là do người quyết định. Ðối với Tố Hữu cảnh vật đất nước của chúng ta bao giờ cũng vui cũng tươi cũng đẹp và cái vui tươi trong thơ Tố Hữu bao giờ cũng biểu hiện một lòng tin vững chắc ở tương lai, vì nhân dân chúng ta chiến đấu ngày nay đã nhìn thấy thắng lợi ngày mai. Tinh thần lạc quan cách mạng tươi sáng ấy xuất phát từ lòng thiết tha yêu nước và lòng tin tưởng ở quần chúng đã tác động mãnh liệt đến người đọc.

Trước cảnh chết, "Giữa thành phố trụi," thi sĩ nhìn thấy mầm sống, thấy sức mạnh, sức mạnh ấy bản thân cảnh vật không có, mà do chúng ta xây dựng nên:

Bàn tay đã nắm lời thề
Ra đi quyết phá, ngày về sẽ xây
Từ trong đổ nát hôm nay
Ngày mai đã đến từng giây từng giờ

Bài thơ "Ta đi tới" đã diễn tả nhân dân vui sướng, quang cảnh tưng bừng của hoà bình, của thắng lợi vĩ đại sau 8, 9 năm kháng chiến. Cảnh và người hoạt động sau thắng lợi của hoà bình ăn nhịp với nhau, con người của chúng ta anh dũng, đất nước của chúng ta đẹp đẽ vô cùng. Cảm xúc của Tố Hữu rạt rào trên rừng cọ, đồi chè, bến đò, trên những cánh đồng phì nhiêu bát ngát, cảm xúc của Tố Hữu vào tận đáy lòng của mỗi người. Vui quá, thi sĩ như muốn nhảy lên, ôm lấy mọi người, hát lên tiếng hát thắng lợi, nói lên tiếng nói của mỗi dân tộc anh hùng.

Nhưng còn nửa nước ta chưa giải phóng. Trong nỗi vui mừng của thi sĩ sáng lên lòng tin tưởng ở sự thống nhất nước nhà:

Dù ai nói ngả nói nghiêng,
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
Dù ai rào rậu ngăn sân
Lòng ta vẫn giữ là dân Cụ Hồ
Sáng lên sức mạnh của dân tộc ta:
Ta đi tới trên đường ta bước tiếp
Rắn như thép, vững như đồng
Ðội ngũ ta trùng trùng điệp điệp
Cao như núi, dài như sông
Chỉ ta lớn như biển Ðông trước mặt!

Cảm xúc của Tố Hữu đối với những con người, đối với đất nước, Tổ quốc quê hương còn đằm thắm hơn một khi nó biểu hiện lên như tình yêu vợ chồng, tình mẹ con.

Ðối với anh bộ đội ra tiền tuyến xa xôi "yêu bầm, yêu nước, cả đôi mẹ hiền".

Việt Bắc là nơi chôn rau cắt rốn của cách mạng, là căn cứ địa của kháng chiến. Hòa bình trở lại, Chính phủ, Trung ương Ðảng về Hà Nội. Mỗi người chúng ta đều nhớ Việt Bắc, nhớ những bà mẹ, những người chị đã nuôi nấng chúng ta, nhớ anh du kích đã dẫn đường cho chúng ta, nhớ núi rừng đã giúp ta chặn tay giặc, nhớ suối, nhớ nương, nhớ rẫy, nhớ những bãi rừng xanh hoa chuối đỏ tươi, những ngày xuân hoa mai nở trắng. Nỗi nhớ nhung ấy đối với Tố Hữu âu yếm lạ lùng. Trong những lời nhắn nhủ say tình của bài "Việt Bắc", chúng ta không còn phân biệt Việt Bắc và Tố Hữu, tiếng nói của Việt Bắc và của Tố Hữu là của hai người, nhưng nó lại nằm trong một người. Và thắm thiết gì hơn khi nỗi nhớ nhung ấy biến thành nỗi nhớ nhung của đôi trai gái yêu nhau hàng chục năm ròng mà phải xa cách!

Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu

Tố Hữu, nhà thơ của chúng ta, đưa tình yêu vào trong thơ để nói lên lòng yêu chân thành đối với Tổ quốc với đất nước. Tình yêu đối với Tố Hữu cũng như đối với tất cả những người chiến sĩ cách mạng không phải là mục đích mà nó là động cơ cách mạng. Nói đến tình yêu trong tập thơ Việt Bắc, chúng ta không quên nhắc đến những bài thơ dịch của Tố Hữu "Ðợi anh về", "A-lê-sa nhớ chăng" (của Ximô-nôp). Tố Hữu cảm thông với thi sĩ Ximô-nôp và đồng thời giới thiệu với chúng ta những tình yêu cách mạng. Con người cách mạng là con người xúc cảm nhất, con người biết yêu đằm thắm và cũng biết cách giữ gìn và bảo vệ tình yêu ấy, tình yêu ấy là động cơ thúc đẩy chúng ta thêm mạnh trên đường chiến đấu bền bỉ và lâu dài.

Bộ đội, cán bộ nhân dân thích đọc thơ Tố Hữu, nhớ thơ Tố Hữu, vì thơ Tố Hữu đã nói lên khá mãnh liệt tình yêu quê hương, yêu đất nước, yêu Tổ quốc, khêu gợi trong lòng chúng ta sức tin tưởng ở chúng ta, ở những con người lao động đã chiến đấu, sản xuất và đang xây dựng, bồi dưỡng thêm tinh thần lạc quan cách mạng của chúng ta của nhân dân ta, vì thơ Tố Hữu đã hun đúc thêm chí căm thù, nâng cao chí khí chiến đấu của chúng ta quyết tâm bảo vệ quê hương và đất nước.

Nhưng đọc tập thơ Việt Bắc, chúng ta chưa thỏa mãn. Tuy ca tụng người chiến sĩ bộ đội là Tố Hữu đã ca tụng người nông dân, tình cảm, sức mạnh của người chiến sĩ trong thơ Tố Hữu là tình cảm, sức mạnh của người nông dân, những bà mẹ, những người chị, người vợ trong thơ Tố Hữu là những nông dân lao động, nhưng chúng ta muốn những người nông dân lao động sản xuất ở hậu phương được nêu cụ thể hơn. Trong tập thơ Việt Bắc, hình ảnh người nông dân sản xuất bị mờ đi trong những tình cảm chung ca tụng đất nước, quê hương. Tuy trong tất cả những bài thơ của Tố Hữu đã nói lên tư tưởng của giai cấp công nhân, đường lối chỉ đạo của Ðảng, ca tụng Hồ Chủ tịch, nhưng như vậy vẫn chưa đủ, chúng ta muốn hình ảnh Ðảng tiên phong của dân tộc, người công nhân được nêu cụ thể hơn, đầy đủ hơn, chúng ta rất tiếc rằng Tố Hữu chưa nói lên hộ lòng biết ơn, sức tin tưởng của hàng chục triệu con người đảng viên và quần chúng đối với Ðảng tiên phong của giai cấp công nhân, Tố Hữu chưa ghi lại cho chúng ta hình ảnh của người công nhân trên các ngành hoạt động luôn luôn nêu cao chí khí phấn đấu, khắc phục khó khăn, chưa ghi lại cho chúng ta hình ảnh người nông dân đã vươn mình dậy đánh đổ thế lực của giai cấp địa chủ. Chống đế quốc và chống phong kiến là hai nhiệm vụ không thể tách rời trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Trong cuộc đấu tranh chống phong kiến hiện nay của hàng triệu nông dân đang diễn ra gay go ở nông thôn, chúng ta hy vọng ở Tố Hữu những bài thơ nói lên khí thế của nông dân, cũng như Tố Hữu đã ca tụng khí thế của người chiến sĩ ngoài mặt trận.

Thời đại của chúng ta đẹp đẽ vô cùng, sinh hoạt hàng ngày của quần chúng muôn màu muôn vẻ, tình cảm của quần chúng thật dồi dào và chúng ta đang ở trong một thời đại biến chuyển dồn dập. Những màu sắc ấy, những tình cảm ấy Tố Hữu đã cố ghi lại một phần nào nhưng những màu sắc và tình cảm ấy ở một số bài thơ trong tập thơ Việt Bắc chưa được thể hiện cụ thể. Bài "Ðời đời nhớ Ông" mới nói lên những tình cảm chung, nó chưa đi vào tình cảm, hành động cụ thể của nhân dân, nó chưa biểu hiện lên được lực lượng của quần chúng trong sự đau xót xé ruột xé gan khi nghe Sta-lin mất. Hòa bình lập lại, sung sướng nhất là những người lao động sản xuất, những người nông dân vùng tự do cũ cũng như vùng mới giải phóng. Nỗi sung sướng ấy nói lên chưa được hả dạ trong bài "Ta đi tới". Hà Nội sống tủi nhục dưới ách thực dân và phong kiến, tinh thần chiến đấu, chịu đựng của nhân dân Hà Nội, tinh thần quật khởi của công nhân thủ đô đáng lẽ phải được nói lên đầy đủ hơn, rõ ràng hơn trong một bài thơ như bài "Lại về"...

Những bài thơ đăng trong tập thơ Việt Bắc đã nói lên một phần tình cảm tốt đẹp nhất của con người mới của một thời đại mới, dưới một chế độ mới. Tình yêu thiết tha của Tố Hữu đối với quê hương, đất nước, Tổ quốc, lòng tin tưởng vững bền, tinh thần lạc quan cách mạng bao trùm tập thơ của Tố Hữu đã từng kích thích chúng ta trong những năm chiến đấu gay go gian khổ nhất, cũng như trong cuộc đấu tranh ái quốc gay go và phức tạp hiện nay. Ðọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu chúng ta được nuôi dưỡng thêm tinh thần và tình cảm mạnh mẽ đó. Về mặt nghệ thuật thì những thành công đó chính là những thành công của chủ nghĩa hiện thực cách mạng, của chủ nghĩa nhân đạo cách mạng trong thơ.

Tố Hữu là một thi sĩ cộng sản. Tập thơ Việt Bắc trào lên lòng yêu nước nồng thắm chứng tỏ thêm một nguyên lý: những người cộng sản là những người tha thiết yêu mến Tổ quốc của mình, yêu mến nhân dân của mình và suốt đời tận tụy đấu tranh cho sự nghiệp của dân tộc.
Nguồn: Nhân dân, số ra ngày 24.1.1955