© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
16.7.2005
 
Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ Việt Bắc
Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn (7/15)
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15 
 
21. Phan Cự Ðệ (sinh viên văn khoa)

Ðọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu: tình cảm chưa theo kịp ý thức của con người

Tập thơ Việt Bắc ra đời đã gây nên một phong trào tranh luận sôi nổi. Có nhiều ý kiến hoàn toàn đối lập nhau. Một số bạn đọc đâm ra hoang mang không biết nên theo ý kiến nào vì thực ra những ý kiến phê bình đều có những phần đúng của nó. Thế thì lấy tiêu chuẩn nào để định giá trị của tập thơ? Theo ý kiến tôi, muốn nhận chân được giá trị tập thơ Việt Bắc, trước hết cần phải thống nhất với nhau về một vài quan điểm phê bình đã.

Trước hết tôi đi vào lập trường của hai bạn Hoàng Yến và Hoàng Cầm. Cả hai bạn đều đã có nhiều ý kiến thống nhất: tập thơ Việt Bắc thiếu hiện thực, ít chất sống thực tế. Ý kiến này có phần đúng. Nhưng cái khuyết điểm chung trong phương pháp phê bình của hai bạn là đã trích ra một đoạn trong bài thơ hoặc một số đoạn trong tập thơ để đi đến một kết luận chung cho toàn thể. Tách rời bộ phận khỏi toàn thể, chưa nhìn thấy toàn diện, các khía cạnh tập thơ, đó là một thiếu sót sót căn bản của hai bạn Hoàng Yến và Hoàng Cầm.

Có thể nói tập thơ Việt Bắc đã thành công về hiện thực, về sự truyền cảm những tình cảm lành mạnh cho thời đại nhưng ở những khía cạnh nào đó nó chưa đạt được mà thôi. Trong con người của thi sĩ có thể còn những tình cảm lạc điệu chưa theo kịp cái ý thức tiến bộ. Mới nghe qua thì có vẻ mâu thuẫn nhưng thật ra thì thống nhất. Con người mới chúng ta đang đập tan những rác rưởi của xã hội cũ để xây dựng một con người mới hoàn toàn. Trong quá trình trưởng thành của nó, tất nhiên còn có những bước chập chững, nhưng cái hướng vẫn là hướng đi lên, cái bước đi vẫn là bước đi của con người mới.

Phê bình bài “Bao giờ hết giặc” của thi sĩ Tố Hữu, anh Hoàng Cầm cho là "cả bài, câu nào cũng đìu hiu vắng vẻ". Bà mẹ thương con một cách "thương tâm, não ruột". Người bộ đội trong thơ hiện lên bé bỏng, đáng thương. Những tình cảm, những con người không phải là chất sống thực của thời đại.

Nhưng tại sao anh Hoàng Cầm không nhắc đến bà mẹ, anh bộ đội trong bài “Bà mẹ Việt Bắc”, trong bài “Bầm”. Bà mẹ và anh bộ đội trong những bài thơ này đẹp đẽ và lành mạnh biết bao! Chính Hoàng Yến đã phải công nhận rằng trong những bài thơ này "còn có nhiều tác dụng góp vào việc nâng cao ý chí chiến đấu không ngừng, không mỏi của người chiến sĩ quân nhân cách mạng". Ðã có tác dụng như thế thì tất nhiên là thơ phải hiện thực, phải có chất sống rồi chứ gì nữa.

Cho nên phải nhìn cho được toàn bộ các khía cạnh của tập thơ. Không thể căn cứ vào một số ít những tình cảm lạc điệu, những nét thiếu hiện thực để đi đến kết luận rằng tập thơ Việt Bắc thiếu hiện thực, "tác giả tổng kết sự việc trên tài liệu" hoặc tập thơ ít chất sống, giống như "một vại nước to đầy tràn, pha loãng một màu sữa", "mới nghe thì hay, nghe nhiều lần thì chán".

Cũng vì những quan niệm phê bình thiên lệch ở trên mà bạn Vũ Ðức Phúc đã phê bình bạn Hoàng Yến là chưa nắm vững vấn đề hiện thực.

Nhưng trong khi phê bình Hoàng Yến, bạn Phúc cũng đã có những cái nhìn quá đơn giản về con người của thi sĩ. Phê bình bài “Bắn” của Tố Hữu, Hoàng Yến viết: "…Ngay đoạn tác giả gợi căm thù cũng rất chung chung, đại khái, không sôi sục được lòng người đọc. Có thể nói tác giả đã nói đúng và đủ. Nhưng chất thơ không phải ở chỗ đúng và đủ. Ðặc tính của thơ là nói ít mà gợi nhiều, nói hiện tại mà ấp ủ tương lai. Có thể nói "tác giả đã tổng kết các việc trên tài liệu…" Về điểm này bạn Vũ Ðức Phúc hoàn toàn không đồng ý; bạn cho rằng: "Một người đã vào sinh ra tử bao nhiêu năm trời, nếm đủ mọi mùi tàn ác của đế quốc, chứng kiến bao nhiêu cảnh dã man của chúng gây ra, một người như Tố Hữu phải đâu là người không cảm thông được nỗi căm hờn giặc, dù chỉ là nghe chuyện mà hình dung ra sự việc. Một người như vậy nếu ta kết luận là "tổng kết sự việc trên tài liệu" thì cũng nên suy nghĩ một chút!"

Tôi chỉ đồng ý phần trên của bạn Phúc. Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng đã trưởng thành trong lao tù, trong khói lửa kháng chiến. Quần chúng, Ðảng đã giáo dục cho thi sĩ một lập trường vững chắc, một ý thức căm thù địch sâu sắc. Bản thân thi sĩ đã nhiều lần chứng kiến những cảnh đau thương tang tóc của đồng bào. Nhưng có ý thức căm thù chưa phải là đã có ngay tình cảm căm thù đúng mức. Ý thức chỉ giúp đỡ cho cảm xúc nếu là ý thức tiến bộ - chứ không quyết định được cảm xúc của thi sĩ.

Trong một con người thi sĩ, có lúc tình cảm tiến bộ vượt xa hẳn ý thức lạc hậu của thi sĩ nhưng cũng có lúc ý thức đã tiến bộ mà tình cảm vẫn lẽo đẽo theo sau. Ðó là một hiện tượng thường xảy ra trong lĩnh vực văn học, ở Việt Nam và ngay cả thế giới. Ở trường hợp thi sĩ Tố Hữu, không phải tình cảm hoàn toàn chưa theo kịp ý thức, nhưng một đôi khi nó đã không theo kịp con người ý thức tiến bộ của thi sĩ. Phần sau đây tôi muốn nói đến những điểm "chưa ăn khớp" đó trong tập thơ Việt Bắc.

Một trong những nhận xét của nhiều người là trong tập thơ Việt Bắc, đôi lúc toát ra những cảm giác buồn, ngậm ngùi, xa vắng. Rõ nhất là trong bài “Bao giờ hết giặc”. Trong lúc “Bà mẹ Việt Bắc” rất tiến bộ, lành mạnh thì ở đây tác giả vẽ lên hình ảnh của một bà mẹ, một đêm về cuối năm, nằm không ngủ được, ngong ngóng trông con về:

Từ ngày nó bước ra đi
Nó đi giải phóng đến khi nào về
Bao giờ hết giặc về quê?
Ðêm đêm bà bủ nằm mê khấn thầm

Cái tin tưởng ở đây của bà mẹ mong manh lắm. Giữa cảnh "mưa đêm… gió núi ù ù" bà thương con xa nhà vất vả. Hình ảnh người bộ đội hiện lên nhỏ bé, tội nghiệp.

Nó đi đánh giặc đêm này
Bước run bước ngã bước lầy bước trơn
Nhà còn ổ chuối lửa rơm
Nó đi đánh giặc đêm hôm sưởi gì?

Nỗi lo một lúc một "bời bời" làm bà cụ ruột gan bồn chồn cho đến sáng gà gáy. Tình thương của bà mẹ đối với chiến sĩ là một tình thương yếu ớt tiêu cực. Nó làm cho người chiến sĩ ủy mị nhụt chí lớn. Trong thực tế kháng chiến, có thể có một thiểu số những bà mẹ như vậy nhưng không phải là những hình ảnh điển hình của những bà mẹ thời đại. Bổn phận thi sĩ là phải ghi lấy những tình cảm thực nhưng đi lên của thời đại. Có thế thì mới có tác dụng giáo dục người đọc làm cho họ yêu thương căm thù lành mạnh hơn.

Bước sang một bài khác, bài “Tình cá nước”, chúng ta cũng thấy bà mẹ ở đây hiện lên với một niềm tin tiêu cực nếu không phải là tuyệt vọng, giữa cảnh hai người cán bộ và bộ đội gặp nhau trên lưng đèo, nói chuyện đánh giặc thắng trận "cười ha hả" thì tiếng ru con từ một xóm tre xanh xa xôi vẳng lại buồn buồn:

Cháu ơi cháu lớn với bà
Bố mày đi đánh giặc xa chưa về
Cháu ngoan cháu ngủ đi nhe
Mẹ mày ra chợ bán chè bán rau
Bố mày đánh giặc còn lâu
Mẹ mày cày cấy ruộng sâu tối ngày.

Ðành rằng bà mẹ ru như thế để yên lòng cháu nhỏ nhưng ở đây lời thơ ngậm ngùi, lặng lẽ tan rã, nó nói lên một cái gì thiếu tin tưởng trong tâm hồn bà mẹ chiến sĩ ấy.

Cái tình cảm buồn, ngậm ngùi lạc điệu ấy còn trà trộn trong một vài đoạn thơ của bài “Việt Bắc”, ở đây phải nói rằng cái dụng ý của tác giả là một dụng ý tốt. Sau 15 năm sống với núi rừng Việt Bắc thân yêu, tác giả muốn rằng ngày về thủ đô, người cán bộ sẽ không bao giờ quên được căn cứ địa thần thánh đó của cách mạng. Người cán bộ sẽ nhớ mãi Việt Bắc để giữ đúng tác phong giản dị, khắc khổ, "trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền". Và trong ý thức tác giả, giữa núi rừng Việt Bắc và thủ đô chẳng có gì là cách biệt mà "nước non đâu cũng là ta với mình". Thủ đô được giải phóng tức là Việt Bắc cũng "tưng bừng thêm vui".

Ý thức của thi sĩ là thế. Nhưng cái không khí chia tay trong bài thơ lại có vẻ ngậm ngùi ly biệt:

Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay

Người ở lại nghẹn ngào, lưu luyến người đi:

Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng non để già [1]
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son

Cũng như Hoàng Yến, tôi thấy Việt Bắc ở lại có vẻ heo hút, đìu hiu quá! Những câu thơ buồn buồn, tình cảm đi xuống, chết chóc. Nó gợi lên một cái gì khiên cưỡng trong lòng người đọc. Nó là những cung đàn lạc điệu trong một bản hợp xướng thủy chung và thắm thiết.

Trở lên trên là những cái lạc điệu trong tình yêu của thi sĩ. Vậy những lúc căm giận quân thù, thơ Tố Hữu như thế nào? Chúng ta cũng phải nói rằng ở một đôi bài, lòng căm thù giặc đó chưa đạt đúng mức. Rõ rệt nhất là trong bài “Bắn”. Người pháo binh ngồi ở "trên đầu chúng nó"; nòng đại bác chĩa xuống khoanh đồi đỏ trong đó bọn giặc lúc nhúc đang cười nói. Ðến giờ phút này mà chúng nó còn cười? Bao nhiêu hình ảnh đau thương, căm thù hiện ra rõ rệt trước mắt người chiến sĩ:

Bao nhiêu đồng chí của ta bay đã giết
Chặt đầu cắm cọc phơi khô
Chị em ta bay căng thịt lõa lồ
Con em ta bay quẳng chân vào lửa
Lúa ngô ta bay cướp về cho ngựa
Xóm làng ta bay đốt cháy tan hoang

Sự việc đầy đủ, nhưng chưa phải là lòng căm thù phẫn nộ. Lời thơ có vẻ kể lể, giống như một bản cáo trạng của quan tòa trước tội nhân. Người đọc vẫn chưa xúc động, chưa căm giận nghẹn ngào. Vấn đề không phải là kể nhiều mà phải là những sự kiện điển hình tự nó toát lên căm thù. Tôi đã đọc một bài thơ của Nông Quốc Chấn. Tác giả cũng kể lại những đau thương tang tóc trước ngày Cao Bắc Lạng giải phóng, nhưng ở đây thi sĩ chỉ đem ra một sự kiện, song xúc cảm người đọc rất nhiều. Trong một trận lùng, người cha bị giặc bắt và bị bắn ngã gục. Nhà thơ nghẹn ngào khóc lên:

- Cha ơi! Cha không biết nói nữa rồi
Chúng con còn thơ ai dạy ai nuôi
Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời
Mẹ ngồi khóc, con cúi đầu cũng khóc

Nhưng không phải là cái khóc suông. Người trong thơ vẫn đứng lên:

Con cởi áo liệm thân cho bố
Máu đầy tay, nước tràn đầy mặt
Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn
Băm xương thịt mày tan mới hả

Lòng căm thù bốc lên, cần phải hành động để trả thù cho người đã chết. Những vần thơ trên của Tố Hữu chưa đạt đến mức độ căm thù đó.

Trong thơ của thi sĩ, cái yêu nhiều hơn cái ghét. Ai cũng phải nhận thấy rằng khi nói đến tình yêu quê hương, yêu bộ đội, nhân dân, lãnh tụ, v.v... lời thơ Tố Hữu có vẻ mến thương tha thiết lạ lùng. Ðọc thơ Tố Hữu người ta thấy tâm hồn mình trở nên ấm cúng, thân mật. Ngay đến cả thiên nhiên cũng có một mối tình đùm bọc đối với con người:

Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Nhưng khi nói đến cái khía cạnh căm giận đau xót thì ở thơ Tố Hữu còn thiếu và đôi khi chưa đạt được. Nó chưa phải là cái căm giận nghẹn ngào, cái đanh đá quyết liệt của người nông dân đứng trước quân thù, và tôi lấy làm lạ rằng tại sao trong thơ Tố Hữu vắng hẳn cái căm thù chứa chất hàng ngàn đời của người nông dân đối với bọn địa chủ phong kiến tàn ác? Có phải là nhà thơ không nhìn thấy những căm thù, tang tóc, mất mát trong kháng chiến không? Không, hơn ai hết, thi sĩ biết rất rõ những mối thù ấy. Ngày từ giã Việt Bắc về thủ đô, nhà thơ không phải chỉ nhớ đến "hoa mơ trắng rừng", "bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" mà tác giả còn nhớ rất rõ cái "mối thù nặng vai". Trong bài “Gửi về quê mẹ” thi sĩ xót xa với mối thù đó:

Giặc về giặc chiếm đau xương máu
Ðau cả lòng sông đau cỏ cây…

Thấy rõ những mối thù nhưng vẫn chưa nói lên đầy đủ và đúng mức những mối thù ấy, đó là cái tình trạng đôi khi "tình cảm đã không theo kịp ý thức tiến bộ" của con người thi sĩ.

Thơ của Tố Hữu đã nói lên được lòng yêu thương tha thiết đối với quê hương đất nước, đồng bào, lãnh tụ, v.v... của chúng ta. Thơ của Tố Hữu là một niềm tin tưởng lạc quan cách mạng. Cái "ta" trong thơ càng ngày càng lớn mạnh, cái "địch" càng ngày càng suy yếu và "ta" hơn hẳn "địch". Con người trong thơ tin tưởng vào bản thân mình và thấy rõ tương lai tươi sáng của dân tộc và nhân loại. Ðó là chủ nghĩa nhân văn mới trong thơ. Cũng chính vì có một nội dung phong phú như thế nên thơ của Tố Hữu đã nhóm trong lòng mọi người những ngọn lửa cổ võ chúng ta đứng lên chiến đấu dưới ngọn cờ vinh quang của Hồ Chủ tịch. Ðứng về phương diện nghệ thuật mà nói "thì những thành công đó chính là những thành công của chủ nghĩa hiện thực cách mạng, của chủ nghĩa nhân đạo cách mạng trong thơ".

Ðó là những thành công căn bản mà các anh Xuân Trường, Xuân Diệu đã giới thiệu với bạn đọc trên mặt báo. Bên cạnh những thành công căn bản đó chúng ta thấy rằng tình cảm trong thơ có lúc còn buồn, ngậm ngùi, xa vắng, cái căm giận đau xót còn nhẹ nhàng, chưa sâu sắc và đầy đủ. Ðó là một hiện tượng "chưa ăn khớp" hoàn toàn giữa tình cảm và ý thức của thi sĩ.

San bằng được cái "chưa ăn khớp" hoàn toàn giữa tình cảm và ý thức ở trên là nhiệm vụ chủ yếu của quần chúng phải bồi dưỡng cho nhà thơ.

Tổ quốc, số 9 (20.4.1955)


22. Nguyễn Văn Phú

Tranh luận về tập thơ Việt Bắc: Vài điểm non yếu trong nghệ thuật tập thơ Việt Bắc

L.T.S. - Về cuộc tranh luận chung quanh tập thơ Việt Bắc chúng tôi đã nhận được trên hai mươi bài tham gia ý kiến. Ở nhiều điểm, các bài trùng nhau mà khuôn khổ tờ báo không cho phép chúng tôi sử dụng vào vấn đề này quá ba trang mỗi kỳ.

Bởi vậy, chúng tôi chia các bài gửi đến ra làm ba loại:

  1. Sẽ đăng toàn bài (có tước bớt ít nhiều câu thừa);
  2. Sẽ trích đăng một, hai đoạn ngắn có ý mới và cần thiết đối với trọng tâm tranh luận;
  3. Sẽ chuyển đăng ở các báo khác.

Chắc các bạn cũng thông cảm mà vui lòng ưng thuận.

Ngoài ra bắt đầu từ số sau chúng tôi sẽ tường thuật tổng hợp các cuộc hội nghị phê bình tập thơ Việt Bắc do Hội Văn nghệ tổ chức tại trụ sở Hà Nội. [2]


*


Bàn về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, Hoàng Yến đã đánh giá khả năng hiện thực về phương diện nội dung tình cảm. Hoàng Cầm cũng đồng tình với Hoàng Yến về mặt đó và cho là thơ Tố Hữu thiếu ít chất sống thực tế.

Tôi cũng đồng ý với Hoàng Yến và Hoàng Cầm, nhưng tôi không phê bình thơ Tố Hữu về nội dung chính trị. Nội dung chính trị của tập thơ Việt Bắc theo ý tôi nói lên đầy đủ mọi điều cần nói, không chê trách vào đâu được. Tôi chỉ đứng vào phía nghệ thuật để tìm hiểu xem nghệ thuật thơ Tố Hữu đã thành công hay chưa? Và đã trả lời nổi nội dung hiện thực xã hội chủ nghĩa chưa?

Tiêu chuẩn nghệ thuật không phải là chính yếu, nhưng là một tiêu chuẩn quan trọng. Tôi cho rằng nghệ thuật thơ Tố Hữu chưa được phong phú cho lắm nên có ảnh hưởng đến nội dung chính trị, muốn sâu sắc mà không đạt được.

Theo Mác-xim Goóc-ki, "văn chương là nghệ thuật lấy chữ và hình ảnh tạo nên những điển hình, những nhân vật để phản chiếu cuộc đời, phản chiếu thực tế cùng với mọi cảnh vật, mọi tâm tình". Thơ lại là một thứ nghệ thuật sử dụng hình ảnh và tiếng nói cực kỳ công phu, vì nếu hình ảnh và tiếng nói không có sức truyền cảm kỳ diệu vào tâm tư của con người thì không có gì là chất thơ nữa.

Tâm trạng là những thực thể trừu tượng mà văn chương phải biểu hiện ra bằng những hình ảnh cụ thể. Hình ảnh nếu chỉ được vẽ lên dưới trạng thái tự nhiên hoặc không điển hình thì nó chỉ gợi lên cảm giác mà thôi, do đó người ta muốn xúc cảm thế nào thì xúc cảm.

Với quan niệm như trên, tôi phân tích nghệ thuật thơ Tố Hữu trong tập Việt Bắc.

Bài thơ “Cá nước” có đoạn như sau:

Một thoáng lặng nhìn nhau
Mắt đã tìm hỏi chuyện
Ðôi bộ quần áo nâu
Ðã âm thầm thương mến

Hình ảnh được nêu lên là hình ảnh hai người mặc quần áo nâu giản dị, mới gặp nhau, đứng lặng nhìn nhau, mắt thương mến, âm thầm, kín đáo. Trước hết đôi bộ quần áo nâu không phải là nét điển hình về hình ảnh của anh bộ đội và anh cán bộ. Nếu không có đoạn kể rõ ở trên:

Anh là Vệ quốc quân,
Tôi là người cán bộ

thì đố ai hiểu hai bộ quần áo nâu ấy chỉ rõ ai. Dù nó có gợi lên cho ta thấy cái bề ngoài giản dị chăng nữa, ta cũng không rõ nguyên nhân vì sao mà lại "âm thầm thương mến" nhau.

Nhưng nét vẽ lên bằng tiếng: "lặng nhìn", "mắt hỏi", "âm thầm", cho ta cảm giác hai người quen nhau, thầm nhận nhau rồi thương nhau. Có thế thôi, rồi một mối buồn man mác bao trùm lên lòng người, gợi lên bởi những tiếng "lặng", "âm thầm". Hình ảnh và lời thơ chỉ gợi lên được cái cảm giác bên ngoài, tự nó không nói lên được cái mặn nồng giữa hai người, cái rung động của lòng người đọc. Người đọc có cảm thông gì với anh không? Có yêu hai anh không? Tùy ý! Sức sống không toát lên được. Hoàng Cầm cảm thấy bài thơ êm êm rồi thoáng tan đi, chính vì vậy.

Cũng bài ấy, hình ảnh ở một đoạn khác như sau:

Giọt giọt mồ hơi rơi
Trên má anh vàng nghệ.

Hình ảnh mồ hôi rơi giỏ giọt, má anh bộ đội vàng như nghệ, gợi lên cho ta cái cảm giác anh đội [3] mệt, khó nhọc, ốm yếu. Còn người đọc có cảm thông gì với anh bộ đội thì tác giả nói lên hộ bằng lời, sau hình ảnh trên:

Anh Vệ quốc quân ơi!
Sao mà yêu anh thế!

Hình ảnh gợi cảm giác bề ngoài, bất lực, không nói lên được sức sống tình cảm bên trong lòng người Vệ quốc, người cán bộ, người đọc, người nghe.

Ăng-ghen có viết: "Khuynh hướng phải do tình thế và hành động mà bật ra, không nên nói trắng ra một cách bộc lộ".

Ở đây hình ảnh không tự nói lên được mà toàn là phải dựa vào lời của tác giả:

Anh người đâu, tôi đâu
Gần nhau là thân thiết
...........
Ðã âm thầm thương mến
............
Chắc có lúc lòng anh
Nhớ nhà, anh nhớ lắm.

Nếu thơ mà cứ phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần những lời "thân thiết", "thương mến", "yêu anh", "lòng anh nhớ nhà", "anh nhớ lắm" v.v... mà không để hình ảnh, hành động tự nó nói lên thì sức truyền cảm của thơ kém hẳn đi. Lời nói chỉ truyền cảm được khi nào chính bản thân lời nói có hình ảnh hoặc hoạt động.

Rồi câu kết luận của bài thơ:

Rồi lát nữa chia đôi,
Anh về xuôi, tôi ngược.
Lòng anh và lòng tôi
Mang nặng tình cá nước

vẽ ra cảnh chia ly, kẻ xuôi người ngược, gợi một nỗi buồn man mác. Hai câu sau, "lòng anh và lòng tôi mang nặng tình cá nước", không vớt lại được cái dư âm buồn để lại phút cuối cùng sau khi đọc xong bài thơ.

Trong một bài thơ khác, bài “Phá đường” cũng có những cách cấu tạo hình ảnh chỉ gợi cảm giác và dùng lời nói hộ tình cảm như vậy.

Ðoạn mở đầu:

Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế
Gió qua rừng Ðèo Khế, gió sang

Hình ảnh gió, rét, ở chiến khu Việt Bắc. Rét thế nào, có ai cảm thấy không? Tác giả phải vận dụng cảm giác bằng óc liên tưởng cho những ai đã từng sống ở Thái Nguyên, Yên Thế, Ðèo Khế. Rét thế nào cảm giác chưa rõ lắm thì cảm xúc chắc là không có.

Em là con gái Bắc Giang
Rét thì mặc rét, nước, làng em lo

Ðã không biết rét đến mực độ nào thì chữ "mặc" dùng ở đây cũng không có tác dụng lắm. Hãy lắng tai nghe người phụ nữ Bắc Giang kể lể:

Nhà em phơi lúa chưa khô,
Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong
Nhà em con bế, con bồng
Em cũng theo chồng đi phá đường quan.

Ta thấy có những hình ảnh gì? Lúa, ngô, sắn bề bộn khắp nơi. Con bế, con bồng ríu rít. Người đọc cảm thấy cái cảnh neo đơn, một thân một mình của người đàn bà nông dân. Nhưng cũng lại cảm thấy rằng nhà đủ ăn, không đau khổ, chỉ bận rộn thôi. Ngoài cái cảm giác ấy ra, còn cảm thông gì với người phụ nữ nữa không, cũng là tùy sự suy luận của người đọc. Nhà đủ ăn, nhưng bận rộn tíu tít, thế mà "em cũng theo chồng đi phá đường quan". Hình ảnh đi phục vụ chưa có hào hứng vì hai chữ “theo chồng” và chưa được quyết tâm bởi chữ "cũng" gượng gạo.

Với tám câu mở đầu kể lể: Nào rét, nào lo việc nước, nào bề bộn việc nhà, nào hy sinh, hình ảnh chỉ tả bên ngoài không tự nó gợi lên được cho người đọc cái tình cảm sâu sắc của người đàn bà nông dân căm thù giặc, quyết tâm khắc phục khó khăn, quyết tâm hy sinh. Chính bản thân người đọc, người nghe, cũng không có xúc cảm gì thấm thía trước hình ảnh ấy.

Hì hà hì hục
Lục cục lào cào
Anh cuốc em cuốc
Ðá lở đất nhào
Nào anh bên trai
Nào em bên nữ
Ta thi nhau thử
Ai nào hơn ai!

Tác giả sử dụng những âm thanh bắt chước tự nhiên diễn đạt cảnh lao động khó nhọc, có tiếng thở, có tiếng cuốc, có tiếng đất rơi, đá lở. Diễn tả cái cảnh lao động khó nhọc bằng những âm thanh bắt chước đúng sự thực như vậy là một kỹ thuật của chủ nghĩa tự nhiên, bởi vì chính âm thanh không gợi cảm xúc gì cả.

Mác-xim Goóc-ki nói: "Chủ nghĩa tự nhiên ghi chép một cách máy móc, nó giữ nguyên những sự việc. Chủ nghĩa tự nhiên là nghề chụp ảnh, thí dụ người thợ chụp ảnh có thể chụp bộ mặt của một người với nụ cười ta cho là buồn chẳng hạn, đến khi hắn ta muốn có một bộ mặt ấy với nụ cười chế nhạo hoặc vui tươi, thì hắn phải chụp một cách khác. Tất cả đều là sự thực ít hay nhiều, nhưng là sự thực một giây phút của con người sống buồn rầu hay giận dữ, vui tươi. Còn nói đến trình bày sự thực của con người trong sự sống phức tạp, thì cả người thợ ảnh lẫn nhà văn theo chủ nghĩa tự nhiên đều không thể làm được". [4]

Tám câu thơ sử dụng kỹ thuật âm thanh và nhịp điệu rất khéo léo bắt chước tự nhiên chỉ là chụp được cái cảnh đông người đang cuốc, đào, khó nhọc, vui tươi, hăng hái. Trước cảnh ấy, ai muốn cảm xúc thế nào cứ cảm xúc theo chủ quan của mình.

Tôi nghĩ rằng hình ảnh phá đường ghi theo lối chụp ảnh như vậy có thể là hình ảnh phá đường, đắp đường ở bất cứ một thời gian nào, một giai đoạn lịch sử nào, nếu nó không được giải thích bằng mấy câu nói ở cuối cùng bài thơ:

Thằng Tây mà cứ vẩn vơ
Có hố này chờ chôn sống mày đây
Ớ anh ớ chị nhanh tay
Nhanh tay ta cuốc chôn thây quân thù

Tình cảm thực của người nông dân phá đường giết giặc trong giai đoạn kháng chiến phòng ngự chưa được hình ảnh tự nó làm nổi bật hẳn lên. Nguyên nhân chính của sự thất bại trong bài này là thiếu chất sống cho nên phải dùng hình ảnh tự nhiên, không hồn.

Hai câu kết luận:

Ðêm nay gió rét trăng lu
Rộn nghe tiếng cuốc chiến khu phá đường

nêu lên hình ảnh đêm khuya, rừng núi, gió rét, trăng mờ cộng với âm điệu êm êm của văn lục bát gợi lên một nỗi buồn man mác. Một tiếng "rộn" không thể đủ đem lại cái vui tươi phấn khởi cho lòng người sau khi đọc.

Những cách cấu tạo hình ảnh gợi lên cảm giác bên ngoài và cách dùng lời nói hộ tình cảm rải rác rất nhiều trong tập thơ Việt Bắc, nhất là những bài nói về nông dân, bộ đội đang hoạt động.

Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo

Hình ảnh của anh bộ đội thật là đẹp: Anh đang hăm hở trèo lên dốc, không ngại nhọc mệt, nắng chiều, bóng dài, đỉnh cheo leo, vai vươn tới, gió reo...

Nhưng cái đẹp bên trong lòng anh lúc đang trèo hăng hái lên dốc như vậy lại không được diễn tả bằng một hình ảnh cụ thể nào. Những lời nói "dốc cheo leo", "không đè nổi", "vai vươn tới", "reo với gió" dù ý nghĩa súc tích, tế nhị đến đâu cũng không gợi lên được tình cảm bên trong lòng người bộ đội. Vật giới và tâm giới chưa hoà được vào nhau. Cái đẹp của cảnh vật tự nhiên chỉ mô tả được cái đẹp bóng dáng bề ngoài của con người mà thôi.

Anh đi tìm giặc, tôi tìm anh

Ðọc xong câu đó, tôi tự hỏi tác giả đi "tìm" anh bộ đội để ngắm, để yêu ư? "Tìm anh" và "tìm giặc", hai sự việc, hai tình cảm khác nhau một trời một vực mà lại chung nhau một tiếng "tìm" gọn lỏn, khô khan. "Tìm" giặc thì thực là yếu ớt. Sao không "giết" giặc, "lùng" giặc, "săn" giặc mà lại "tìm" giặc? Tiếng "tìm" không làm cho người nghe căm thù giặc và cái quyết tâm tiêu diệt giặc một chút nào.

Lại những ngày đi vắt với sương
Ngô bung xôi nhạt, nước lưng bương
Ðêm mưa rình giặc, tai thao thức
Mùa lại mùa qua, rét nhức xương

Bốn câu này gợi lên hình ảnh gian khổ, nào vắt, nào sương, nào ngô bung, nào nước bương, nào đêm rình giặc, rét nhức xương. Toàn thấy khổ là khổ, còn anh bộ đội nghĩ gì, cảm gì, không có. Người đọc cảm thông ra sao, cái đó cũng lại tùy.

Ðoạn cuối bài này có hình ảnh:

Anh nằm sưởi nắng mắt lơ mơ

Nhưng hình ảnh ấy làm cho người đọc không mến mà cũng không phục anh bộ đội. Vì mặc dầu trong thực tế lúc nghỉ ngơi anh có quyền lơ mơ, nhân dân vẫn không thích anh hiện lên trong văn nghệ với cái vẻ lơ mơ như vậy.

Ðọc “Em bé Triều Tiên”, người ta thấy nhiều hình ảnh rùng rợn quá:

Xác ai nằm ngổn ngang
Bãi tuyết lặng quanh làng
Phố đổ nhà hoang vắng
...............
Cái thân trắng lắc lư
Ðầu giây treo lủng lẳng
..............
Cái đầu lâu rũ tóc
Máu chảy dài thân cọc

Tuy ở những đoạn dưới có nêu lên những hình ảnh dân công, cứu thương, anh "chí nguyện quân", đồng hoa, bãi lúa, v.v... nhưng người ta vẫn không quên được cái cảm giác rùng rợn đó. Nhưng lại có người thấy cảm giác đó đưa đến tình cảm căm hờn giặc. Thành ra cái đó cũng lại tùy.

Ðến đây, chúng ta không thể không so sánh những chỗ thành với những chỗ bại của nghê thuật gợi cảm trong tập thơ Việt Bắc.

Trong tập thơ Việt Bắc, nếu hình ảnh và chữ nhiều khi không diễn tả được tình cảm khỏe của người nông dân, người bộ đội trong kháng chiến mà phải dựa vào lời nói thường, thì trái lại, hình ảnh và chữ đã thành công trong những đoạn diễn tả tình cảm yếu của bà mẹ già, của người vợ trẻ, của đồng bào ở hậu phương.

Cái hình ảnh "Mưa phùn ướt áo tứ thân" gian khổ quyện vào hình ảnh bầm chân lội bùn vừa cấy vừa run, gợi lên tình thương vô hạn. Hình ảnh áo chàm, cầm tay nhau, quyện vào những chữ bâng khuâng, bồn chồn, truyền một nỗi buồn ngậm ngùi vào lòng người.

Hình ảnh "trám bùi để rụng, măng mai để già" gợi lên tình cảm quyến luyến, nhớ nhung đến tái tê trước cảnh biệt ly hầu như tuyệt vọng. Hình ảnh trong câu "hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son" tự nó đã gợi lên cái buồn, cái thắm thiết, không cần một lời nào nói hộ.

Có thể trích ra rất nhiều hình ảnh và chữ thành công như thế, nhưng phần đông chỉ là gợi lên cái tình buồn, tình yêu thương thắm thiết mà thôi. Nếu nghệ thuật sử dụng hình ảnh chỉ đạt được về phương diện gợi lên tình buồn mênh mông, tình thương yêu nhớ nhung buồn buồn mà không đạt được về phương diện gợi lên lòng căm hờn, vui tươi, hăng hái bừng bừng sức sống mạnh mẽ đang tiến lên, thì nội dung hiện thực (cách mạng) hiển nhiên là ít và những rơi rớt lãng mạn tiểu tư sản cũng không ai chối cãi được. [5]

Một yếu tố trong vấn đề sáng tác là cấu tạo tứ thơ, dàn xếp ý niệm để xây dựng văn phẩm. Cấu tứ là một phương diện độc đáo của nghệ thuật. Một là nhà thơ có thể căn cứ theo lý luận mà phân tích, mô tả tình cảm. Hình ảnh và tứ thơ được dàn xếp theo trật tự lý luận minh bạch rõ ràng, nhưng rất dễ rơi vào chỗ công thức khô khan.

Hai là nhà thơ đứng hẳn trên cơ sở tình cảm mà xây dựng thi phẩm. Thực tế tự nhiên, cảnh vật phải đượm màu sắc của tâm tình, của lòng người. Lý trí ở đây phải nhường bước cho tình cảm, và áng thơ dễ trở nên lâm ly, lãng mạn tiểu tư sản.

Ba là nhà thơ không thả lỏng tâm tình chủ quan, cũng không đưa lý luận ra để bắt tình cảm phải gò ép phụ thuộc. Nhà thơ phối hợp lý tính và cảm tính. Chất sống chính là ở nơi hình ảnh và tứ thơ được cấu tạo trên cơ sở thống nhất giữa lý tính và cảm tính. [6]

Ðứng trên quan điểm thứ ba, tôi tìm hiểu cách cấu tạo tứ thơ của tập Việt Bắc xem đã đạt được như thế nào?

Tôi lấy thí dụ bài “Phá đường”. Theo ý tôi bài này đã xây dựng trên cơ sở lý tính như sau:
  1. Vấn đề phá đường đặt ra tất phải mâu thuẫn với vấn đề việc nhà bề bộn, đời sống nghèo khổ.
  2. Nhân vật vì vậy phải lấy điển hình ở người nông dân, mà phải là người phụ nữ thì việc nhà việc cửa mới tăng thêm phần bề bộn.
  3. Thời gian phải là mùa rét thì mới càng tăng thêm phần gian khổ.
  4. Khung cảnh phải ở rừng núi heo hút thì gian khổ càng cao hơn một bực nữa.

Vấn đề nhân vật, thời gian, khung cảnh như vậy thì tứ thơ phải làm nổi bật lên mọi hình ảnh hy sinh, quyết tâm phá đường, vui vẻ thi đua, hăng hái, phấn khởi, căm thù giặc.

Nhưng lúc cấu tạo tứ thơ, thì các hình ảnh và chữ không đạt được như trên đã nói. Tất cả tâm trạng của người phụ nữ nông dân chỉ được diễn tả hời hợt bên ngoài. Các tình cảm rời rạc, riêng rẽ từng đoạn không quyện vào nhau. Cảm giác lại nhiều hơn tình cảm. Mãi đến gần cuối mới nói lên mấy lời căm thù, nếu không thì nội dung chính trị rất yếu. Hai câu kết luận gợi lên một dư âm buồn man mác, làm cho bài thơ không đạt được kết quả.

Lý luận một đằng nhưng lại cấu tạo tứ thơ bằng những hình ảnh bên ngoài nên các tình cảm tích cực, tình cảm thực đương lên trong lòng người nông dân không nổi bật lên được. Lý tính và cảm tính không thống nhất. Bài thơ trở nên khô khan, vì nặng về khái niệm, có tính cách chung chung, không nêu được khía cạnh cá tính trong điển hình, khía cạnh con người trong một nội dung chính trị đầy đủ. Căn bản là thiếu tính chất sống thực. [7]

Tôi lấy thêm thí dụ bài “Việt Bắc” mà Xuân Diệu cho là hay nhất trong tập thơ. Bài “Việt Bắc” được cấu tạo tứ thơ trên cơ sở tình cảm. Trong bài này tình nhớ thương Việt Bắc làm chủ đề. Tất cả mọi sự vật, mọi hành động đều phải được biểu hiện trong nỗi niềm thương nhớ ấy, Việt Bắc, lòng người Việt Bắc, lòng người ra đi, nhớ lúc hoạt động đánh giặc, nhớ Chính phủ, nhớ Trung ương, nhớ Bác, trở về xuôi với trăm nghìn cảnh tươi vui miền xuôi mà không quên Việt Bắc, hẹn hò ngày gặp người Việt Bắc ở thủ đô tưng bừng, dự tưởng Việt Bắc mậu dịch với các nơi, nhớ và biết ơn Bác đời đời. Nhớ nhưng không buồn, từ giã nhau vui vẻ.

Nói tóm lại tình cảm ấy được sắp xếp theo một trật tự lý luận từ tình người Việt Bắc đến tình người cán bộ ra đi, từ tình của Việt Bắc đến tình của trung châu, từ tình của cảnh vật đến tình của lòng người, từ tình của nhân dân đến tình của Trung ương, Chính phủ, của Bác, và cái mức độ của nó là từ quyến luyến nghĩa là có hơi buồn đi đến phấn khởi, vui tươi.

Tình xưa nghĩa cũ nhắc đi nhắc lại từ đầu đến cuối bằng những hình ảnh khêu gợi nhớ thương và hứa hẹn thủy chung, rất thành công. Trái lại tình cảm vui tươi, phấn khởi, qua nỗi nhớ thương và lời hứa hẹn ấy không làm nổi bật lên được: một không khí chia ly bao trùm cả bài thơ và cái ngậm ngùi tràn ngập lòng người đọc.

Hai câu cuối:

Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng thủ đô.

vẫn còn thấy bịn rịn, "vui là vui gượng kẻo mà" đấy thôi.

Lý tính ở đây không thống nhất với cảm tính và đã hoàn toàn nhường bước cho cảm tính. Những đoạn nói về Chính phủ và Trung ương Ðảng Lao động, nói về mậu dịch tuy lý luận dài dòng nhưng nôm na, khô khan, gò ép nên bất lực không cứu vãn nổi. Nếu đứng về phương diện nghệ thuật của toàn bộ bài thơ này mà xét chứ không "rung đùi" về một số câu điêu luyện hay từng đoạn thắm thiết, tinh vi thì phải nói là, về căn bản, Tố Hữu đã thất bại. [8] Còn về âm thanh và nhịp điệu, tôi nghĩ rằng thơ hiện nay tìm nguồn tài liệu trong thơ ca bình dân xưa, nhưng không phải là giữ nguyên âm thanh và nhịp điệu như vậy. Âm thanh và nhịp điệu ấy phải được cấu tạo theo với sức sống mới đương lên cuồn cuộn của thời đại chúng ta ngày nay.

Ai cũng biết lập trường vững chưa đủ, còn cần phải có nghệ thuật. Phần nghệ thuật tuy không phải là tiêu chuẩn chính yếu nhưng nó tạo ra sức gợi cảm và do đó quyết định tác dụng của nội dung chính trị trong thơ.

Trong tập thơ Việt Bắc, nội dung chính trị có nhiều ưu điểm, nhưng nội dung ấy chưa thật thấm vào xương máu, thớ thịt, đường gân của người đọc, người nghe. Chính là vì sức sống mạnh mẽ, dạt dào của thời đại chúng ta ngày nay chưa thể hiện đầy đủ bằng hình ảnh, tứ thơ âm thanh và nhịp điệu của tập thơ, nghĩa là chưa nhập vào tâm hồn Tố Hữu. Giá trị hiện thực của tập thơ vì vậy bị hạn chế rất nhiều. [9]

Vấn đề này liên quan chặt chẽ với vấn đề giai cấp tính (tiểu tư sản) trong thơ Tố Hữu mà kỳ trước, ở đây, Lê Ðạt đã phân tích rất rõ.

6-4-55
Văn nghệ, số 69 (21.4.1955)


23. Hoài Việt

Tranh luận về tập thơ Việt Bắc: Không đồng ý với Hoàng Yến và Hoàng Cầm

Theo ý tôi, bài nhận xét của Hoàng Cầm có nhiều điểm tương tự như bài của Hoàng Yến nên ở đây chỗ nào có thể nói chung được thì chúng tôi xin miễn tách riêng, còn chỗ nào cần để riêng thì chúng tôi xin ghi là của từng cá nhân một. Khi nhận xét về các bài thơ trong tập Việt Bắc hai bạn trên đã để cho độc giả chúng tôi thấy rõ thái độ xoi bói, ít xây dựng. Thái độ xoi bói, ít xây dựng đã dẫn các bạn Cầm và Yến đến chỗ bắt buộc Tố Hữu phải bóp méo sự thực khách quan và đó là một điều tôi thấy chúng ta cần tránh nhất. Lấy thí dụ khi phê bình bài “Bà bủ”, Hoàng Cầm trích bốn câu:

Nó đi đánh giặc đêm nay
Bước run, bước ngã, bước lầy bước trơn
Nhà còn ổ chuối lửa rơm,
Nó đi đánh giặc đêm hôm sưởi gì?

Và cho rằng như thế thì anh bộ đội trong ý nghĩ của bà "bé bỏng và đáng thương" quá. Tôi không thấy như Hoàng Cầm mà ngược lại tôi thấy Tố Hữu đã ghi lại rất đúng tình cảm của người mẹ có con đi đánh giặc cứu nước. Người mẹ không buồn rầu đau khổ mà người mẹ chỉ yêu thương. Tình thương đó không thể không có được. Mà cũng không thể vì thế mà bắt bà mẹ phải coi đứa con của mình to lớn, khôn ngoan, ghê gớm được. Ðứa con là đứa con, đứa con là một phần linh hồn của người mẹ. Ðứa con đi đánh giặc giữ nước làm nhiệm vụ đối với Tổ quốc, người mẹ không gàn quải nhưng không bao giờ quên con. Tình thương đó phải thấm thía sâu sắc và là tình thương đứng đắn. Nhin thấy những vật quen thuộc quanh mình, những miếng ngon, người mẹ không thể không nhớ đến việc để dành phần con. Ðó là tính chất "con người" trong thơ Tố Hữu.

Tính chất "con người" đó còn hiện rõ trong hầu hết các bài thơ Tố Hữu, hoặc đậm hoặc nhạt. Hãy đọc lại những bài “Em bé Triều Tiên”, “Ðời đời nhớ Ông”, “Việt Bắc” để chúng ta cùng nhận định cho kỹ. Trong hai bài nhận xét của Hoàng Yến và Hoàng Cầm tôi thấy các bạn không chú trọng đến điểm đó. Ðã không chú trọng, các bạn lại còn bắt Tố Hữu phải "làm như thế này như thế kia" nghĩa là làm theo ý muốn của các bạn đó. Vì vậy tư tưởng cầu toàn đã hiện rõ trong khi phẩm bình từng bài một, hay từng đoạn một. Lấy thí dụ: khi nói về bài thơ ca ngợi lãnh tụ, Hoàng Cầm cho rằng Tố Hữu đã làm cho lãnh tụ chúng ta "xa xôi và cách biệt, như một đạo sĩ đi nhàn du trong rừng". Hoàng Cầm muốn Tố Hữu phải tả cho kỳ đủ "những giờ Người ra tiền tuyến đến bên cạnh dân công, bộ đội; Người ở nông thôn bàn bạc chuyện trò với các cụ phụ lão nông dân". Hoàng Cầm cho rằng "lãnh tụ của ta không những chỉ có thế" và bắt Tố Hữu phải nói lên cho đầy đủ tình cảm của toàn dân đối với lãnh tụ. Thật là máy móc, buồn cười. Tại sao Tố Hữu lại cứ phải như Hoàng Cầm nghĩ mới được.

...Không phải chỉ riêng trong các bài ca ngợi lãnh tụ, trong bài “Phá đường”, “Giữa thành phố trụi”, “Cá nước”..., chúng ta thấy cả Hoàng Cầm, Hoàng Yến đều bắt Tố Hữu phải ghi phải nói cho thật đầy đủ. Người bộ đội, theo ý Hoàng Cầm thì vĩ đại hơn nhiều mà trong thơ của Tố Hữu nó chỉ là "hình ảnh đẹp một cách mỏng manh, mờ nhạt như dáng dấp của một người lẫn trong sương, trong một bức tranh chấm phá". Ở đây thì tôi đồng ý một điểm, đó là Tố Hữu chưa nói được anh bộ đội của chúng ta trưởng thành vĩ đại như thế nào và cũng chưa chỉ cho ta thấy rõ mối tình giai cấp ruột thịt giữa các đồng chí đội viên. Nhưng Tố Hữu đã đứng về phía bản thân để nói lên cảm tình thắm thiết của một người cán bộ đối với một người Vệ quốc, mối cảm tình đó là một thứ tình giai cấp đẹp đẽ, thấm thía.

Ngoài tư tưởng cầu toàn nói trên trong hai bài phê bình của các bạn Cầm và Yến, nhất là trong bài của Hoàng Cầm, tôi còn thấy có nhiều chữ dùng quá đáng. Hoàng Cầm cho rằng hơi thở trong tập Việt Bắc là "một hơi thở cũ kỹ, lạc hậu, những hình ảnh trong bài “Chiến sĩ Ðiện Biên” là những hình ảnh cứng nhắc, một chiều, kém sinh động, có vẻ đao to búa lớn, giống như một vại nước to, nước đầy tràn pha lẫn một mầu sữa"... Theo ý tôi, Tố Hữu là một nhà thơ hai mươi năm làm cách mạng, cái đó đã cho anh nhìn thấy kẻ thù một cách rõ rệt và đun sôi lòng căm thù trong anh. Nói rằng anh hời hợt, không gây được căm thù thì không đúng. Lại nói rằng cũ kỹ, lạc hậu thì chính tôi cũng rất thắc mắc. Vì tôi chưa thấy có một bài thơ nào - ngay cả thơ của Hoàng Cầm nữa - mới mẻ, tiến bộ hơn mà không có một cái giọng na ná như thơ Tố Hữu. Cái nhìn của Tố Hữu trong các bài thơ đều được lọc qua một nhãn quan đặc biệt. Mà cái đặc biệt nhất là thơ anh mang nặng tính chất dân tộc cách mạng chứa đựng một nhân văn chủ nghĩa cách mạng. Thơ Tố Hữu đã dạy cho chúng ta một bài học yêu nước thấm thía. Tôi xin kể ra đây một câu chuyện nhỏ. Tôi có một người bạn vừa ở Pháp về. Mười mấy năm du học ngoại quốc đã làm cho anh xa cách nhân dân, xa cách Tổ quốc; cũng vì thế anh chưa hề được đọc một tác phẩm nào viết trong cách mạng và kháng chiến. Thái độ của anh đối với chúng ta vẫn còn hoài nghi rất nặng. Nhưng anh muốn ở lại đây để nhìn tận mắt xem những điều anh đã được nghe có đúng với sự thực không? Rồi anh tìm đọc những tác phẩm của chúng ta. Cuối cùng anh ở lại, mặc dầu gia đình nhiều lần thúc giục anh ra đi. Hỏi vì sao anh ở lại? Anh trả lời chung cho tất cả các bạn hữu: - Vì tôi đã được đọc thơ Tố Hữu, vì Tố Hữu đã dạy cho tôi biết yêu đất nước của chúng ta. Tôi không thể quên được những câu sau này trong thơ Tố Hữu:

... Mây nhở nhởn bay
Hôm nay ngày đẹp lắm
Mây của ta, trời thắm của ta
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa!
... Ai về nói với quê hương tha thiết
Sông Hương, bến Hát, cửa Tùng
Ai vô đó với đồng bào đồng chí
Nói với nửa Việt Nam yêu quý
Rằng: Nước ta là của chúng ta
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa!

Thật là vinh dự cho Tố Hữu, thật là vinh dự cho những kẻ cầm bút chúng ta: Vinh dự vì đã có một Tố Hữu; tôi đọc ký sự Ngụy nguy, tôi thấy chỉ trong chế độ của chúng ta mới có những văn nghệ sĩ ưu tú như thế, chỉ có những người cộng sản mới có một tình yêu Tổ quốc sâu xa đến như thế, chân thành đến mực truyền cảm rung động kỳ diệu như thế!

Câu chuyện tôi kể trên đây nó cũng là ý nghĩ chung của nhiều người. Riêng tôi, tôi chỉ muốn nhấn mạnh ở một điểm: Nếu thơ Tố Hữu không có giá trị thì nó không được quảng đại quần chúng yêu chuộng say sưa như hiện nay. [10]

Và tôi còn muốn nói thêm: cái hay bù cái dở, thơ Tố Hữu nhất định còn được để lại được giữ lại rất lâu, không phải chỉ trong một thời gian là mất hết. Và nói như thế nghĩa là mặc nhiên công nhận thơ Tố Hữu có giá trị lớn.

Thật vậy, trong cách mạng và kháng chiến, chúng ta đã có rất nhiều nhà thơ. Những nhà thơ ấy so với Tố Hữu về số lượng sáng tác thì không kém hay có khi còn hơn nữa, nhưng về chất lượng thì không hơn được Tố Hữu. Tôi là một người yêu thơ thích làm thơ. Tôi đã tìm đọc rất nhiều thơ của các thi sĩ của chúng ta nhưng tôi chưa thấy ai giầu tâm hồn như Tố Hữu, chưa thấy ai điển hình được cho dân tộc chúng ta như Tố Hữu. Nếu không giầu tâm hồn thi sĩ thì không thể nhìn được đất nước nhìn cuộc kháng chiến thần thánh của chúng ta qua một nhỡn quan có nhiều góc cạnh đến như thế. Này là Việt Bắc thân yêu với những làng những bản, "những đồi cọ vườn chè".

Những hình ảnh tất nhiên là chưa nói đủ lên được tất cả cái vĩ đại của dân tộc chúng ta nhưng đã ghi được những nét lớn nhất của Cách mạng và Kháng chiến. Thơ Tố Hữu cho ta thấy những anh hùng mới của dân tộc, những anh hùng tập thể anh dũng và vinh quang vô cùng. Những anh hùng đó không riêng ở một cương vị nào mới xuất hiện mà có mặt ở trong tất cả mọi ngành, mọi tổ chức, mọi từng lớp xã hội. Chúng ta vinh dự vì được đứng trong một dân tộc có những anh hùng như thế. Ðó là một điểm thành công không chối cãi được của Tố Hữu.

Tuy nhiên tôi cũng có một vài nhận xét nhỏ đối với thơ Tố Hữu. Tôi muốn nói đến những khuyết điểm của thơ anh. Tôi thấy trong thơ Tố Hữu hình ảnh của các giai cấp động lực của cách mạng rất ít được nhắc đến. Tôi muốn nhìn thấy một anh công nhân trong xưởng thợ, một người nông dân ngoài đồng ruộng và ngay cả trong bộ đội nữa, nhưng tôi chưa được thỏa mãn. Trong bài “Lại về”, “Lên Tây Bắc”, thái độ của tác giả bàng quan, thụ động, thiếu tính cách thúc đẩy do đó không gây được sự đồng tình của người đọc. Nhiều đoạn thơ dài, thừa hơi như trong bài “Việt Bắc” tình cảm trải trải không cô đọng nên tác dụng cũng bớt đi nhiều.

Nếu khắc phục được một vài khuyết điểm nhỏ ở trên thì thơ Tố Hữu nhất định không phải ở trong tình trạng "đáng buồn" như Hoàng Cầm và Hoàng Yến đã phê phán.

(Hà Nội)
Văn nghệ, số 69 (21.4.1955)



[1]Chỗ này tác giả trích thơ thiếu chính xác; thực ra lời trong bài thơ Tố Hữu là “măng mai”, không phải “măng non” (NST).
[2]Ðây là lời tòa soạn báo Văn nghệ.
[3]Có lẽ đúng ra là “anh bộ đội”; bản gốc in thiếu từ “bộ” (?)
[4]Thư gửi Grosman ngày 7-10-32 (nguyên chú).
[5]Ðoạn này bản gốc in chữ nét đậm (NST).
[6]Câu này bản gốc in chữ nét đậm (NST).
[7]Ðoạn này bản gốc in chữ nét đậm (NST).
[8]Ở bản gốc đoạn này in chữ nét đậm (NST).
[9]Ở bản gốc đoạn này in chữ nét đậm (NST).
[10]Ở bản gốc câu này in nét đậm (NST).