Cuộc tranh luận về thơ Tố Hữu được đặt ra dưới nhiều câu hỏi, nhưng tựu trung vẫn phải giải quyết vấn đề căn bản: tập thơ Việt Bắc đã đi đúng con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa chưa.
Thời đại chúng ta dập dồn biến chuyển. Cuộc đấu tranh vũ trang chống xâm lược và cuộc đấu tranh chính trị hiện nay, cũng như cuộc đấu tranh tư tưởng của chúng ta vô cùng gian khổ, đòi hỏi những người công tác văn nghệ, phải phản ảnh cho được thực tế khách quan, một thực tế càng ngày càng tiến triển trên những bước đường thắng lợi. Diễn tả được cuộc sống đang lên ấy, chỉ có phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa mới làm được. Và muốn đi đúng đường lối hiện thực, người sáng tác phải nắm vững thế giới quan Mác - Lênin, một thế giới quan cách mạng đòi hỏi sự nhận xét tinh vi, sâu sắc đối với thực tế, thấm nhuần thực chất của các sự kiện lịch sử.
Trong tập thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã sử dụng thế giới quan cách mạng đó. Chúng ta không nhìn tác phẩm qua con người của Tố Hữu, cũng không nhìn qua tư chất chủ quan của chúng ta. Vấn đề cốt yếu để xác định giá trị nội dung của tác phẩm là phải đối chiếu với sự việc cụ thể trong quá trình của nó. Tố Hữu đã thấy rõ những biến cố lịch sử, nhận thức đầy đủ quy luật phát triển của dân tộc, của con người Việt Nam chiến đấu và trưởng thành, cho nên thơ Tố Hữu đã ghi lại được những nét lớn của con người đang lớn mạnh ấy. Tập thơ Việt Bắc đã
biểu hiện được hầu hết những tình cảm lớn của thời đại. Ðầu tiên là lòng yêu
nước và chí căm thù. Mở tập thơ, bài đầu tiên “Cá nước” đã cho thấy ngay được
lòng thiết tha đối với đất nước của người cán bộ và người Vệ quốc. Hai người
chưa hề quen biết nhưng "chỉ" một thoáng lặng nhìn nhau mắt đã tìm hỏi chuyện,
dù chỉ gặp nhau chốc lát trên lưng đèo, họ đã mến thương rồi vì chính họ đã
gặp nhau trên đường vinh quang chung, trong lý tưởng cao quý chung: chiến đấu
để giành lại đất nước.
Lòng yêu nước chí căm thù ấy đã thấm vào xương tủy của mọi người, Kinh cũng như Thượng. Trong bài “Bà mẹ Việt Bắc”, sự việc cụ thể đã tự nói lên sự áp bức dã man của quân thù và trong giờ phút nghiêm trọng của tổ quốc người lính cụ Hồ tạm gác hạnh phúc riêng của mình, đã trả lời cho mẹ già bảo cưới vợ:
Nó chỉ cười khì
Vợ con gì gấp!
Con còn phải đi
Giữ gìn độc lập!
Cả đến cỏ cây, cả những vật tưởng chừng vô tri giác cũng sùng sục hờn căm:
A! các anh chiến lũy
Sắt gỗ giăng thành
Cả các anh
Những di lăng, sấu, gạo
Không tiếc lá cành xanh
Vật ngang đường cản giặc
Lòng yêu nước chí căm thù ấy đã làm cho dân tộc chúng ta phấn khởi chiến đấu
trong hoàn cảnh vô cùng gian khổ. Cảnh "con bế con bồng" của người phụ
nữ phá đường, cảnh "bầm ra ruộng cấy bầm run" của người mẹ chiến sĩ, "màu da vàng nghệ" của
người bộ đội là một thực tế cách mạng, chẳng những nó không làm cho những bà
mẹ, những người lính thân yêu của chúng ta bé lại, mà càng vĩ đại hơn, vì chính
những con người gian khổ thiếu thốn ấy là những con người chiến thắng.
Tố Hữu đã thấy trước bước đường phát triển của sự vật, luyện cho chúng ta chắc niềm tin tưởng cùng với nhân vật trong thơ. Năm 1947 khi chúng ta đứng lên kháng chiến chưa được mấy tháng, biết rằng cuộc chiến tranh ái quốc này còn phải gian khổ lâu dài nữa, nhưng ngay từ đầu, Tố Hữu đi “giữa thành phố trụi” mà đã thấy:
Ngày mai về lại thủ đô
Ngày mai sống lại từng mô đất này
Ngày mai xanh lại từng cây
Ngày mai lại đẹp hơn rày hơn xưa
Tố Hữu đã nắm chắc quá trình phát triển thắng lợi của toàn bộ cuộc kháng chiến, lại thấy cả sự trưởng thành của từng con người. Ðó là một nhận thức duy vật biện chứng. Bài “Phá đường” viết năm 1948, trong thời kỳ lực lượng vật chất, tư tưởng của ta chưa được mạnh, cơ sở đoàn thể còn đương trong thời kỳ xây dựng, sự giáo dục của Ðảng chưa đi sâu. Trong hoàn cảnh ấy, người phụ nữ phá đường đã được diễn tả với một trình độ cao tương đối, báo hiệu cho sự xuất hiện cả một thế hệ con người sắp đến. Tố Hữu đã đi đúng mức xây dựng nhân vật điển hình, đã đi trước quần chúng một bước trong sự lãnh đạo quần chúng đi lên. Chúng ta không thể đòi hỏi mức giác ngộ của nhân vật cao hơn nữa. Trong hoàn cảnh ấy, đi xa hơn là rơi vào tiền phong chủ nghĩa.
Sở dĩ dân tộc chúng ta yêu nước căm thù như thế là do Tổ quốc chúng ta đẹp đẽ vĩ đại, đất nước giàu có mà chúng ta không được yên hưởng, quân thù xâm lược dựa vào bọn phong kiến tay sai đã làm cho nhân dân lao động chúng ta sống cảnh cơ cực khốn cùng. Cho nên lúc kháng chiến thành công, nước nhà giải phóng, Tố Hữu đã nói lên được nỗi vui mừng của dân tộc, đã chỉ chúng ta thấy đất nước tươi vui bát ngát trong bài “Ta đi tới”.
Tình yêu lãnh tụ là một tình cảm lớn và phổ biến. Trong lòng của mỗi một người
dân Việt Nam, ai lại không tôn thờ hình ảnh của Hồ Chủ tịch, người đã đem lại
cho chúng ta không khí để thở, cơm áo để ấm no và ngày mai tươi sáng. Tố Hữu
yêu lãnh tụ và đã thể hiện được tình yêu ấy của dân tộc. Trong văn thơ Việt
Nam, có lẽ chưa có bài nào nói lên được thấm thía tình yêu ấy bằng thơ Tố Hữu.
Có bạn cho rằng Tố Hữu đã thần thánh hóa lãnh tụ, làm cho quần chúng mất tự
tin và ỷ lại, do đó lãnh tụ kém tầm vĩ đại. Tôi đồng ý trên nguyên tắc lãnh
tụ không tách rời quần chúng, và sự vĩ đại của lãnh tụ do sự vĩ đại của quần
chúng tạo nên. Nhưng tôi cố gắng tìm ở bài thơ "Sáng tháng Năm" của Tố Hữu,
vẫn không thấy sự tách rời, trái lại lãnh tụ đã khăng khít với nhân dân, giản
dị như tất cả những người lao động khác. Bên cạnh những nét hùng tráng cao
cả của Hồ Chủ tịch, bài thơ “Sáng tháng Năm” đã chỉ cho ta thấy:
Bác ngồi Bác viết nhà sàn đơn sơ…
… Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị
Màu quê hương bền bỉ đậm đà
Thật là đơn giản và gần gũi.
Bên cạnh lãnh tụ, quần chúng không hề nhỏ bé lại, chưa hề mất tự tin. Trái lại, quần chúng đã lớn mạnh và quyết tâm hơn:
Ôi! Cái tên yêu Hồ Chí Minh!
Trong sáng lòng anh xung kích
Nửa đêm bôn tập diệt đồn
Vững tay người chiến sĩ nông thôn
Bắt sỏi đá phải thành sắn gạo [2]
Và sở dĩ Hồ Chủ tịch đã có một tác dụng lớn lao trong quần chúng như thế là do chúng ta được Tố Hữu cho thấy rõ: Lãnh tụ do quần chúng xây dựng nên và đã trở lại lãnh đạo, giáo dục quần chúng chiến đấu.
Tinh thần quốc tế của tập thơ Việt Bắc cũng chính là tinh thần quốc tế của nhân dân. Tố Hữu đã phát ngôn đúng lòng xót xa của nhân dân ta khi nghe Sta-lin mất. Năm 1953 buổi sáng khi nhận được tin đau xót này, các lớp chỉnh huấn, các đại hội chiến sĩ, các đơn vị bộ đội, trường học nông đoàn, v.v... đều như đứt thở. Trên mặt của đàn con chiến đấu gian khổ, đã phải thấy những nét đau thương vì những giòng nước mắt. Nhưng nhân dân ta đã kịp thời biến đau xót thành hành động. Tố Hữu đã viết:
Thương Ông mẹ nguyện trong lòng
Yêu làng yêu nước yêu chồng yêu con…
Cuộc chiến đấu gian khổ của nhân dân ta hiện nay không khác cuộc chiến đấu gian khổ của nhiều dân tộc khác. Tiếng nói căm hờn của chúng ta là tiếng nói căm hờn của những anh em chúng ta đang sống dưới nanh vuốt của đế quốc chủ nghĩa. Tố Hữu đã nói lên được sự cảm thông đậm đà ấy.
Tố Hữu đã nhất trí với tư tưởng tình cảm chung của dân tộc, đã nói được tiếng
lòng của dân tộc một cách thấm thía. Trong giai đoạn lịch sử này cũng như rất
lâu về sau dân tộc tính không tách rời giai cấp tính, vì quyền lợi của giai
cấp đã nhất trí với quyền lợi của toàn thể dân tộc. Ðó là quyền lợi sống còn
của tổ quốc trước sự uy hiếp của quân thù. Cho nên chúng tôi không thể đồng
ý với một bạn đọc trong cuộc tranh luận vừa rồi do Hội Văn nghệ Trung ương
tổ chức bảo rằng trong giai đoạn đấu tranh vừa qua "Các giai cấp phải tạm thời xóa bỏ thắc mắc quyền lợi của riêng mình để băng mình vào chiến đấu" vì
thực tế, băng mình vào chiến đấu là để bảo vệ quyền lợi của bản thân giai cấp
mình. Ở đây, các mâu thuẫn đã được thống nhất. Và sự thống nhất ấy phải được
hiểu là chí thành, cũng như chính sách mở rộng Mặt trận Dân tộc Thống nhất
của chúng ta đề ra hiện nay, cũng như mọi chính sách khác, đều xuất phát từ
lòng chân thành phục vụ quyền lợi của dân tộc trong ấy có quyền lợi của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Ðó là một thực tế khách quan mà thi sĩ
Tố Hữu đã nắm vững.
Những đề tài thi tứ của Tố Hữu, những sự việc nhân vật của thơ Tố Hữu đều đi
lên, đó là những thực tế có cánh "đang bay đến một trình độ tư tưởng, tình cảm cao hơn. Ðó là lãng mạn cách mạng". Anh bạn nói trên đã cho rằng Tố Hữu sở dĩ có đôi phút buồn là do "anh đã đi vào con đường lãng mạn cách mạng, chứ căn bản thơ Tố Hữu là vui".
Tôi xin sẽ bàn đến trong một bài sau về những nhược điểm của thơ Tố Hữu trong
tập Việt Bắc. Nhưng cách mạng lãng mạn không phải là buồn, không phải
là đường lối sai lầm trong sáng tác. Trái lại, hiện thực mà không có lãng mạn
sẽ là hiện thực phê bình tự nhiên chủ nghĩa, vì "hiện thực và lãng mạn là hai yếu tố cơ cấu" không
xa rời nhau được (Fa-đê-ép).
Ðộc lập, s.96 (23.4.1955)
27. Nhân Hồng
Vấn đề phê bình văn nghệ ở Liên Xô
I. Phê bình và tự phê bình đảm bảo cho văn nghệ Liên Xô tiến bộ không ngừng:
Các nhà văn nghệ Liên Xô thấm nhuần lời dạy của các lãnh tụ, hiểu sâu sắc rằng phê bình và tự phê bình cần như nước để uống, không khí để thở, có tác dụng nuôi dưỡng, thúc đẩy sự trưởng thành và tiến bộ mãi mãi của văn nghệ cũng như đối với mọi ngành.
Sau khi cuộc chiến tranh ái quốc thắng lợi hoàn toàn, trong khi bắt tay vào hàn gắn những vết thương chiến tranh và kiến thiết hòa bình, Liên Xô đã mở một cuộc vận động lớn phê bình văn nghệ và khoa học. Gần đây, trước và trong Ðại hội lần thứ hai của các nhà văn Liên Xô, phong trào phê bình văn nghệ lại được nâng lên một trình độ cao hơn. Nó duyệt lại tất cả công trình 20 năm xây dựng văn nghệ Liên Xô sau Ðại hội lần thứ nhất. Trên thế giới, chưa có một nền văn nghệ nào có cuộc phê bình náo nhiệt, sâu sắc như thế. Không những các tác phẩm, mà cả vấn đề phê bình và các nhà phê bình cũng được đem ra mổ xẻ, phân tích. Nhà văn Ê-ren-bua tiếp thu những lời phê bình về những khuyết điểm trong cuốn Tuyết tan, tự nhận thiên truyện ngắn đó là một bước lùi trong sự nghiệp sáng tác của mình. Nhà văn Xi-mô-nốp đã phê bình kịch liệt cuốn Tuyết tan cũng được đại hội phê bình giọng bút chiến không đúng của ông.
Báo chí tư sản phản động nhân dịp đại hội này tìm cách vu khống văn nghệ Liên Xô. Một tờ báo Pháp đã bịa ra chuyện nhà văn Ê-ren-bua tại đại hội bị cấm hút thuốc bằng điếu, ngụ ý rằng nhà văn ở Liên Xô không có tự do sáng tác. Thật không có gì ngu xuẩn bằng.
Trong không khí phê bình gay gắt của đại hội, đã có một vài lời than phiền "văn nghệ suy đồi". Nhưng nhà văn Pha-đê-ép đã trả lời: "Thực tế là văn nghệ Liên Xô tiến triển, giành lấy nhiều lực lượng, bao trùm những địa hạt luôn luôn mới, và con số nhà văn có năng lực giải quyết các vấn đề nghệ thuật phức tạp không ngừng tăng lên".
Trình độ phê bình văn nghệ ở Liên Xô đã được nâng lên rất cao. Tuy không tránh được lệch lạc, nó vẫn luôn luôn vượt qua những lệch lạc ấy. Ðiều cần nhất là phải tin tưởng vào vũ khí phê bình và tự phê bình. Ðồng chí Ða-nốp [3] năm 1948, trong khi nhân danh Ban chấp hành trung ương Ðảng cộng sản Liên Xô, phê bình những lệch lạc của hai tờ báo Ngôi sao và Lê-nin-gờ-rát đã
nhắc lại lời huấn thị của đồng chí Sta-lin như sau: "Ðồng chí Sta-lin đã nhiều lần vạch rõ rằng điều kiện chủ yếu cho sự phát triển của chúng ta là mỗi người Xô viết phải nhận thấy sự cần thiết hàng ngày tính sổ công tác, không ngần ngại tự kiểm tra mình, phân tích công tác của mình, can đảm phê phán sai lầm và thiếu sót của mình, nghĩ cách làm cho công tác được kết quả tốt nhất và luôn luôn gắng sức tu dưỡng bản thân. Cái đó cần cho các nhà văn cũng như cho tất cả những người lao động khác. Kẻ nào sợ đưa công tác của mình ra phê phán là một kẻ nhút nhát đáng khinh, không đáng để nhân dân mến yêu".
II. Văn nghệ phải có đảng tính và phê bình văn nghệ phải có nguyên tắc tính đanh thép, sắc bén:
Kinh nghiệm của Ðảng cộng sản Liên Xô trong việc phê bình hai tờ báo ở Lê-nin-gơ-rát
năm 1948 rất đáng cho chúng ta chú ý. Hai tờ báo này đã đăng những tác phẩm
văn nghệ dâm ô, thần bí và nói xấu xã hội Xô-viết của hai nhà văn đồi bại theo
phái "nghệ thuật vị nghệ thuật". Các đồng chí phụ trách hai tờ báo đó đã phạm
sai lầm đặt tình bạn lên trên lợi ích của nhân dân và nhà nước Xô-viết. Ðồng
chí Ða-nốp đã vạch trần sai lầm vô nguyên tắc của các đồng chí đó, đồng thời
phê bình cả Thành ủy đảng bộ Lê-nin-gơ-rát và sự lãnh đạo của Hội liên hiệp
các nhà văn Liên xô kém sáng suốt, thiếu tinh thần đấu tranh phê bình.
Ðồng thời đồng chí Ða-nốp đã vạch rõ quan điểm lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin
trong văn nghệ: "Chủ nghĩa Lê-nin xuất phát từ nguyên tắc định rằng văn nghệ chúng ta không thể phi chính trị, nó không thể biểu hiện một "nghệ thuật vị nghệ thuật" mà nó phải nhận một nhiệm vụ tiên phong chủ yếu trong đời sống xã hội. Do đó mà có nguyên tắc của chủ nghĩa Lê-nin là trong văn nghệ phải có tinh thần Ðảng, đó là điều quý giá nhất mà Lê-nin đã cống hiến cho khoa học văn chương".
Ðồng chí Ða-nốp nêu rõ cần kết hợp tự do chân chính của nhà văn với lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân và phản đối thứ tự do vô nguyên tắc, lợi dụng danh nghĩa Ðảng để tuyên truyền chống lại Ðảng, bênh vực những tư tưởng lạc hậu, phản động.
Văn nghệ phải có đảng tính nghĩa là phải phục vụ lợi ích của nhân dân lao động, phải là một bộ phận khăng khít của phong trào quần chúng. Ðó là lập trường, nguyên tắc bất di bất dịch, đó là điều mà các nhà văn nghệ cần phải được chú ý trước tiên.
Phê bình sai lầm của hai tờ báo văn nghệ nói trên, Ða -nốp phản đối luận điệu cho rằng trong chiến tranh, sách báo xuất bản ít, nhân dân thèm khát lắm rồi, vì vậy một khi hòa bình đã trở lại thì người đọc sẽ ngốn ngấu bất cứ một món văn nghệ nào, dù là của thiu thối. Ða-nốp vạch rõ rằng nhân dân đang cần những món ăn tinh thần lành mạnh giúp sức cho nhân dân khôi phục và kiến thiết Tổ quốc. Nhân dân phản đối văn nghệ lạc hậu, không hài lòng với một thứ văn nghệ không có tư tưởng tiền tiến của xã hội mới. Nhân dân đòi hỏi văn nghệ phải có tác dụng cải tạo xã hội, đóng vai trò tiên phong, nghĩa là đòi hỏi mặt trận tư tưởng phải đặt ngang hàng với mọi mặt trận đấu tranh khác.
Chỉ có đứng trên lập trường Ðảng mà phê bình không nhân nhượng những thứ văn nghệ đồi bại, phản động thì mới xây dựng được một nền văn nghệ chân chính của nhân dân lao động.
III. Thế nào là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa?
Văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa chính là văn nghệ có đảng tính. Ðây là một phương pháp sáng tác mà nội dung thì xã hội chủ nghĩa, hình thức thì dân tộc. Ðặc tính của nó là biểu hiện thực tế trong sự tiến triển cách mạng nghĩa là không kể nó biểu hiện thời đại nào, nhà văn nghệ cũng phải thấy cái hướng phát triển chính và đề nó ra cho đúng với quy luật lịch sử. Hướng phát triển đó ở Liên Xô là lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác phải chú ý rằng xã hội Xô viết hiện nay đang kiến thiết chủ nghĩa cộng sản, khác với xã hội Xô viết hơn 30 năm trước. Con người Xô viết lớn lên thay đổi nhiều lắm. Cho nên phương pháp đó không thay đổi trong nguyên tắc căn bản nhưng vẫn không ngừng phát triển theo kịp với thực tế muôn hình muôn vẻ. Chính vì vậy mà hướng chung là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa mà giữa các nhà văn Xô viết thì thật là trăm hoa đua nở, mỗi người mỗi vẻ, không ai giống ai. Báo Sự thật Liên
Xô đã giải thích rõ ràng: "Quy luật của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là biểu hiện sự thật của đời sống trong toàn diện của nó, là phản ánh những mâu thuẫn thực tế trong cuộc sống, đấu tranh quyết liệt cho cái mới, cho cái đang nảy nở, chống cái già cỗi, chống cái đang chết". Một mặt phản ánh thực tế, một mặt phải kết hợp làm nhiệm vụ cải tạo tư tưởng và giáo dục những người lao động theo tinh thần xã hội chủ nghĩa. Cho nên chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa mỗi bước phát triển là một bước đấu tranh quyết liệt với những khuynh hướng sai lầm như chủ nghĩa phi chính trị, chủ nghĩa công thức, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa thế giới, v.v... Trong thời kỳ chuẩn bị đại hội các nhà văn Liên Xô lần thứ hai, nó lại phải đấu tranh với "lý luận" muốn
vẽ toàn màu hồng vào cuộc đời, lấp liếm những mâu thuẫn có thật trong thực
tế, chỉ nói đến mặt tích cực, giấu giếm mặt tiêu cực của đời sống.
Phê bình văn nghệ chính là phải nắm vững quy luật chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, đánh tan những khuynh hướng chống lại chủ nghĩa xã hội, làm nổi bật tư tưởng tính trong sáng, đảng tính đanh thép của văn nghệ nhân dân. Ðó là một kinh nghiệm quý báu của văn nghệ Xô viết.
IV. Phê bình nghiêm khắc những khuynh hướng sai lầm không có nghĩa là phủ nhận tất cả nền văn nghệ nhân dân:
Chống lại khuynh hướng nhìn đời toàn đẹp là rất đúng. Nhưng trong thời gian chuẩn bị Ðại hội lần thứ hai các nhà văn Liên Xô, một hiện tượng lệch lạc đáng chú ý lại nảy ra là có tờ báo văn nghệ Thế giới mới nêu
ra vấn đề "thành thật trong văn nghệ", vu khống toàn bộ văn nghệ Xô viết thiếu thành thật, rồi phủ nhận tác dụng giáo dục của văn nghệ, chế diễu những nhà văn Xô viết đang lấy con người Xô viết mà sáng tạo hình ảnh tích cực. Ðó là một khuynh hướng lệch lạc có tính chất phá hoại, trái với đảng tính, tỏ rõ thiếu tinh thần quý trọng sức lao động của nhà văn. Phủ nhận hoàn toàn như thế không có bổ ích gì cho nhà văn, cũng không giúp được gì cho người đọc. Tại đại hội, nhà viết tiểu thuyết Xô-bô-lép đã nói: "Trong một việc tế nhị, dễ rung động như công việc nhà văn, tình đồng chí là quan trọng bậc nhất. Sự giúp đỡ thân ái có thể làm nên những chuyện thần kỳ. Chẳng hạn có nhà văn bắt đầu chìm ngụp hay đuối sức trong khi sáng tác một cuốn sách hay, hoặc đang vì những điều kiện riêng của mình mà không hoàn thành được tác phẩm, thì sự giúp đỡ thân ái có thể cứu được tác phẩm đó. Trái lại, hờ hững vô tình đối với cảnh ngộ nhà văn thì có thể giết chết một tác phẩm hay mà nhà văn mới bắt đầu viết".
Nhìn lệch, chê bai hoàn toàn cũng như quá khen một cách trống rỗng đều tỏ ra là phê bình thiếu tinh thần trách nhiệm và thiếu tình đồng chí. Vả lại, lấy thành thật làm tiêu chuẩn đâu có phải là đúng. Nhà văn Ê-ren-bua đã nhận xét rằng một nhà văn có thể rất thành thật nhưng vẫn nhìn đời lệch lạc, sai sự thật.
Văn nghệ Xô viết chống lại khuynh hướng phá hoại, phủ nhận hoàn toàn, vì biết
làm đúng lời Goóc-ki đã chỉ bảo: "Phê bình tức là phải chỉ dẫn cách viết giản
dị, sáng sủa, có sức mạnh thuyết phục. Nếu nhà văn bị phê bình không tỏ ra
là một kẻ thù hiển nhiên hay trá hình của giai cấp vô sản, mà chỉ là viết kém,
viết sai làm lệch sự thật, không biết phân biệt cái quan trọng với cái không
quan trọng, thì phải chỉ bảo ôn tồn và nghiêm chỉnh cái nào không đúng, tại
sao mà hỏng, chỗ nào lệch lạc…
Làm tiêu mòn và hủy hoại phẩm chất con người, cái đó tuyệt nhiên không phải
là nhiệm vụ của phê bình, cái đó công khai biểu lộ tính chất tiểu tư sản, là
đối đãi với người như một kẻ thuộc hạng thấp kém hơn nhà phê bình, thế là tỏ
ra buồn nản, biếng nhác, không có năng lực đọc tác phẩm hoặc là giận mình bất
tài".
Xuất phát từ lập trường Ðảng, Gooc-ki rất quý mến văn học Xô viết và thẳng
thắn trả lời những nhà phê bình bi quan rằng "họ mù về học thức, kém cỏi trong việc tu dưỡng tư tưởng, cho nên luôn luôn không thể hiểu văn nghệ hiện thời của chúng ta là một hiện tượng lạ lùng, cần được thương yêu và trân trọng biết chừng nào".
Phủ nhận hoàn toàn một tác phẩm hoặc toàn bộ nền văn nghệ nhân dân là bỏ rơi lập trường Ðảng. Ðó cũng là một kinh nghiệm quý báu của văn học Liên Xô.
Rút kinh nghiệm mấy chục năm qua, Ðảng cộng sản Liên Xô hiện nay rất chú trọng
tăng cường việc chỉ đạo phê bình, nâng cao trình độ nhà phê bình theo kịp trình
độ nhà văn và đòi hỏi họ phải hiểu thấu cuộc đời như nhà văn hoặc hơn nhà văn,
phải có tinh thần chí công vô tư, phải yêu mến nghệ thuật, và giầu tình đồng
chí. Về phương pháp phê bình, Ðảng cộng sản Liên Xô nhắc nhở cho nhà phê bình
văn nghệ nắm vững lời Goóc-ki đã nghiêm khắc kết án lối phê bình giáo điều,
công thức "không xuất phát từ tính chất những con người từ những mối quan hệ giữa người với người, từ những sự thật trong cuộc sống cuồn cuộn mà mình đã trực tiếp xem xét".
V. Gắn liền phê bình văn nghệ với cuộc đấu tranh chung của toàn dân:
Một điểm sau hết cần chú ý và cần nhấn mạnh trong kinh nghiệm phê bình của Ðảng cộng sản Liên Xô là phê bình văn nghệ phải gắn liền với cuộc đấu tranh chung của nhân dân và phải có một ý nghĩa chính trị to lớn.
Trong khi vạch rõ khuyết điểm của hai tờ báo văn nghệ ở Lê-nin-gờ-rát, Ða-nốp
đã phê bình thành ủy Lê-nin-gờ-rát buông lỏng nguyên tắc Ðảng không đề cao
việc phê bình những hiện tượng xấu trong sáng tác văn nghệ. Thành ủy Lê-nin-gờ-rát
đã bị lôi cuốn vào việc khôi phục thành phố, phát triển công nghiệp mà quên
mất tầm quan trọng của việc giáo dục tư tưởng. Ða-nốp đã phân tích tình hình
lúc đó, vạch rõ thế giới đã chia ra làm hai phe mà Liên Xô phải làm gương cho
toàn thể nhân loại tiến bộ. Văn nghệ Xô-viết không thể chỉ ăn miếng trả miếng
với những điều vu khống bỉ ổi của bọn đế quốc đối với văn hóa Xô-viết, mà còn
phải dũng cảm tấn công văn hóa đế quốc đang thối nát, suy đồi. Nhà văn Xô viết
phải nâng cao tinh thần tự tôn dân tộc, và hiểu rõ nhiệm vụ quan trọng Ðảng
đã giao cho là đứng trên hàng đầu của mặt trận tư tưởng, là không được theo
đuôi thời cuộc mà phải đi trước thời cuộc, đi trước dẫn đường nhân dân tiến
lên. Ða-nốp phân tích rất rành mạch: "Trong điều kiện tiến triển hòa bình, các nhiệm vụ của mặt trận tư tưởng, thứ nhất là của văn nghệ, không tan biến đi đâu mà trái lại càng phát triển mạnh. Trung ương muốn rằng chúng ta được phong phú về văn hóa, vì thấy rằng làm cho có sự phong phú đó chính là một trong những nhiệm vụ chính của chủ nghĩa xã hội. Trung ương tin rằng đội ngũ văn nghệ Xô viết của thành Lê-nin-gờ-rát vốn rất lành mạnh về tư tưởng và chính trị sẽ sửa chữa mau chóng mọi sai lầm của nó để giữ vững cương vị mà nền văn nghệ Xô viết đã dành cho nó".
Ðặt vấn đề phê bình văn nghệ cho Ðảng bộ thành Lê-nin-gờ-rát trong nhiệm vụ chung của toàn Ðảng, toàn dân Liên Xô, Ða nốp đã chỉ rõ phê bình văn nghệ phải có tác dụng gấp rút nâng công tác văn nghệ lên một trình độ cao, phù hợp với lợi ích của Ðảng, của nhân dân, và của Nhà nước.
Hiện nay, việc phê bình văn nghệ của nước ta đang tiến hành trong hoàn cảnh đấu tranh hòa bình gay go và phức tạp. Chúng ta cần nghiên cứu cụ thể kinh nghiệm của Liên Xô để áp dụng vào hoàn cảnh thực tế Việt Nam. Chúng ta phải chú ý gắn liền phê bình văn nghệ vào cuộc đấu tranh chung, đặt cho nó một yêu cầu nhất định là làm cho các nhà văn nghệ cùng Ðảng ta, nhân dân ta thông suốt ý nghĩa chính trị của nó, và nhiệt tình ủng hộ nó.
Nhân dân, 27.4.1955; 28.4.1955
27. Thẩm Lăng
Việt Bắc và Tố Hữu
Trên báo Văn nghệ số 65, Hoàng Yến trong bài “Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không?” có nêu lên vài điểm dẫn chứng: Thơ Tố Hữu qua cuốn Việt Bắc không
hiện thực. Tôi cũng đồng ý với Hoàng Yến ở điểm đó, nhưng không có nghĩa là
tuyệt đối. Vì một nhà thơ cách mạng, - thơ mang tình cảm - tình cảm đó có lý
do gì không hiện thực? Thơ của Tố Hữu được quần chúng đọc và nhớ nhiều. Ngôi
sao Tố Hữu trên thi đàn hùng lắm! Vì âm hưởng của thơ Tố Hữu thuần túy, người
đọc thấy thấm thía và rộn lòng. Qua thơ Tố Hữu, tình cảm đất nước, nhạc đất
nước thấm vào lòng yêu nước của người đọc. Hình ảnh của đất nước ấm áp quá,
khêu gợi quá để cùng thi sĩ thốt lên "Ðẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!" Phần
căn bản thơ Tố Hữu nằm trong trong câu thơ đó.
Tố Hữu dựng rất nhiều hình ảnh trong thơ của mình. Dù màu sắc đậm đà hay sơ sài, những hình ảnh của Tố Hữu đều sáng sủa và in sâu!
Hình ảnh lãnh tụ Staline của thế giới tự do:
Ông Staline bên cạnh nhi đồng
Áo ông trắng giữa mây hồng
Mắt ông hiền hậu, miệng ông mỉm cười
………
Hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh trong bài “Sáng tháng Năm”:
Bác kêu con đến bên bàn
Bác ngồi Bác viết nhà sàn đơn sơ
Con bồ câu trắng ngây thơ
Nó đi tìm thóc nhởn nhơ quanh nhà!
Hình ảnh những nhà lãnh tụ đẹp hơn tranh vẽ. Lòng yêu mến Hồ Chí Minh trào lên khi tôi đọc những vần thơ trên đây.
Hình ảnh anh bộ đội:
Tay dao tay súng gạo đầy bao
Chân cứng đạp rừng gai đá sắc!
Hình ảnh chú bé linh động:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
…………..
Ở Tố Hữu còn có một điểm đặc biệt về hình ảnh: lấy tình cảm thực để dựng hình
ảnh. Bài thơ “Bao giờ hết giặc” đã đưa lên được hình ảnh một bà bủ, một bà
cụ bần nông nhiều con lắm cháu. Nhất là thằng út cũng lại đi "giải phóng" lâu
ngày:
Bà bủ nằm ổ chuối khô
Bà bủ không ngủ bà lo bời bời
Ðêm nay tháng chạp mùng mười
Vài mươi bữa nữa Tết rồi hết năm
Bà bủ không ngủ bà nằm
Bao giờ thằng út về thăm một kỳ
Sang hình ảnh quê hương trong thơ Tố Hữu, tôi muốn trở về một vài điểm của bài thơ “Việt Bắc”:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao ánh nắng, dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng...
Ðẹp thay rừng Việt Bắc, "lâu đài xanh" của người Việt! Những hình ảnh ấy còn
được giải ra những vần thơ địa phương tính:
Mình về ta gửi về quê
Thuyền nâu trâu mộng với bè nứa mai
Nâu này nhuộm áo không phai
Cho lòng thêm đượm cho ai nhớ mình
Trâu về xanh lại Thái Bình
Nứa mai gài chặt tấm tình ngược xuôi
Hình ảnh người lao động trên sông, trên mặt ruộng với tài sản của đất nước do bàn tay lao động mình tạo ra:
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tầu chạy bốn bề lưới giăng
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời
Mái tường ngói mới đỏ tươi
Chợ vui trăm nẻo về vui luồng hàng
Muối Thái Bình ngược Hà Giang
Cầy bừa Ðông Xuất, mía đường tỉnh Thanh
Ai về mua vại Hương Canh
Ai lên mình gửi cho anh với nàng
Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng [4]
Vải tơ Nam định, lụa hàng Hà đông
…
L. Soubotsky có viết: "Chiến tranh kết liễu, những cuộc xây dựng bắt đầu. Tiếng
nói của nhà văn lại cất lên giữa tiếng ầm ầm của xưởng máy và công trường.
Giúp nhân dân gắn lại những vết thương đau, làm đằm thắm lại những rung động
đã mòn mỏi. Ðó là sứ mạng cao quý của nghệ thuật…"
Qua những vần thơ trên đây và nhiều vần thơ khác Tố Hữu đã làm nhiệm vụ đó. Ðây phải chăng là câu hò tiếng hát của người phụ nữ trên cánh đồng hay đầu mũi con đò buông sông. Những hình ảnh quen thuộc xa xôi trở lại với vần thơ.
Ở cuốn Việt Bắc người ta không tìm thấy nữa những vần thơ nóng hổi của Tố Hữu:
Gió, gió ơi, hãy làm giông làm tố
Cuốn trung liên cờ đỏ máu thơm tươi
Vàng vàng bay, đẹp quá, sao sao ôi!
Ta ngã cuốn trong dòng người cuộn thác [5]
Từ khi cuộc kháng chiến bùng nổ, mỗi một giây phút nhạc "Muôn phương chân nện gót rầm rầm",
rõ rệt và gần lại ta hơn. Ðáng phàn nàn thi sĩ không cho reo tiếp bản nhạc
vĩ đại đó của cách mạng trong tám chín năm qua!
Cũng theo bản chất ấy, người ta chỉ tìm thấy Tố Hữu của cuốn Việt Bắc ngồi
rít hơi thuốc lào dài với anh bộ đội dưới bóng tre già, hay là đứng cạnh đồng
chí pháo binh đợi giờ chiến đấu và nóng nảy thúc giục "Anh đại bác tôi chờ anh để hát!" Rồi
thi sĩ có một hôm lên đường cùng anh bộ đội:
Sáng nay ra trận lên Tây Bắc
Hai đứa ta cùng đi đánh giặc
Nhưng bỗng nhiên thi sĩ rời xa anh bộ đội hiên ngang và thi sĩ Tố Hữu của ta đã biến người chiến sĩ ra một bức tượng vô cùng đẹp:
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi tay vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo
Cũng chỉ vì người ta không tìm thấy nữa những vần thơ nóng hổi của thi sĩ Tố Hữu trước năm 1945 nên ông Hoàng Yến đã cay nghiệt nẩy ra ý nghĩ so sánh thơ Tố Hữu thời kỳ đầu và nay. Ông cho rằng. “Thời kỳ trước cách mạng, với nhu cầu cụ thể của nó, thơ Tố Hữu là lá cờ tiền phong hướng dẫn đấu tranh. Với thời đại kháng chiến bây giờ, với đòi hỏi lớn lao gấp bội, thơ Tố Hữu quả chưa làm được nhiệm vụ tiền phong chiến đấu như thời kỳ trước và nếu đem so sánh đối chiếu với mỗi thời đại cái tỷ lệ tương xứng ấy cho ta thấy thơ Tố Hữu ngày nay còn bé hơn thơ Tố Hữu trước kia. Bé vì Tố Hữu chưa thổi được vào thơ ngọn lửa hừng hực chiến đấu của thời đại để đốt cháy lòng người đọc. Bé vì chất sống chưa được sâu sắc nên ý thơ nhiều đoạn còn giả tạo và công thức”.
Tôi đồng ý với Hoàng Yến rằng "Bàn về thơ Tố Hữu nói chung là một vấn đề lớn có nhiều mặt, nhiều phương diện và trong một bài báo ngắn không thể nói hết được ưu khuyết điểm".
Nhưng tôi hoàn toàn không đồng ý với Hoàng Yến về điểm so sánh thơ Tố Hữu qua
hai thời kỳ. Theo tôi trình bày ở trên, Tố Hữu qua cuốn Việt Bắc nặng về ca ngợi nên tình cảm hiện thực về chiến đấu thường bị lu mờ. Xét thơ Tố Hữu cần biết qua Tố Hữu. Tố Hữu trong thời kỳ kháng chiến là một cán bộ trăm công nghìn việc hơn là một thi sĩ với sứ mạng nghệ sĩ của mình. Chính vì giai đoạn kháng chiến đã đòi hỏi Tố Hữu như vậy. Thơ Tố Hữu sáng tác rất ít, tuy nhiên Tố Hữu đã nói lên được tình cảm quần chúng qua tác phẩm của mình. Tình cảm bài thơ “Bao giờ hết giặc” là tình cảm thật của bà bủ. Tình cảm bài thơ “Bà mẹ Việt Bắc” là tình cảm thật của đường Mé rừng. Tình cảm bài thơ “Cá nước”, “Bầm ơi!” là tình cảm thật của anh bộ đội.
Ðọc tác phẩm Tố Hữu, người ta cảm thấy như được nghe những mẩu chuyện con con rất say sưa và kích thích:
Anh kể chuyện tôi nghe
Trận chợ Ðồn chợ Rã
Ta đánh giặc chạy re
Hai đứa cười ha hả
Những tình cảm ấy nẩy nở rất thích hợp với thời đại và xã hội. Những tình cảm ấy là những tình cảm ngấm ngầm nằm trong quần chúng, chứng tỏ tư tưởng cách mạng đương ăn sâu vào quần chúng. Những tình cảm ấy là căn bản của sức chiến đấu của dân tộc ta. Nó sửa soạn cho hành động tự giác một cách toàn diện. Lẽ dĩ nhiên nó phải là những tình cảm hiện thực. Xem bài thơ “Bầm ơi” anh bộ đội nào mà chẳng thấy mình đã có đôi lần nói lên những tình cảm ấy? Bà mẹ nào mà chẳng thấy nhớ con, căm giặc và sao chẳng trở thành bà mẹ nuôi của bộ đội? Xem bài thơ “Cá nước” ai chẳng tin ở sức ta, thấy tiền đồ sáng sủa qua tiếng cười ha hả…
Theo ông Hoàng Yến, Tố Hữu chưa thổi vào thơ ngọn lửa hừng hực chiến đấu của thời đại. Nhưng theo tôi Tố Hữu đã nhóm, đã khơi ngọn lửa đó để nó bốc lên rực rỡ!...
3-1955
Ðộc lập, số 97 (30.4.1955)
29. Văn nghệ
Tin văn hóa
Hưởng ứng phong trào phê bình văn học của báo Văn nghệ, Hiệu đoàn học sinh trường Sư phạm Trung ương đã mở một cuộc tranh luận về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Các bài phê bình và tranh luận rất nhiều, trong số đó có hơn 10 bài viết rất công phu, ba bài góp ý kiến về bài phê bình của Hoàng Yến, hai bài góp ý về bài của Hoàng Cầm. Ngoài ra còn nhiều bài phê bình tập Vượt Côn đảo, Vùng mỏ, Cứu đất cứu mường… Phong trào phê bình và tranh luận đã làm anh chị em học sinh ban xã hội nâng cao trình độ lý luận văn học của mình lên rất nhiều.
Số 70 (1.5.1955)
30. Hiện thực [6]
Sổ tay Văn nghệ (trích)
Thơ của ta đang ở thời kỳ tìm tòi, học hỏi. Gần đây, một số bạn thơ của ta có lẽ muốn theo bước nhà thi sĩ thiên tài Liên Xô Mai-a-kốp-ski, thí nghiệm một hình thức trình bày câu thơ, là xuống giòng nhiều.
Như trong bài "Một đêm" (V.N. số 62) có những câu thơ:
Còn một đêm nay
Một đêm nay nữa
Ngày mai là
Quyết ở