© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
13.12.2005
Nguyễn Tài
Khúc khuỷu đường đời - Mười một năm liên tục đấu tranh để sự thật và lẽ phải được thừa nhận
(Hồi tưởng và suy nghĩ) 14 kì
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14 
 
Sống được là nhờ có tình bạn trong sáng

Bây giờ đã là tháng 3 năm 1995.

Sắp đến kỷ niệm ngày giải phóng Buôn Ma Thuột, trận mở màn để đi đến chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Cả nước sắp kỷ niệm 20 năm giải phóng miền Nam, thống nhất Đất Nước. Cũng là ngày kết thúc 4 năm 4 tháng 10 ngày tôi bị tù biệt giam từ đầu đến cuối.

Cũng là gần đến ngày 21-3 là ngày trước đây 31 năm, tôi lên đường tình nguyện vào Nam chống Mỹ.

Trong những năm tôi còn ở chiến trường miền Nam, có hai người bạn thân từ kháng chiến chống Pháp, đã tự ý làm những việc hoàn toàn không vụ lợi đối với các con tôi. Anh Lê Nghĩa, ở Hà Nội, biết con trai út tôi thích xem bóng đá, kỳ nào có thi đấu bóng đá, anh ấy cũng gửi sẵn ở nhà một vé cho con tôi. Anh Vũ Tá Ngọc, lúc đó công tác ở Liên Xô, đã quan tâm săn sóc hai con tôi đang học ở bên đó.

Ngay từ lúc nghi vấn chính trị còn đặt đối với tôi, không ngại liên lụy, những bạn bè với đúng nghĩa của từ đó, vẫn đến an ủi và động viên tôi.

Ngay trong Tiểu ban Bảo vệ Đảng cũng có người trung thực, vì chân lý và lẽ phải, vẫn nói hết ý mình, có lúc bị thiểu số trong Tiểu ban.

Anh Linh, anh Kiệt và mấy anh trong Thành uỷ Sài Gòn, kiên trì chính thức phát biểu nhận định của mình, đối với một đồng chí mà mình đã hiểu rõ, vì đã từng chung sống, cùng chiến đấu.

Anh Dịch dũng cảm, không ngại bị trù, đã tố giác việc chữa sổ, nên mọi việc mới sáng tỏ; anh ấy mới qua đời năm ngoái.

Bạn bè và ngay bản thân tôi cũng không giải thích được, vì sao: Một người đã trải qua 2 cuộc kháng chiến gian khổ hao mòn thể lực, lại ở tù biệt giam gần 4 năm rưỡi như tôi; không bị điên, không bị chết vì bệnh hay vì tuyệt vọng? Ngược lại, vẫn sống, và đủ sức phát hiện những vấn đề để đấu tranh “tự cãi cho mình trắng án” (như một người bạn đã vui tính đùa như thế).

Phải chăng, tình bạn, tình người đã giúp tôi sức mạnh để vượt qua những năm đau khổ đó?

Suốt đời còn lại của tôi, tôi ghi nhớ những hình ảnh và những con ngưòi đã có tình đồng chí, tình bạn, tình người như thế đối với tôi.


*


Tôi bỗng nhớ đến một vấn đề mà khi quá tin ở bản Anh văn bị dịch sai, anh Hai Văn đặt ra để nghi ngờ tôi; mà anh Lê Đức Thọ thì hỏi thẳng tôi hôm gặp, là: “Tại sao địch có chủ trương giết cậu, mà cậu không chết?”

Ngay hồi đó, tôi đã có thư trả lời : và đã hỏi lại các anh đó rằng: “Vậy tôi phải chết mới đúng hay sao ?”

Tôi cũng ghi lại đây những sự tương phản đáng phải cười ra nước mắt.

Lúc tôi bị địch bắt. Chúng rất muốn tôi phải nói. Và tìm mọi cách để bắt tôi phải nói. Chúng sẵn sàng nghe, nói càng kỹ càng tốt. Còn tôi thì cố tránh để không phải nói, càng ít càng tốt.

Ngược lại, khi tôi bị Đảng thẩm tra. Tôi đủ để trả lời mọi câu chất vấn của anh Lê Đức Thọ và Tiểu ban BVĐ. Tôi muốn nói, và cần phải nói. Nhưng sau khi tung ra các nghi vấn vô căn cứ, thì dường như anh Hai Văn và Tiểu ban BVĐ lảng tránh, không chịu nghe tôi trả lời. Khác gì đặt tôi vào ngõ cụt. Rồi với tinh thần thất bại chủ nghĩa, cứ nói là không thể làm rõ được vấn đề bản Anh văn, đi đến kết luận treo, giữ nghi vấn (may mà sau này đã làm rõ được).

Từ lâu, tôi đã có chính thức phát biểu về tình trạng vi phạm nguyên tắc trong hoạt động của nhiều cấp uỷ và đảng viên, cán bộ Đảng.

Cũng như thế, về tình trạng vi phạm luật tối thiểu trong hoạt động của cơ quan, cán bộ Đảng và Nhà nước.

Một trong các nguyên nhân là như Lê Nin đã từng nói : “Nếu dốt nát cộng với quyền lực thì như thuốc súng cộng với lửa, sẽ rất tai hại, sẽ cực kỳ nguy hiểm”.

Thực chất có vấn đề mất dân chủ. Không tôn trọng quyền của công dân và của đảng viên. Chỉ mới là nói miệng về dân chủ. Nói một đàng, nhưng làm một nẻo. Người ý thức được quyền này, yêu cầu thực hiện thì trù úm.

Như trường hợp của tôi.

Tôi biết rất rõ là tôi có lẽ phải.

Tôi chỉ yêu cầu hãy công khai, trực diện tranh cãi với tôi.

Nhưng người ta kiếm đủ lý do để tránh né. Không gặp, thì làm sao nói được !

Phải thấy đó là một sự ức chế ghê gớm đối với con người.

Cũng phải nói lại về nghịch lý trong cách làm việc. Tổ chức có quyền nghi ngờ, có quyền buộc tội. Nhưng chứng minh sự nghi ngờ, buộc tôi phải do Tổ chức đưa ra căn cứ, lý lẽ của mình (cũng như Công tố viên trước toà án). Đồng thời, cũng chính tổ chức phải xác minh, tìm lời giải đáp.

Còn ở đây, ngưòi ta suy diễn ra nghi vấn rồi lại cứ bắt người bị đặt vấn đề phải cung cấp chứng cứ để minh oan cho mình !

Sự ức chế chính là ở cách làm việc kỳ lạ ấy.

Thần kinh tôi đã suy nhược sau mấy năm bị giam trong xà lim trắng toát suốt đêm ngày ; nay lại thêm một bước suy nhược mới. Còn may là không phát điên !

Tôi cũng bất giác nhớ đến ngày mới giải phóng Sài Gòn. Bộ đội ta vào trại tù 3 Bạch Đằng, giải thoát tôi trưa 30/4/1975. Đêm đó tạm đưa tôi sang nơi trú quân ở Bộ Tư lệnh Hải quân của Ngụy, cũng ở đường Bạch Đằng. Hôm sau, 1/5/1975, đơn vị này tiếp tục phải hành quân, nên gửi tôi cho đơn vị ở Dinh Độc lập, đợi Ủy ban Quân quản.

Tại đây, thấy anh em bộ đội ta mới vào Sài Gòn, kém cảnh giác quá (trong khi bọn sĩ quan Ngụy ở đây vẫn dễ dàng đến chỗ gom súng, thì anh em mải đi gom lon bia cũ – hình như để làm đèn dầu). Tôi có góp ý với người chỉ huy. Thì anh ta nói rằng: Anh mới ra tù, mà gây rối. Và cho đuổi tôi khỏi Dinh Độc lập (Sau này Sáu Hoàng kể rằng, nếu họ để tôi chờ ở đó chỉ 1 giờ nữa thì Sáu Hoàng vào đến nơi này, là gặp ngay).

Ra đường, không một xu, quần áo mặc của người khác, râu ria tua tủa. Chưa biết tính sao, thì gặp hai cháu nữ sinh, trạc 15, 16 tuổi, đồng phục trắng, ở một phố gần Dinh Độc Lập. Hai cháu hỏi thăm tôi; tôi mới ra tù, tìm đến Ủy ban Quân quản, nhưng chưa gặp được ; nên tìm về nhà cơ sở ở Bình Thới. Hai cháu liền bảo tôi đi theo. Đến một bến chờ xe buýt gần nhất, hai cháu cùng tôi lên; lấy vé cho tôi vào chợ Bến Thành. Hết chặng, hai cháu từ biệt ; nhưng mua vé khác cho tôi về Bình Thới, và gửi một bà không quen cùng chuyến xe, dặn là khi đến Bình Thới thì nhắc tôi xuống.

Cho đến nay, tôi không biết tên hai cháu đó. Năm nay, chắc họ đã có gia đình.

Cách đối xử giữa đồng chí với nhau, mà không bằng người không hề quen biết.


*


Đêm 1/5/1975 ở nhà anh chị Ba, tôi đã ghi lại ở một bản khác rồi.

Sáng 2/5/1975, bỗng cháu Nhơn, con trai lớn của anh chị Ba, thoát ly từ đợt hai Mậu Thân, dừng xe ôtô ngay cửa nhà. Vào nhà, chưa kịp hỏi thăm ba, má – cháu thấy tôi, ôm chầm lấy tôi và khóc. Thì ra các đồng chí ở T4 cũ, không ai ngờ là tôi còn sống sót trở về. Hỏi, mới biết cháu vẫn đi bảo vệ anh Sáu Dân. Trên đường cùng anh Sáu Dân vào tiếp quản Sài Gòn, cháu được anh Sáu Dân cho ghé thăm gia đình. Cháu vội đi báo ngay cho anh Sáu Dân là tôi còn sống. Lát sau anh Sáu Ngọc (Lê Thanh Vân) và anh Hai Ngọ (đều là cán bộ an ninh T4 từ thời tôi phụ trách) đến nhà anh chị Ba đón tôi về Công anh Thành phố. Vài ngày sau, tôi làm kiểm điểm với Thường vụ Thành Ủy, được công nhận Đảng liên tục. Và theo quy định của Ban Bí thư, được phân công ngay theo chức vụ cũ là Uỷ viên Thường vụ Thành ủy Sài Gòn, Trưởng ban An ninh. Và tôi đã đảm nhận ngay công việc từ những ngày đầu Sài Gòn giải phóng.

Anh Trần Quốc Hoàn vừa vào đến Sài Gòn, được tin, đã thu xếp gặp thăm tôi ngay. Và điện về Bộ là tôi còn sống; báo tin ngay cho gia đình tôi.

Nhưng do làm việc căng thẳng, sức tôi xuống nhiều. Đang ngồi ăn, mà cơm vọt ra đằng miệng. Đêm chỉ ngủ được vài tiếng.

Trong dịp Đảng ủy đặc biệt tiếp quản và Thành ủy Sài Gòn được cấu tạo lại thành một cấp ủy, hồi tháng 6-1975, tôi được về Bắc để đi chữa bệnh.

Sau 11 năm liên tục ở chiến trường miền Nam, tôi mới được nhìn lại Hà Nội.


*


Và sau đó, như một sự trùng hợp ngẫu nhiên, tôi đã phải trải qua đúng 11 năm nữa, chịu đựng oan trái, và liên tục đấu tranh gian khổ trong nội bộ Đảng và Công an, để sự thật và lẽ phải được thừa nhận.

Một sự trùng hợp ngẫu nhiên khác: Tôi bị địch bắt ngày 23-12-1970. Quyết định của Ban Bí thư TƯ Đảng khoá VI, khôi phục sự thật và lẽ phải đối với tôi được ký đúng ngày 23-12-1988.

Sự oan trái xảy ra, chỉ do sự làm việc hồ đồ ban đầu, lại rất thiếu trách nhiệm của chính cán bộ ngành Công an, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo.


*


11 năm, nếu cố tìm trong cái xấu có được cái tốt, trong cái dở có được cái hay; thì rút lại tôi đã được tôi luyện thêm một bước. Và một lần nữa, tôi đã tự khẳng định và chứng minh được: Tôi vẫn là tôi, trước sau như một.

Đọc lại Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi tâm đắc bài “Nghe tiếng giã gạo”:

Gạo đem vào giã bao đau đớn,
Gạo giã xong rồi, trắng tựa bông;
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công.

Còn đối với ngành Công an thì một bài học về xây dựng lực lượng phải nghiêm túc đặt ra là: Tính trung thực của ngưòi cán bộ Công an, nhất là người cán bộ Bảo vệ nội bộ.

Năm nay tôi đã 76 tuổi. Nghỉ hưu đã 10 năm. Trong 10 năm đó, với lương tâm hoàn toàn thanh thản, tôi thấy rằng: Tốt hay xấu, vui hay buồn, vinh quang hay tủi nhục đều sẽ qua đi; tất cả đểu lùi vào dĩ vãng. Trong cuộc sống hàng ngày, tôi đã quên những điều xấu mà người khác đã gây cho tôi; mà chỉ luôn nhớ đến những điều tốt, - dù nhỏ - mà người khác dã giúp cho mình.

Khi chép và chỉnh đốn lại những trang nhật ký cũ, tôi không hề có chút ý nghĩ oán hận người này hay ngưòi khác trong cuộc.

Tuy nhiên, nếu bản hồi ký này của tôi không phải là để đọc cho vui, thì nhiều vấn đề coi như bỏ ngỏ.

Hà Nội 10/1977 – 4/1995 - 4/1997 – 12/2002
Nguyễn Tài (Tư Trọng)




Phụ lục


Hà Nội, ngày 12/9/2003

Kính gửi đ/c Nguyễn Khoa Điềm,
Trưởng ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương
Đồng kính gửi Thường Trực Ban Bí thư “để báo cáo”
đ/c Lê Khả Phiêu, nguyên TBT BCHTƯ Đảng khóa VIII
Đảng ủy Công an Trung ương “để biết”

I. Tôi xin cám ơn Đồng chí Nguyễn Khoa Điềm đã thông qua đ/c Hoa (cán bộ của Ban TT-VH TƯ) chuyển cho tôi bản chỉ thị số 25–CT/TW đề ngày 25/12/1977 do đ/c Lê Khả Phiêu ký, T/M Bộ Chính trị.

Tôi cũng đã gửi tay đ/c Hoa một bộ photocopy 8 văn bản chính thức để nhờ chuyển đến lãnh đạo Ban TT-VH TƯ, gồm:

- của BBT các khoá IV (số 254–10/12/1977 và số 908–18/8/1979) khóa V (số 1519–31/7/1981) và khoá VI (số 570–23/12/1988).

- của Tiểu ban BVĐ (số 149 ngày 10/12/1977), của ban Thượng vụ Thành uỷ Sài Gòn (số 33 ngày 8/4/1978); của ban cán sự Đảng Bộ Nội vụ (số 14 ngày 5/1/1981)

(Theo chế độ lưu trữ hồ sơ của Đảng, ắt là tại văn phòng TƯĐ hoặc Ban Tổ chức TƯĐ cũng đều còn phải lưu đủ các văn bản kể trên; đủ để chứng minh cho tôi.)

II. Theo nhận thức của tôi, trong chỉ thị số 25 của BCT khoá VIII có 2 câu chủ yếu nhất.

1. Đó là:

BCT yêu cầu các cán bộ đảng viên khi phát ngôn, viết bài, viết hồi ký nếu có những nhận định “về các sự kiện lịch sử và các cá nhân” các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước khác với những nhận định đánh giá chính thức” của Đảng thì “phải xin ý kiến cấp uỷ, tổ chức Đảng có thẩm quyền, nếu được đồng ý mới được truyền bá công khai”.

2. Như vậy có nghĩa là phải phân biệt rõ 2 trường hợp:

- trường hợp không phải xin phép ai cả, mà vẫn được tự do công bố bởi các sự kiện lịch sử và các cá nhân đều đã có văn bản chính thức của cấp có quyền trong Đảng kết luận (ví dụ của Ban Bí thư các khoá từ IV đến VI).

- trường hợp phải xin phép và chỉ khi được phép mới được truyền bá công khai (bởi chưa có văn bản chính thức nào của cấp có thẩm quyền quyết luận).

III. Tôi xin dẫn chứng bằng việc tôi bị nghi oan và đã được minh oan:

1. Căn cứ để đình chỉ công tác được viết trong công văn 149/ BVĐ ngày 10/12/1977 là: “ta có phát hiện được bản tài liệu mật trong chiếc valy của một người nước ngoài trong dịp sang Việt Nam; bản tài liệu ấy có liên quan đến đồng chí mà bọn CIA Mỹ đã thanh toán trong thời gian chúng giam giữ đồng chí”.

Năm 1978, khi đ/c Nguyễn Duy Trinh – Thường trực Ban Bí thư chỉ thị cho kiểm tra lại xuất xứ của bản Anh văn, thì chứng cứ đã bị sửa chữa và đồng LQ Thân tiếp tục khẳng định với Ban Bí thư rằng đúng nó đuợc chụp từ tài liệu của người nước ngoài; Dẫn đến kết luận “treo“ số 908 ngày 18/8/1979 của Ban Bí thư ”Hiện nay đối với một số người trước đã bị địch bắt giam, trong đó đ/c NT, Đảng chưa có điều kiện làm rõ một vài điểm cần phải làm rõ trong tài liệu ấy được của địch, những điểm đó cần phải tiếp tục làm rõ thêm”.

Cho đến cuộc họp ngày 24/11/1980 của tập thể Ban Cán sự Đảng Bộ Nội vụ thì đã nhất trí kết luận và đã có báo cáo chính thức số 14 ngày 5/1/81 lên Ban Bí thư “trong một cuộc họp, do cho bản tài liệu tiếng Anh là chụp trong số tài liệu ở va ly người Nhật, nên đồng chí Hồng Trang đã sửa lại số phim chụp tài liệu Nhật từ số 116.. đến 11699” (thực chất là sửa chứng cứ và phạm pháp). Qua xác minh lại thì “kiểu phim chụp bản tài liệu tiếng Anh có tên đ/c NT không phải chụp từ tài liệu lấy trong va ly người Nhật, mà chụp từ bản tiếng Anh do cán bộ Cục chống gián điệp đưa”; “Về trách nhiệm trong việc nhầm lẫn này chúng tôi sẽ cho kiểm điểm làm rõ trách nhiệm từng đơn vị, từng người”.

Bởi thế trong kết luận số 570 ngày 23/12/1988 của Ban Bí thư khoá VI, ngay tại điều 1 đã viết “Tài liệu làm căn cứ cho việc đình chỉ công tác đối với đồng chí NT để thẩm tra là không đúng.”

3. Về vấn đề cơ sở:

a) Tập thể Ban Thượng vụ thành uỷ Sài Gòn làm việc cùng đại biểu của tiểu ban BVĐ đã có công văn số 33 ngày 8/4/78 trong đó kết luận “Đối chiếu với tài liệu ta đã có và tài liệu địch mà chúng tôi thu được cho đến nay ở Cảnh sát và đặc uỷ trung ương tình báo Nguỵ thì thấy không có gì là mâu thuẫn. Như vậy cho đến nay, một lần nữa chúng tôi xác nhận như bản Kiểm điểm ngày 7/5/1975, đ/c Tư Trọng đã bảo vệ được cơ sở, cán bộ, phong trào và tổ chức của Đảng ở thành phố mà đồng chí biết”.

Ban cán sự Đảng Bộ Nội vụ, ngày 19/3/1980 đã có báo cáo số 112 BC/BCS gửi lên Ban Bí thư “Xác nhận khi đồng chí NT được điều động vào công tác ở An ninh trung ương cục, thì Bộ Công an không giao cơ sở cho đ/c NT, do đó nên khi đ/c NT bị địch bắt thì không có cơ sở nào của BCA bị phá vỡ.”

b) Bất chấp các văn bản chính thức đã khẳng định như trên, tại kết luận 1519 ngày 31/7/1981, đ/c Lê Đức Thọ đã thay mặt Ban Bí thư vẫn viết: “Có lúc đ/c Tài đã dao động, do đó đã phạm khuyết điểm khai báo với địch một số cơ sở của Đảng nhưng không quan trọng, BBT đã phê bình khuyết điểm nói trên của đ/c Tài”.

c) Với tinh thần tôn trọng sự thật tại kết luận số 570 ngày 23/12/1988 BBT khoá VI đã viết: “Kết luận này thay cho kết luận 908 ngày 18/8/1979 và 1519 ngày 31/7/1981”. Mà nó cho ngay thẳng là đã bác bỏ 2 kết luận sai sự thật, trước đó tuy cũng của BBT.

III. Tập hồi ký của tôi nhan đề Khúc khuỷu đường đời kể lại diễn biến từ khi bị đình chỉ công tác do bị nghi oan cho đến khi được minh oan là căn cứ trên các văn kiện chính thức của BBT các khoá IV, V, VI; cũng như các văn bản chính thức của các cơ quan, cấp uỷ có trách nhiệm liên quan. Nội dung hồi ký chỉ minh hoạ bằng những sự kiện, những hành vi cụ thể. Nên nó hoàn toàn đúng với các nhận định chính thức của Đảng (kể cả việc BBT khoá VI sửa lại 2 kết luận của BBT năm 1979 và 1981); vậy không thể coi là tôi nói khác với nhận định của Đảng.

- Từ thực tế đó, quan điểm và nhận thức của tôi là tập hồi ký của tôi không thuộc loại phải xin phép trước khi công bố. Và tác giả tự chịu trách nhiệm về sự thật của các minh hoạ.

- Quan điểm và nhận thức như kể trên của tôi cũng hoàn toàn phù hợp tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình.

Nói về tự phê bình và phê bình (trong Hồ Chí Minh toàn tập NXBCTQG - Tập V, trang 261). Bác Hồ đã viết: “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó, như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc, chân chính. Cán bộ càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình”.

Như vậy, theo Hồ Chí Minh “Trong ĐCS từ việc đến người - đều không có vùng cấm phê bình”.

Cho nên Đảng hô hào học tập tư tưởng Hồ Chí Minh; thì phải hô hào làm đúng và đầy đủ tư tưởng HCM (như dẫn trên) thì mới là đúng. Nếu cấp bộ nào hay cơ quan nào trong Đảng mà quy định có “vùng cấm phê bình” là sai tư tưởng Hồ Chí Minh (không thể chỉ hô hào “học” mà không đòi hỏi “làm theo đúng” HCM) và phải chấn chỉnh ngay.

IV. Nếu các đồng chí có sự hiểu biết sâu sắc hơn đối với lời văn của chỉ thị 25 nói ở đây, thì tôi mong được chỉ giáo thêm.

Đ/c Lê Khả Phiêu là người ký chỉ thị số 25, cùng nhiều đ/c uỷ viên Bộ Chính trị khoá VIII nay đều còn sống; đều có thể phát biểu làm rõ nội hàm của chỉ thị số 25 nói ở đây (đúng với tư tưởng HCM).

Nếu sau một tháng kể từ ngày nhận thư này của tôi mà các đồng chí không có ý kiến nào khác, giải thích cho tôi hiểu, thì mặc nhiên phải coi ý kiến của tôi là đúng và được chấp nhận.

Xin cám ơn và kính chúc sức khoẻ các đồng chí.

Kính,

Nguyễn Tài

Nguồn: Tài liệu chÆ°a xuất bản, lÆ°u hành dÆ°á»›i dạng samizdat. Bản Ä‘iện tá»­ do talawas thá»±c hiện