© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
1.10.2005
Mai Thái Lĩnh
Huyền thoại về một nhà nước tự tiêu vong
Bàn về lý thuyết Nhà nước của Karl Marx
8 kì
 1   2   3   4   5   6   7   8 
 
Chương X

Sự tan vỡ của một huyền thoại

”Nhà nước tự tiêu vong”, suy cho cùng, chỉ là một huyền thoại. Nhưng nó lại là một trong những huyền thoại căn bản của chủ nghĩa cộng sản, bởi vì Marx đã dựa vào nó để xây dựng nên quan niệm “chuyên chính vô sản” cũng như toàn bộ lý thuyết về nhà nước nói chung. Chính vì tin rằng nhà nước nhất định sẽ biến mất cùng với chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cho nên Marx và Engels đã nêu ra giải pháp chuyên chính vô sản như một hình thức nhà nước quá độ tạm thời trong khi chờ đợi một thời kỳ hoàng kim với một xã hội hoàn toàn tự quản, không cần đến nhà nước.

Sau khi hai ông mất, quan niệm chuyên chính vô sản không tìm được mảnh đất thuận lợi để phát triển. Ở các nước phương Tây, nơi các giá trị dân chủ đã thấm sâu vào đời sống văn hoá và chính trị, phong trào công nhân dần dần từ bỏ con đường chuyên chính vô sản và hội nhập vào chế độ dân chủ hiện đại. Chế độ đại nghị ngày càng được hoàn thiện, chấp nhận chỗ đứng của các đảng công nhân, của phong trào công đoàn, kể cả quyền hoạt động chính trị của các đảng cộng sản – nghĩa là những đảng mà mục tiêu chiến lược là lật đổ chính chế độ dân chủ đại nghị. Quan niệm chuyên chính vô sản mất sức sống ngay trên mảnh đất nó được sinh ra.

Chính Lenin, một nhà cách mạng xuất thân từ nước Nga - một quốc gia lạc hậu ở châu Âu, là người đã làm sống lại quan niệm chuyên chính vô sản.

Mặc dù sống lưu vong trong nhiều năm ở các nước Tây Âu, Lenin không tiếp thu được các giá trị dân chủ ở đó, và trong nhận thức vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của nền văn hoá phong kiến lạc hậu, phi dân chủ dưới chế độ Sa hoàng. Trong khi nghiên cứu chủ nghĩa Marx, thay vì biết phê phán, chọn lọc, ông đã tiếp thu toàn bộ các khía cạnh tiêu cực của học thuyết, kể cả những khái niệm phản tiến bộ như chuyên chính vô sản. Mặt khác, trong cuộc đấu tranh tư tưởng với những người xã hội-dân chủ khác, ông không thể tự nhận mình là độc tài, chống lại các giá trị dân chủ, vì lúc đó dân chủ đã trở thành mục tiêu chung của phong trào công nhân trên khắp lục địa châu Âu. Do đó, ông tìm cách biện minh cho con đường chuyên chính vô sản bằng thủ thuật đánh tráo khái niệm: đề ra khái niệm dân chủ vô sản như một cực đối lập với cái mà ông gọi là dân chủ tư sản. Về mặt sách lược, Lenin chủ trương rằng khi chưa nắm được quyền lực tuyệt đối, những người cộng sản vẫn có thể cộng tác với các lực lượng đấu tranh cho dân chủ, coi việc đấu tranh cho các mục tiêu dân chủ trước mắt như một biện pháp cần thiết để tập hợp quần chúng xung quanh đảng cộng sản. Những lý do đó đã khiến cho nhiều người lầm tưởng rằng Lenin là một người yêu dân chủ và có thể xây dựng được một chế độ dân chủ thật sự dựa trên lý luận của Marx và Lenin.

Marcel Liebman là một trường hợp điển hình. Mặc dù thừa nhận những khuyết điểm của chế độ chính trị xô-viết, nhà chính trị học mác-xít người Bỉ này chỉ phê phán Stalin trong khi vẫn ca ngợi quan niệm “dân chủ vô sản” của Lenin. Theo Liebman, nền dân chủ vô sản là một nền dân chủ “trực tiếp, cụ thể và mang tính nhân dân”. Đáp lại lời chỉ trích tính không tưởng của quan niệm đó, ông viết:

Nhưng đó chỉ là một sự chỉ trích tầm thường và hời hợt: không có một dự phóng cách mạng nào lại không có một lý tưởng vĩ đại làm bệ phóng cho nó và đem thắng lợi đến cho nó. Những người có đầu óc thực tế và các sử gia hoàn toàn có quyền đánh giá khoảng cách giữa cái không tưởng (utopique) với cái có thể (le possible), nhưng họ không phải là nguồn cảm hứng cho những người làm nên các công trình lịch sử vĩ đại và những nhà sáng lập nên các xã hội mới. Nền dân chủ của những người bolshevik thuộc về một quan niệm độc đáo và táo bạo – hoàn toàn đoạn tuyệt với tất cả mọi sự nhẫn nhục và mọi điều tầm thường. Họ không chỉ bằng lòng với việc biến những người nô lệ ngày hôm qua thành những người nổi dậy ngày hôm nay. Họ nhìn thấy trong những người nô lệ ấy những chủ nhân và những nhà hành chính của tương lai. [1]

Trong thực tế, nền dân chủ vô sản (một tên gọi khác của chuyên chính vô sản) chỉ là một huyền thoại, bởi lẽ nó được xây dựng dựa trên huyền thoại “nhà nước tự tiêu vong”. Xét về mặt logic, nếu nhà nước có nguồn gốc phát sinh độc lập với các nguyên nhân kinh tế thì việc xoá bỏ chế độ tư hữu không thể dẫn đến một nhà nước tự tiêu vong mà chỉ có thể dẫn đến một nhà nước tập quyền kiểu mới. Nền chuyên chính quá độ tạm thời xét về mặt lý thuyết tất yếu sẽ trở thành một nền chuyên chính ổn địnhlâu dài trong thực tế; nền chuyên chính này coi việc duy trì độc quyền chính trị như một cứu cánh, một lẽ sống còn. Sự mâu thuẫn, trật khớp giữa lý thuyết và thực tiễn đó buộc những nhà lãnh đạo cộng sản phải củng cố và nuôi dưỡng huyền thoại “dân chủ vô sản” nhằm biện minh cho chế độ chuyên chính vô sản, tạo cho nó một lớp vỏ hiện đại, dễ coi nhằm lừa mị quần chúng, đánh lừa nhân dân.

Mặc dù Lenin là người sáng tạo nên huyền thoại “dân chủ vô sản”, nhưng có thể nói chính Stalin mới là người đem lại sức sống cho huyền thoại đó, làm cho nó trở thành một trong những huyền thoại quan trọng nhất của chủ nghĩa cộng sản, có ảnh hưởng lớn lao trong thế kỷ XX. Là một nhà độc tài bẩm sinh, Stalin đã giành được vị trí cao nhất trong chế độ xô-viết chủ yếu bằng con đường bạo lực, bằng những biện pháp phản dân chủ. Nhưng hơn ai hết, ông hiểu rằng không thể duy trì được quyền lực một cách lâu bền nếu chỉ dựa vào các biện pháp đàn áp, cưỡng bức. Vì vậy, ông rất coi trọng các thủ đoạn mị dân, lừa bịp.

Khác với Marx và Lenin - vốn là những người quyết liệt chối bỏ những hình thức của chế độ đại nghị, Stalin đã tìm cách “vận dụng” một số hình thức của chế độ này nhằm mục đích che đậy thực chất của chế độ độc tài toàn trị. Vào nửa cuối thập niên 1930, song song với quá trình thanh trừng nội bộ một cách đẫm máu nhằm triệt tận gốc các “đồng chí” bolshevik cựu trào, Stalin đã tiến hành soạn thảo một bản hiến pháp mô phỏng theo hiến pháp của các nước dân chủ phương Tây. Một Uỷ ban soạn thảo hiến pháp được thành lập vào tháng 2 năm 1935, vài tháng sau khi xảy ra vụ ám sát Kirov. Bản hiến pháp được chính thức ban hành vào tháng 11 năm 1936, được giới thiệu như một bản hiến pháp “dân chủ nhất thế giới”. Nhưng cũng từ năm 1936 cho đến năm 1938, cuộc Đại Thanh Trừng (Great Purge) đẫm máu đã diễn ra, với hàng loạt vụ án công khai và bí mật. Tháng 8 năm 1936, Zinoviev và Kamenev bị truy tố về những tội hoàn toàn bịa đặt và bị xử bắn. Tháng 6 năm 1937, Nguyên soái Tukhachevsky, nhà lãnh đạo quân sự có uy tín nhất vào thời đó, đã bị lôi ra toà án quân sự về tội mưu phản và bị hành quyết cùng với một số tướng lãnh cao cấp khác. Ngay cả Bukharin và Radek, những tác giả của bản hiến pháp năm 1936 nói trên, cũng không thoát khỏi tội chết: cả hai ông đều bị kết tội tử hình vào tháng 3 năm 1938. Các vụ án mang tính chất khủng bố nói trên chứng tỏ các quyền tự do căn bản của công dân, các quyền con người được ghi vào hiến pháp chỉ nhằm mục đích tuyên truyền, lừa bịp quần chúng, loè bịp phương Tây chứ không phải để thực thi. Trong các vụ án giả tạo nói trên, các nạn nhân đều bị kết án dựa trên lời nhận tội, ngoài ra không có chứng cứ nào khác được kiểm chứng bằng các thủ tục pháp lý thông thường. Trong số những người có mặt ở hàng ghế bị cáo trong các phiên toà đó, người ta có thể điểm danh tất cả các thành viên của Bộ chính trị thời Lenin, chỉ trừ chính Stalin và Trotsky (riêng ông này đã bị trục xuất ra khỏi lãnh thổ Liên Xô vào năm 1929 và bị ám sát tại Mexico vào tháng 8 năm 1940). Điều đó cho thấy ngay cả những người đã từng là cấp lãnh đạo cũng không được hưởng đầy đủ quyền con người và quyền công dân, nói gì đến những thường dân hoặc những người đã từng là “kẻ địch”.

Điều đáng nói hơn nữa là mặc dù áp dụng một số hình thức của chế độ đại nghị phương Tây, Stalin không bao giờ chấp nhận các nguyên tắc căn bản của chế độ ấy. Lấy lý do chế độ dân chủ vô sản khác biệt về chất so với chế độ dân chủ tư sản, ông không chấp nhận nguyên tắc tam quyền phân lập, không chấp nhận chế độ đa đảng, không chấp nhận tính đa nguyên về tư tưởng.

Như một số nhà viết tiểu sử đã lưu ý, Stalin xuất thân là một chủng sinh trong trường dòng chính thống giáo ở Tbilissi, do đó ông rất am hiểu tác dụng của các nghi lễ tôn giáo, cũng như tác dụng của các huyền thoại tôn giáo. Điều này có thể thấy rõ qua việc ông tổ chức tang lễ cho Lenin, xây dựng lăng tẩm kiểu mới ở Quảng trường Đỏ (Moskva), biến Lenin thành một vị thánh nhằm giành lấy cho mình vị trí của một á thánh. Stalin đã chỉ đạo việc biên tập cuốn Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô, vẽ lại lịch sử của cách mạng bolshevik theo ý đồ riêng của mình, xoá bỏ công lao của một loạt các lãnh tụ cách mạng như: Trotsky, Kamenev, Zinoviev, Bukharin, vv… Sự cắt xén, xuyên tạc lịch sử theo kiểu Stalin đã trở thành khuôn mẫu cho tất cả các sử gia mác-xít lê-nin-nít sau này: các sự kiện lịch sử được thổi phồng hay bị bóp méo; các nhân vật lịch sử bị bỏ quên hay bôi nhọ, các “lãnh tụ” hay “anh hùng” được tô hồng, thần thánh hoá,v.v… Lịch sử được bào chế trong phòng thí nghiệm của các “sử gia” giàu tính giai cấp, dưới sự chỉ đạo của các nhà cách mạng chuyện nghiệp, trở thành vũ khí tuyên truyền cho Đảng cộng sản cầm quyền. Cộng vào đó là các tác phẩm văn học nghệ thuật mà tôn chỉ là khuôn hiện thực theo ý thức hệ mác-xít lê-nin-nít hơn là tôn trọng sự thật, phục vụ cho ý đồ chính trị nhiều hơn là các giá trị nhân bản. Những tác phẩm này đã góp phần lớn lao vào việc hình thành và nuôi dưỡng các huyền thoại cộng sản, che giấu sự thật, xoá mờ chân lý.

Tất cả đã góp phần tạo ra một nếp sống dân chủ kiểu mới rất kỳ lạ, hoàn toàn khác với nếp sống dân chủ ở các nước phương Tây. Nếp sống đó có bề ngoài rất cách mạng, dân chủ, bình đẳng nhưng nếu xem xét kỹ, chúng ta thấy bên dưới lớp vỏ hào nhoáng, hiện đại ấy lại là một chế độ quân chủ phương Đông được tái tạo với một dáng dấp mới:

Thay vì gọi Ngài, bẩm quan, người ta gọi đồng chí. Thay vì gọi Vua, người ta gọi Tổng bí thư hay Chủ tịch. Thay vì bổ nhiệm, người ta đề cử để rồi giả vờ tham khảo ý kiến của cử tri, sau đó tổ chức bầu cử một cách hết sức tốn kém, rườm rà, nhằm tạo ra cái vỏ dân cử cho những nhân vật đã được Đảng cử từ trước. Bên cạnh hệ thống nhà nước, Đảng cộng sản tạo ra một hệ thống tổ chức quần chúng mang danh nghĩa là đại diện cho các giới trong xã hội, nhưng thực chất vẫn là do những người của Đảng cử ra điều khiển. Hệ thống này đóng vai trò ông Thiện để xoa dịu quần chúng, gỡ rối cho những hành vi sai phạm của ông Ác, tức các cơ quan Nhà nước. Đảng mặc dù là siêu-nhà nước, chỉ đạo hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị, nhưng luôn luôn giả vờ làm như vô can. Mỗi khi nhà nước có biểu hiện bê bối, tham nhũng, Đảng lại đứng ra làm trọng tài, giả vờ xử lý kỷ luật, trừng phạt những kẻ làm sai – nhưng thực chất là tìm cách bao che, bảo vệ quyền lợi cho địa vị thống trị của đẳng cấp cầm quyền. Cái màn kịch đó được diễn hết sức khéo léo, cốt tạo ra trong quần chúng cái ý tưởng: Đảng không bao giờ sai lầm, chỉ có một số đảng viên, cán bộ nắm quyền trong bộ máy nhà nước có thể phạm sai lầm; Đảng bao giờ cũng sáng suốt, bao giờ cũng vì quyền lợi của giai cấp, vì quyền lợi của nhân dân, chỉ có một thiểu số (nhỏ, cực kỳ nhỏ) cán bộ, đảng viên là thoái hoá, biến chất. Sai lầm, tội ác được gán cho những cán bộ cấp dưới (trong thực tế là những con dê tế thần), để bảo đảm cho các lãnh tụ anh minh được muôn đời sáng suốt, trong sạch.

Xét về mặt lịch sử, đảng cộng sản không phải là lực lượng đầu tiên và duy nhất sử dụng các huyền thoại vào mục đích chính trị, nhằm củng cố cho địa vị thống trị của mình. Trong các nền văn minh cổ đại, các dòng họ cầm quyền ở Trung Quốc, Ai Cập, Đế quốc Hittite, Polynesia, Đế quốc Inca, Ấn Độ,… đã thường xuyên viện dẫn các huyền thoại để biện minh cho địa vị thống trị của họ, chẳng hạn để giải thích rằng họ có nguồn gốc từ thần thánh. Các đẳng cấp ưu tú cũng dựa trên huyền thoại để giải thích những đặc quyền đặc lợi, để hợp lý hoá địa vị ăn trên ngồi trước của họ.

Huyền thoại dân chủ vô sản cũng nhằm mục đích biện minh cho địa vị thống trị độc quyền của Đảng cộng sản, giải thích những đặc quyền đặc lợi của đẳng cấp thư lại chính trị mà nòng cốt là các đảng viên cộng sản. Đảng cộng sản giữ địa vị lãnh đạo vì nó là đại diện của giai cấp vô sản, giai cấp tiên tiến của thời đại, một giai cấp mang sứ mệnh lịch sử giải phóng toàn thể nhân loại khỏi mọi ách áp bức bóc lột. Đảng cộng sản là thực thể trung gian (tương tự như giáo hội của các tôn giáo) có nhiệm vụ và quyền hạn đóng con dấu “tiên tiến” hoặc “lạc hậu”, “phản động” lên mỗi cá nhân trong xã hội, và căn cứ vào đó mà ban phát địa vị, quyền hành và những quyền lợi vật chất kèm theo. Do đó, nếu đảng viên có địa vị chính trị cao hơn quần chúng bình thường thì đó cũng là lẽ đương nhiên, là điều tất yếu; nếu quần chúng không thông về tư tưởng thì phải tìm cách “cải tạo”, “giáo dục” tư tưởng cho họ. Mặt khác, huyền thoại đó cũng nhằm mục đích biện minh cho hệ thống đẳng cấp nội bộ nhằm duy trì quyền lực tối cao của Bộ chính trị, của Tổng bí thư hay Chủ tịch Đảng. Nguyên tắc “tập trung dân chủ” vì vậy đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ các hoạt động của Đảng cầm quyền.

Sau khi Stalin mất đi, huyền thoại dân chủ vô sản được tô vẽ lại, những nét thô thiển được gọt dũa, nhiều hình thức mới học tập từ các nước dân chủ phương Tây được thêm thắt vào, tuy nhiên các nguyên tắc căn bản vẫn không hề thay đổi. Ở một số nước Đông Âu, các nhà lãnh đạo cộng sản còn “vận dụng” cả các kinh nghiệm của phương Tây để sáng tạo ra một thể chế đa đảng giả hiệu: bên cạnh đảng cộng sản còn có một số “đảng bạn” để làm chậu kiểng hay đóng vai trò đối lập “cuội”, nhằm chứng minh cho phương Tây thấy tính chất “dân chủ” của chế độ chính trị “xã hội chủ nghĩa”. Trong thực tế, các đảng này không có chút thực lực nào, và không hề xâm phạm tí nào đến vai trò độc quyền chính trị của đảng cộng sản.

Đảng sáng suốt thay cho vai trò của một đấng minh quân. Chế độ dân chủ hình thức - dân chủ giả hiệu thay thế cho chế độ quân chủ kiểu phương Đông. Đó chính là thành quả của cuộc cách mạng vô sản, cuộc cách mạng được mệnh danh là toàn diện, triệt để nhất trong lịch sử loài người. Và người dân sống trong chế độ toàn trị đó lại được ăn một cái bánh vẽ lớn và hấp dẫn cũng chưa từng có trong lịch sử nhân loại.

Để nuôi dưỡng huyền thoại dân chủ vô sản cũng như các huyền thoại khác của chủ nghĩa Marx, Đảng cộng sản cầm quyền áp dụng một loạt các biện pháp như: xoá bỏ các quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do xuất bản, v.v… Tất cả các triết học đều bị cấm chỉ, trừ triết học Marx trở thành ý thức hệ chính thống, bị bắt buộc phải học trong tất cả các nhà trường. Chủ nghĩa Marx trở thành chủ nghĩa giáo điều, được Stalin gọi tên là chủ nghĩa Marx-Lenin (Marxism-Leninism, Marxisme-Léninisme). Hệ thống trường Đảng được phát triển rộng khắp, và cùng với nó là hệ thống các viện nghiên cứu, mà mục đích chủ yếu là để củng cố, duy trì các huyền thoại của chủ nghĩa cộng sản. Các tôn giáo mặc dù vẫn được phép tồn tại nhưng bị hạn chế bằng nhiều thủ đoạn, nhằm bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của ý thức hệ Marx-Lenin như một thứ tôn giáo mới. Cả một tầng lớp trí thức mệnh danh là trí thức mới, trí thức xã hội chủ nghĩa được đoàn ngũ hoá, được đưa vào nền nếp kỷ luật để nói cùng một tiếng nói: tiếng nói của Đảng. Ai nói khác đi lập tức bị quy kết là xét lại, là phản động, là tiếp tay cho địch, v.v…

Nhưng chân lý khoa học vẫn luôn luôn mâu thuẫn với huyền thoại. Khác với huyền thoại tôn giáo, huyền thoại cộng sản là huyền thoại gắn với trần gian, với thế giới bên này (au-delà), với thế giới hiện thực trước mắt. Trong khi tôn giáo kêu gọi con người hướng về điều thiện, sống một cách đạo đức để đạt được hạnh phúc ở đời sau hoặc ở cõi khác thì chủ nghĩa cộng sản lại hứa hẹn hạnh phúc ngay trong cõi đời này, hô hào sử dụng bạo lực để xây dựng một thiên đường ngay trên hạ giới. Do đó, theo thời gian, mâu thuẫn giữa huyền thoại và thực tế không thể không bộc lộ, và người nhìn thấy rõ mâu thuẫn ấy trước hết chính là những trí thức phản tỉnh. Chế độ toàn trị hết sức nhạy cảm với tiếng nói của những trí thức ấy, do đó họ luôn tìm cách trừng trị, bịt miệng họ. Do mâu thuẫn giữa huyền thoại và thực tế là mâu thuẫn thuộc về bản chất của chế độ dân chủ vô sản, những hiện tượng phi dân chủ, phản dân chủ không ngừng phát sinh, sự phản kháng của những trí thức bất đồng chính kiến tuy có lúc tạm thời bị đè nén hay dập tắt, nhưng không ngừng bùng phát trở lại. Điều đó giải thích tại sao cuộc đấu tranh đòi dân chủ ở các nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình xô-viết lại thường khởi đầu bằng cuộc đấu tranh của giới trí thức. Cuộc đấu tranh ấy không sinh ra từ âm mưu can thiệp của nước ngoài hay từ các thế lực đế quốc, tư bản như các đảng cộng sản cầm quyền thường rêu rao mà phát sinh từ chính thực tế phản dân chủ của các xã hội mệnh danh là “xã hội chủ nghĩa”, phát sinh từ tính chất huyền thoại của chế độ dân chủ vô sản, từ sự thức tỉnh của một bộ phận trí thức tiên tiến nhìn thấy được thực chất của những huyền thoại ấy.

Nói cách khác, cuộc đấu tranh để phi huyền thoại hoá (demythologize, démythifier) dưới chế độ chuyên chính vô sản đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong toàn bộ quá trình dân chủ hoá các xã hội đó. Và quá trình dân chủ hoá tất yếu sẽ phá vỡ khuôn khổ của chế độ dân chủ vô sản để dẫn đến một nền dân chủ đại nghị có thực chất.

Cũng cần lưu ý rằng một trong những nguyên nhân quan trọng khiến chủ nghĩa Marx mất sức sống ngay trên mảnh đất nó sinh ra là chính là trình độ dân trí. Cuộc đấu tranh để dân chủ hoá đời sống chính trị trong các xã hội Tây Âu và Bắc Mỹ đã dẫn đến kết quả là các huyền thoại tôn giáo không thể được sử dụng vào các mục đích chính trị được nữa. Nhà nước được thế tục hoá, tôn giáo tách khỏi nhà nước. Các thế lực thống trị không thể lợi dụng các huyền thoại tôn giáo để ru ngủ, lừa mị quần chúng, biện minh cho địa vị chính trị độc quyền hoặc bào chữa cho sự áp bức, bóc lột của họ. Tôn giáo trở về với chức năng thật sự của mình, không can thiệp tuỳ tiện vào đời sống chính trị, do đó cũng hạn chế được sự tha hoá bởi quyền lực. Đạođời được phân ranh giới rõ rệt. Người dân nhìn những nhân vật lãnh đạo với con mắt thực tế hơn, không sùng bái họ như những nhân vật siêu phàm, những con người huyền thoại. Trong điều kiện ấy, các huyền thoại của chủ nghĩa Marx không thể phát huy được tác dụng, hoặc nói đúng hơn ngày càng mất tác dụng. Ngay cả đối với giai cấp công nhân, các huyền thoại của chủ nghĩa Marx không thể hấp dẫn được họ, bởi vì công nhân thường có cái nhìn thực tế, không dễ bị đánh lừa bởi những lời hô hào hoa mỹ, những lời hứa hẹn suông.

Trong khi đó, ở các nước lạc hậu, kém phát triển hơn, tức là ở các xã hội chưa vượt ra khỏi trạng thái nô lệ tinh thần của chế độ thần quyền dưới mọi hình thức, nơi mà người dân còn ngưỡng vọng vào những vị lãnh tụ “anh minh”, “sáng suốt” để cứu vớt họ khỏi cuộc sống lầm than, nơi mà các huyền thoại tôn giáo vẫn còn có tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị, nơi mà thần quyềnthế quyền ràng buộc nhập nhằng với nhau từ hàng ngàn năm trước, thì những huyền thoại của chủ nghĩa Marx vẫn còn tìm được những mảnh đất tốt để phát triển.

Nhận thức được sự yếu kém của hệ tư tưởng mác-xít trên mảnh đất Tây Âu và Bắc Mỹ, Lenin ngày càng mất hy vọng vào khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản trên mảnh đất truyền thống ấy của phong trào công nhân. Vì vậy, ông bổ sung khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” bằng cách hướng về các dân tộc bị áp bức, tìm sức mạnh hậu thuẫn cho Đảng bolshevik Nga trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước kém phát triển. Sự khôn khéo chính trị này đã tạo nên một sức mạnh mới cho chủ nghĩa Marx. Kể từ đó, ở một số nước Á, Phi, Mỹ la-tinh, các huyền thoại cộng sản đã được lồng ghép một cách khéo léo với những huyền thoại có sẵn của dân tộc, kích động lòng yêu nước của đông đảo quần chúng. Huyền thoại “dân chủ vô sản” được biến thể thành “dân chủ mới”, “dân chủ nhân dân”, tiếp tục trở thành lý lẽ biện minh cho các chế độ độc tài kiểu mới mọc lên từ đống tro tàn của các chế độ quân chủ phương Đông.

Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới mà nòng cốt là nước Nga xô-viết, quê hương của cuộc Cách mạng tháng Mười, đánh dấu sự tan vỡ của những huyền thoại cộng sản, mà đáng kể hơn hết là huyền thoại ”dân chủ vô sản”. Khi khẩu hiệu công khai (glasnost) được Gorbachev đề ra, hàng loạt sự thật bị che giấu từ hàng chục năm được phơi bày, người ta gần cảm thấy bàng hoàng trước sự dối trá khủng khiếp đã làm nên huyền thoại ”dân chủ vô sản”. Trong thực tế, không hề có một nền dân chủ vô sản mà chỉ có một nền chuyên chính nhân danh giai cấp vô sản. Trong thực tế, không hề có một nhà nước tự tiêu vong mà chỉ có một nhà nước toàn năng, có quyền can thiệp vào bất cứ một tổ chức xã hội nào, bất cứ một cuộc sống riêng tư nào. Trong thực tế, không hề có một “nhân dân làm chủ” mà chỉ có những kẻ lạm quyền, lộng quyền đội lốt “đầy tớ của nhân dân”, nói cách khác là những kẻ nhân danh nhân dân để thống trị chính nhân dân.

Để tóm tắt một cách sâu sắc tính chất huyền thoại của chế độ dân chủ vô sản, chúng ta có thể mượn lại câu của Lenin viết về chế độ dân chủ tư sản (tất nhiên phải sửa đổi lại đôi chút cho phù hợp):

Chế độ dân chủ vô sản trước sau vẫn là một chế độ dân chủ chật hẹp, bị cắt xén, giả hiệu, giả dối; đó là một thiên đường cho những kẻ có quyền, một cạm bẫy đối với những người thấp cổ bé họng, một cái mồi giả dối đối với những người bị thống trị. [2]

Lời phê phán chua cay của Lenin đối với chế độ dân chủ mà ông gán cho cái nhãn hiệu “dân chủ tư sản”, cuối cùng lại hoàn toàn phù hợp với bản chất của chế độ dân chủ giả hiệu do chính ông khởi xướng và được Stalin hoàn thiện.


Chương kết

Đi tìm một định nghiã đúng đắn về nhà nước

Sự tan vỡ của huyền thoại “dân chủ vô sản” dẫn đến sự tan vỡ của huyền thoại “nhà nước tự-tiêu vong”, đồng thời cũng làm sụp đổ toàn bộ lý thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Marx. Điều đó buộc chúng ta phải xem xét lại định nghĩa về nhà nước của Marx.

Marx định nghĩa nhà nước là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác (“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”). Nhưng như trên đã nói, trước khi trở thành nhà nước của một giai cấp (như Marx và Engels đã chứng minh), hay nhà nước của một tập đoàn xã hội, của một nhóm người hoặc của một cá nhân thì nhà nước đã là một tổ chức bảo vệ lợi ích công cộng, một quyền lực công cộng.

Trong trường hợp đó, ta phải xác định rằng tính chất giai cấp chỉ là tính chất phụ thuộc, chứ không phải tính chất cơ bản của nhà nước. Bản chất của nhà nước là tính chất công cộng, tính chất xã hội, còn tính chất giai cấp chỉ là sự bóp méo, xuyên tạc bản chất đó; do sự chiếm dụng nhà nước bởi một giai cấp, một tầng lớp, một đẳng cấp, một tập đoàn xã hội, một nhóm người nào đó. Khôi phục lại bản chất của nhà nước, tức là dân chủ hoá, đòi hỏi phải xoá bỏ tính chất giai cấp của nhà nước để nhà nước trở thành nhà nước của toàn dân chứ không phải làm ngược lại.

Nhà nước là một hiện thực sinh ra cùng với loài người, và cùng tồn tại với loài người. Vào thời kỳ đầu của nhân loại, khi con người còn sống trong các thị tộc, mối quan hệ giữa mọi thành viên trong cộng đồng còn dựa trên quan hệ huyết thống thì nhà nước “phôi thai” chỉ là một tổ chức đơn giản, nằm trong lòng cộng đồng. Nhưng khi cộng đồng phát triển rộng lớn hơn, quan hệ thị tộc bị phá vỡ thì nhà nước buộc phải phát triển thành một tổ chức phức tạp hơn, tách rời khỏi cộng đồng. Đó là sự tách rời tất yếu, thể hiện sự trưởng thành, chứ không phải là biểu hiện của sự tha hoá như Marx đã nghĩ.

Một khi nhà nước tách rời khỏi xã hội thì quyền lực chính trị bị chiếm hữu bởi một giai cấp, một tập đoàn xã hội, một dòng họ nào đó. Và họ đã tìm cách phủ lên nhà nước một cái vỏ thần bí để hợp lý hoá sự chiếm hữu quyền lực. Ví như thuyết thiên mệnh, thiên tử ở Trung Quốc chẳng hạn. Nhưng rồi đến một thời điểm trong lịch sử, nhân loại trưởng thành hơn, và người ta ý thức được vấn đề chủ quyền của nhân dân. Từ thế kỷ XVIII, ở châu Âu và Bắc Mỹ, các nhà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã mở ra một hướng đi đúng đắn cho nhân loại: đấu tranh để biến nhà nước thành nhà nước của toàn dân, nghĩa là của nhà nước của mọi người, mọi tập đoàn, mọi giai cấp trong xã hội. Chế độ dân chủ bắt đầu hình thành từ lúc đó, lúc đầu không tránh khỏi những khiếm khuyết, nhưng theo thời gian, ngày càng được củng cố, hoàn thiện.

Sự sai lầm của Marx và Engels là ở chỗ hai ông không nhìn thấy hướng đi ấy. Đáng lẽ chủ trương nhà nước của toàn dân (dân chủ), hai ông lại nêu ra khái niệm chuyên chính vô sản, tức là nhà nước của một giai cấp (phi dân chủ). Chuyên chính vô sản là sự thay thế một nhà nước giai cấp này bằng một nhà nước giai cấp khác; mà khi đã tuyên bố nhà nước mang tính giai cấp thì con đường dân chủ khó có thể được khai thông. Một khi đã là một nhà nước giai cấp thì dù giai cấp đó là giai cấp bần cùng, bị bóc lột trong xã hội, cũng không tránh được tình trạng một tầng lớp có đặc quyền sẽ nhân danh giai cấp để nắm lấy quyền thống trị trong xã hội.

Do không nắm được bản chất của quyền lực chính trị, do quan điểm duy vật lịch sử, nên Marx và Engels không nhìn thấy một sự thật: quyền lực chính trị có khả năng làm tha hoá mọi người; và những người thuộc giai cấp bị bóc lột, một khi nắm quyền hành trong tay, không hề miễn nhiễm trước sự cám dỗ của quyền lực. Marx và Engels tỏ ra hoàn toàn ảo tưởng khi vẽ ra một giai cấp vô sản tính bản thiện, chỉ cần giác ngộ sứ mệnh lịch sử là có thể trở thành một giai cấp thánh thiện. Nếu không có ảo tưởng đó, lý thuyết của hai ông đã vạch ra được những biện pháp hữu hiệu để chế tài sự lạm dụng quyền lực, ngăn ngừa được những trường hợp như Stalin, Mao Trạch Đông,…

Như trên đã trình bày, lịch sử của phong trào công nhân thế giới đã cho thấy những môn đệ của Marx và Engels đã đi theo hai hướng khác nhau:

Sau khi Engels mất, một trong những môn đệ của ông đã phát hiện ra những sai lầm trong lý luận mác-xít chính thống và tìm cách sửa chữa; đó là Eduard Bernstein. Điều trớ trêu của lịch sử là: nếu Marx viết bộ Tư bản tại nước Anh thì cũng chính tại nước Anh, Bernstein đã tìm thấy những tư tưởng để bổ sung, sửa chữa chủ nghĩa Marx. Bernstein đã chịu nhiều ảnh hưởng của những nguồn tư tưởng phi-mác-xít, nhất là từ phái Fabian (Fabianism) - tiền thân của Đảng lao động (Labor Party) hiện nay. Chủ nghĩa xét lại (cái tên gọi một thời mang nghĩa xấu đó) lúc đầu đã bị chủ nghĩa Marx chính thống ở Tây Âu bác bỏ kịch liệt, nhưng qua thời gian đã có tác động lớn lao, làm thay đổi nội dung của lý thuyết xã hội chủ nghĩa. Một trong những điểm quan trọng nhất là việc chấp nhận dân chủ như một mục tiêu song song với mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Các đảng mác-xít ở Tây Âu dần dần từ bỏ khái niệm chuyên chính vô sản, trở thành các đảng dân chủ-xã hội, mang tính chất cải cách, tương tự như Đảng lao động Anh. Nói cách khác, khuynh hướng này chấp nhận định nghĩa nhà nước như một thiết chế bảo vệ lợi ích công cộng. Họ chấp nhận chế độ dân chủ tư sản và tìm cách đấu tranh cho quyền lợi của công nhân bằng con đường hợp pháp, và như vậy là từng bước cải biến chế độ đó thành một chế độ dân chủ thật sự, một nhà nước của toàn dân. Các đảng đó không bao giờ thành công theo nghĩa Marx và Engels từng hiểu, nghĩa là không bao giờ giành được chính quyền 100%, và không bao giờ thực hiện được chủ nghĩa xã hội (theo nghĩa công hữu hoá tư liệu sản xuất 100%). Nhưng họ lại có công đem lại sự cải thiện trong đời sống công nhân, và đồng thời đóng góp rất nhiều cho sự nghiệp dân chủ hoá đời sống xã hội. Ngày nay, họ vẫn là những đảng chính trị có uy tín tại Tây Âu, Bắc Âu và nhiều nơi khác trên thế giới; và ở nhiều nước, vào nhiều thời điểm, họ trở thành đảng cầm quyền (tất nhiên là theo từng nhiệm kỳ chứ không phải là đảng cầm quyền muôn năm).

Xu hướng thứ hai là xu hướng cực đoan, mà tiêu biểu là V. I. Lê-nin. Trong vấn đề nhà nước, ông tiếp thu toàn bộ, kể cả những điểm sai lầm, phi lý nhất của lý thuyết về nhà nước do Marx và Engels để lại, nhất là quan niệm chuyên chính vô sản. Để giành được thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội bằng bất cứ giá nào, ông thay đổi quan niệm về đảng mác-xít. Từ chối quan niệm về một đảng dân chủ-xã hội “theo kiểu câu lạc bộ”, ông chủ trương tổ chức một đảng cộng sản kiểu mới với kỷ luật sắt cả về tư tưởng và tổ chức. Chính tổ chức đảng kiểu mới này đã giúp ông giành được thắng lợi cho cách mạng vô sản tại nước Nga vào năm 1917. Nhưng lịch sử đã cho thấy sự thành công của Cách mạng tháng Mười Nga lại không chứng minh được tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa Marx mà ngược lại, đã chứng minh những điểm sai lầm của nó, đặc biệt là trong vấn đề nhà nước.

Sự thất bại của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới dựa trên mô hình xô-viết cho thấy nhà nước của toàn dân chính là xu hướng tiến bộ nhất, đúng đắn nhất của nhân loại, đồng thời cũng chứng minh rằng: dân chủ là giá trị chung của nhân loại, và chỉ có thể có một chế độ dân chủ dưới nhiều hình thức, chứ không hề có sự phân chia giữa dân chủ tư sản và dân chủ vô sản. Chế độ dân chủ, dù không thể tránh được những khuyết tật, những nhược điểm nhất định, vẫn là chế độ có tương lai nhất, vì nó có khả năng tự điều chỉnh, tự sửa chữa và có khả năng bao dung được mọi xu hướng chính trị, mọi tín ngưỡng tôn giáo, mọi chủng tộc, mọi lợi ích giai cấp. Mặc dù những người mác-xít cực đoan (như Lenin chẳng hạn) vẫn cho rằng chế độ dân chủ tư sản chỉ bảo vệ cho lợi ích của giai cấp tư sản; nhưng giai cấp công nhân ở những nước tiên tiến trên thế giới ngày càng không tin vào lập luận đó. Trong thực tế, họ đã giành được quyền tổ chức công đoàn, có quyền bãi công, biểu tình, đưa được đại biểu của mình vào Quốc hội,… nói chung là nói lên được tiếng nói của mình, có quyền đấu tranh để bảo vệ quyền lợi thiết thân của mình, từng bước cải thiện được đời sống vật chất và tinh thần. Nền dân chủ đó không thể gọi là nền dân chủ tư sản được. Còn cái gọi là chế độ dân chủ vô sản thực ra chỉ là một sản phẩm của trí tưởng tượng, chỉ có trên lời nói và trên giấy; còn trong thực tế thì nó đã thất bại ngay từ khi mới sinh ra. Và vì Lenin đã không giải quyết triệt để những nghịch lý về mặt lý luận khi ông còn sống, cho nên sau khi ông mất đi, những môn đệ của ông chỉ loay hoay xung quanh những quan điểm do ông nêu ra, mà không tìm được giải pháp cụ thể, có hiệu quả để cải tổ chế độ chính trị đó theo đúng định hướng đúng đắn của những quy luật chính trị, xã hội.

Sự thất bại của công cuộc cải tổ ở Liên Xô dưới thời Gorbachev có nhiều nguyên nhân. Nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng hàng đầu là những người lãnh đạo Đảng cộng sản Liên Xô lúc đó đã không dám vượt qua tư tưởng của Lenin, nói gì đến việc xét lại chính tư tưởng của Marx và Engels.

Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu cho thấy chế độ dân chủ là chế độ của tương lai. Nhà nước dưới chế độ dân chủ là một nhà nước đã bị hạn chế quyền lực, bị khống chế, kiểm soát bởi các cơ quan dân cử, bởi sự cạnh tranh lành mạnh giữa các đảng phái chính trị, bởi các tổ chức phi chính phủ, bởi báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng (mass media), v.v… Nó không trở thành món đồ cổ ở bảo tàng viện như lời dự đoán mang nhiều tính chất tưởng tượng của Engels, nhưng cũng không còn là bộ máy quan liêu đứng trên, tách rời khỏi nhân dân như đã từng bị nhiều nhà tư tưởng, nhà văn phê phán; bởi vì người ta đã tìm ra nhiều biện pháp để kiểm soát, điều khiển nó.

Một lý thuyết đúng đắn về nhà nước không thể coi nhà nước là một thứ quái vật như Marx đã từng hình dung, nhưng cũng không thể thần thánh hoá nó. Nhà nước, cũng như những thực thể khác trong xã hội loài người, có mặt tốt và có mặt xấu, có khía cạnh tích cực và có khía cạnh tiêu cực. Chỉ nhìn thấy một trong hai mặt ấy, hoặc tìm cách phủ nhận bằng tư duy trừu trượng một trong hai mặt ấy, đều là bóp méo sự vật, đem lại cái nhìn phiến diện; và những giải pháp xuất phát từ những cái nhìn như thế chỉ có thể đem lại sự thất bại mà thôi.



[1]Marcel Liebman, La révolution bolchéviste, collection “Marabout université”, Ed. Gérard & C°, Verviers – Belgique, 1967, tr. 390.
[2]Nguyên văn lời nhận xét của Lenin về chế độ dân chủ tư sản : “Chế độ dân chủ tư sản, tuy là một tiến bộ lịch sử vĩ đại so với thời trung cổ, song trước sau nó vẫn là (…) một chế độ dân chủ chật hẹp, bị cắt xén, giả hiệu, giả dối, một thiên đường cho bọn giàu có, một cái cạm bẫy và một cái mồi giả dối đối với những người bị bóc lột, đối với những người nghèo. (V. I. Lê-nin, Cách mạng vô sản và tên phản bội Cau-xky, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1974, tr.30)



Thư mục

Phần lớn các trích dẫn từ các tác phẩm của Marx và Engels đều dựa trên bộ Tuyển tập Mác & Ăng-ghen do Nhà xuất bản Sự Thật, Hà nội, và nhà xuất bản Dietz Verlag (Berlin, Đông Đức) cộng tác xuất bản trong những năm 1980-1984. Bộ này gồm 6 tập, được dịch từ nguyên bản tiếng Đức. Các trích dẫn từ các bản dịch khác đều có ghi rõ xuất xứ.

Sách:


Từ điển Bách khoa toàn thư điện tử:



Đà Lạt 2000-2001


© 2005 talawas