© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngVăn hoá và phát triển
25.1.2006
Phan Khôi
Cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta
4 kì
 1   2   3   4 
 
VIII. Về cái thuyết trung dung

Tôi phải thú nhận rằng cho đến ngày nay tôi vẫn chưa hiểu rõ trung dung là cái gì. Theo lẽ, cái gì không hiểu rõ thì không nên phê bình nó; song tôi lại có đủ lẽ khác để phê bình cái thuyết trung dung.

Trước hết tôi phải gạn lại về cái định nghĩa (définition) chữ trung dung.

Thuyết trung dung thấy ra trong sách Trung dung. Sách nầy cũng nguyên là một thiên trong Lễ ký mà Tống nho lấy ra như Đại học. Trình tử cho rằng lời của Khổng Tử truyền lại, rồi sau cháu nội ngài là Tử Tư chép lấy. Lời Trìnhh tử đó tin được, là vì trong sách Trung dung, chương nào cũng có chữ “Tử viết” tỏ ra là lời đức Khổng Tử nói. Lại trong sách Luận ngữ, là sách đáng tin hơn hết, cũng có một chỗ nói về trung dung.

Đương thời Khổng Tử và Tử Tư, trung dung nghĩa là gì, chắc ai ai cũng hiểu với nhau. Nhưng lâu đời rồi chữ nghĩa khác lần đi, người ta cần phải chú thích mới hiểu được. Trong sự học vì điều đó mà sanh ra nhiều cái khó.

Về chữ trung dung, theo Trình tử giải thích thì trung là không thiên lạch, dung là không thay đổi. Song le, chính đức Khổng Tử có nói rằng: “Quân tử theo lẽ trung dung, vì đã là quân tử mà lại theo thời lấy trung” [1] . Như vậy, đã theo thời lấy trung thì lẽ trung mỗi thời một khác, sao lại gọi là không thay đổi? Ở nơi khác, Trình tử lại nói: “Chữ trung rất là khó biết, ta phải hiểu ngầm trong lòng. Giả như một cái phòng thì chính giữa phòng là trung; một cái nhà thì chính giữa nhà là trung nữa; một nước thì chính giữa nước là trung, mà cái nhà hồi nãy lại không phải là trung” [2] . Vậy thì Trình tử lại đã nhận cho trung có thay đổi rồi.

Chu tử chừng như đã dòm thấy chỗ mâu thuẫn của Trình tử, bèn giải chữ dung ra nghĩa khác. Giải rằng: “Trung không có cái thể nhứt định, theo thời mà ở, ấy là cái lẽ bình thường” [3] . Xin độc giả nhớ lấy, Chu tử giải chữ dung là bình thường. Đã là lẽ bình thường thì ai ai cũng có thể hiểu được mới phải. Nhưng chính đức Khổng Tử lại nói rằng: “Lẽ trung dung thật là tột vậy thay, đã lâu rồi, người ta ít làm theo được!” [4] . Ngài lại nói rằng: “Thiên hạ, nước nhà, có thể quân bình được; tước lộc, có thể từ đi được; gươm dao, có thể xông vào được ; chớ trung dung, không thể làm theo được!” [5] . Ngài lại nói rằng: “Quân tử nương theo lẽ trung dung, trốn đời, đời chẳng biết mình mà mình chẳng ăn năn, duy có ông thánh mới làm được như vậy” [6] . Đó, cứ như mấy lời ngài nói: “Người ta ít làm theo được”, “không có thể làm theo được”, “duy có ông thánh mới làm được”, thì sao lại gọi là lẽ bình thường?

Coi đó thì một chữ dung mà Trình Chu trái với Khổng, Chu Trình lại trái với nhau, Trình lại trái với Trình nữa, rối như vò tơ, mờ như sa mù, tôi chẳng biết đường nào mà nói.

Đến chữ trung, thì Trình Chu giải nghĩa đều giống nhau, cho là chính giữa cả. Cứ như lời ví dụ về phòng, nhà, nước của Trình tử trên kia thì chừng như có thể hiểu được. Thế nhưng, cái phòng cái nhà là hữu hình để mà tìm ra cái chính giữa của nó được, còn sự lý vô hình thì biết cái chính giữa của nó ở đâu mà mò? Trình tử chưa phải là người lập ra thuyết trung dung, thôi thì bỏ đi mà hỏi Khổng Tử.

Khổng Tử có nói về vua Thuấn mà rằng: “Cầm hai đầu cùng, dùng cái trung của nó ra cho dân” [7] . Ngài nói hai đầu cùng và trung, thì tôi tưởng tượng ra hình như một cái thước. Bây giờ người ta đưa cái thước cho tôi, tôi thấy hai đầu cùng rồi, thì tôi tìm ra trung được. Song sự lý trong thiên hạ thật không phải như cái thước, thì biết hai đầu cùng của nó ở đâu mà tìm ra cho thấy cái trung?

Ta nên hỏi đến Mạnh Tử. Mạnh Tử phục Khổng Tử lắm, là vì cái đạo trung dung của ngài. Mạnh Tử có nói rằng: “Dương tử thì vị ngã, nhổ một cái lông mà lợi cho thiên hạ, cũng không làm; Mặc tử thì kiêm ái, mòn từ đầu đến chưn mà lợi cho thiên hạ, cũng làm. Tử Mạc thì chấp trung. Chấp trung thì gần phải” [8] . Mới nghe qua đoạn nầy, tưởng chừng như có manh mối một chút. Dương thì vị ngã, Mặc thì kiêm ái, còn Tử Mạc đứng cửa giữa, không vị ngã quá mà cũng không kiêm ái quá, thế là trung. Câu của Mạnh Tử nói đó có hơi giống với câu của Khổng Tử nói về vua Thuấn mới vừa dẫn trên kia. Như Tử Mạc đây có khác gì vua Thuấn cầm hai đầu cùng mà dùng lấy chỗ chính giữa? Có khác gì biết được hai đầu cùng của cái thước rồi mà tìm ra chỗ chính giữa của nó?

Song có phải vậy đâu; tiếp theo câu ấy, Mạnh Tử lại nói rằng: “Song chấp trung mà không cân nhắc thì cũng như chấp nhứt” [9] . Vậy thì Mạnh Tử chỉ mới cho Tử Mạc là gần phải đó thôi chớ chưa thiệt phải. Vì trung phải có cân nhắc kia, bằng không thì là chấp nhứt; chấp nhứt nghĩa là chỉ cầm có một đầu. Thế là Tử Mạc không phải trung.

Cũng thì bỏ hai đầu cùng tìm lấy chính giữa mà vua Thuấn là trung, còn Tử Mạc không phải là trung, là vì một đằng biết cân nhắc, một đằng không biết cân nhắc. Theo Mạnh Tử thì như vậy.

Bí nhau là tại cái chỗ cân nhắc đó. Đã tìm ra trung rồi mà lại còn phải cân nhắc nữa, thì tôi xin chịu, chẳng biết đằng nào mà cân nhắc. Gặp những chỗ bí như vậy thì các ông Trình tử Chu tử mở đường cho tôi mà dạy rằng mình phải “nghĩa cho tinh, nhân cho thục, đừng có lòng riêng tây của nhân dục một mảy nào” thì tự nhiên thấy mà làm theo được. Dầu vậy thế nào tôi cũng không hiểu? Cũng có khi như tuồng tôi muốn hiểu, là khi tôi thấy trong Luận ngữ có chép về nghi dung đức Khổng Tử mà rằng: “Ngài hòa mà nghiêm, có oai mà chẳng dữ, cung kỉnh mà an” [10] . Trong câu ấy, tôi hiểu ra rằng người thường hễ hòa thì không nghiêm, có oai thì dữ, cung kỉnh thì ra bộ cúm núm quá; song đức Khổng đã được bên nầy mà không mất bên kia, thế là trung. Nhưng ra chỗ khác, ra việc khác, thì tôi lại không có thể lãnh hội như vậy được, cho nên tôi phải nói thiệt tình là tôi không hiểu.

Bởi vậy, tôi quyết luận rằng trung dung là lẽ mầu nhiệm quá trí khôn người, chỉ có như Thuấn, Khổng Tử, ít nữa cũng Mạnh Tử thì mới biết mà làm theo được, còn người thường thì không thể nào hiểu được cả; chính mình Trình tử cũng đã cho là rất khó!

Theo người hiểu thì trung dung là thế nào không biết, chớ theo tôi, tôi không hiểu, thì trung dung thật là một cái thuyết lôi thôi lắm, như tôi đã nói nẻ nóc ra trên kia. Rút lại nó là thế nào mặc lòng, tôi chỉ đánh cho một cái dấu hỏi lớn rằng: Tôi không biết một cái thuyết mà chính người lập ra nó đã trối rằng “gươm đao có thể xông vào, chớ không có thể làm theo nó được”, thì thôi, còn lập ra làm chi? Tôi lại không biết những người kế theo giải thích và phát huy cái thuyết ấy cách trái trấp mập mờ, thì có ích gì cho hậu học?

Của là của quý, không phải sắm cho mọi người dùng, đem mà phơi ra, thành thử người ta dùng bậy. Thật thế, xã hội ta chịu lấy cái ảnh hưởng trung dung ấy mà hóa ra một cái xã hội ương ương dở dở, trắng không ra trắng, đen không ra đen. Ở đời thì quý cái cách không khôn không dại; xử sự thì chuộng cái lối không mềm không cứng. Mua bán cũng trung dung: hát giá một quan, mặc cả năm tiền, dứt giá bảy tiền rưỡi, gọi là “bẻ hom tranh”. Làm ăn cũng trung dung: vốn một ngàn, có thể làm ra ba ngàn, mới được hai ngàn, cầm chừng không làm nữa, gọi là “giữ tay thước”. Vì giữ lẽ trung dung mà việc gì cũng không dám làm thẳng tay: vua Tự Đức đã hòa với Pháp rồi thì cứ việc hòa đi, lại còn sai sứ đi cầu cứu bên Tàu; Mai Xuân Thưởng khởi nghĩa thì cứ việc khởi nghĩa đi, nghe Trần Bá Lộc bắt mẹ, lại đem thân về chịu chết...

(Toà kiểm duyệt bỏ một đoạn)

… Té ra Trung dung chẳng phải là gì cả, chỉ là cái thai đẻ ra khiếp nhược, và là cái ổ chứa gian tà mà thôi!

Tư tưởng bên phương Tây trái với cái thuyết trung dung ta, vì họ chuộng cái thuyết cực đoan. Vậy như một con đường, ta đứng chính giữa mà họ đứng hai đầu cùng. Bao nhiêu học thuyết phương Tây đều là cực đoan cả. Như: về cách tổ chức của nhân loại thì có những cá nhân chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, quốc gia chủ nghĩa, thế giới chủ nghĩa, mỗi cái chạy tới một đầu cùng; về triết học thì có những duy tâm chủ nghĩa, duy vật chủ nghĩa, nhứt nguyên luận, nhị nguyên luận, mỗi cái chạy tới một đầu cùng; về chánh trị thì hai chủ nghĩa phóng nhiệm và can thiệp; về kinh tế thì hai chủ nghĩa tự do và bảo hộ, mỗi cái cũng chạy tới một đầu cùng... Tùy ai muốn chạy tới đầu cùng nào thì chạy, miễn là chạy cho tới nơi, không chịu đứng dật dờ giữa đường. Sự tấn hóa của họ mau lắm là nhờ đó, nhờ cái chia đường ra mà chạy.

Theo đạo Nho, người ta lại bác cái thuyết cực đoan đi. Cuối thiên Công Tôn Sửu thượng trong sách Mạnh Tử, ông Mạnh Tử có nói rằng: “Ông Bá Di, chẳng đáng vua mình thì chẳng thờ, chẳng đáng bạn mình thì chẳng giao, chẳng đứng nơi trào người ác, chẳng cùng người ác nói chuyện, nghĩ rằng đứng nơi trào người ác, nói chuyện cùng người ác, chẳng khác gì đem áo trào mão trào mà ngồi nơi bùn than. Suy cái lòng ghét kẻ ác ấy ra, ông nghĩ rằng mình đứng với người lành mà thấy họ đội mão không ngay, là đi phăng phắc, như hầu nhục đến mình... Còn ông Liễu Hạ Huệ, chẳng lấy vua dơ làm hổ, chẳng lấy quan nhỏ làm thấp, dầu bị bỏ sót cũng chẳng hờn, ách cùng cũng chẳng lo. Cho nên ông nói rằng: Mầy ra mầy, ta ra ta, tuy có trật cánh tay loã lồ ở bên ta, mầy há có thể làm nhục ta được ư? Bá Di như vậy là hẹp, Liễu Hạ Huệ như vậy là bất cung. Hẹp và bất cung, người quân tử chẳng noi theo”.

Đó như Bá Di và Liễu Hạ Huệ là cực đoan đó, Mạnh Tử đã cho là hẹp và bất cung mà không noi theo, thì noi theo cách nào? Giữa thiên ấy, ông Mạnh lại nói rằng: “Chẳng đáng vua mình thì chẳng thờ, chẳng đáng dân mình thì chẳng khiến; trị thì tới, loạn thì lui: ấy là ông Bá Di. Vua nào thờ cũng được, dân nào khiến cũng được, trị cũng tới loạn cũng tới: ấy là ông Y Doãn. Đáng làm quan thì làm quan, đáng thôi thì thôi, đáng lâu thì lâu, đáng mau thì mau: ấy là đức Khổng Tử... Ta thì muốn học đức Khổng Tử”.

Đây thêm Y Doãn nữa cũng là cực đoan. Nhưng Mạnh Tử cũng bỏ đi mà muốn học Khổng Tử, vì Khổng Tử là trung dung. Mạnh Tử thì vậy, chớ chúng ta ngày nay nên học ba ông kia, mặt nào ngả về một mặt là dễ chịu hơn, chớ không nên học Khổng Tử. Cái trung dung của ngài khó theo lắm là vì bốn chữ “đáng” đó. Biết thế nào là đáng?

Hiện nay ở nước Nam ta, có nhiều cách làm cho dân ngu đi, song duy trì hay là xướng minh cái thuyết trung dung ra, là cách diệu hơn thứ nhứt. Vì theo như cái thuyết trung dung như ở trên ba mươi sáu từng trời của ông cháu thầy trò họ Khổng thì chẳng ai theo được; rốt cuộc lại, rồi cũng chỉ “bẻ hom tranh, giữ tay thước” mà gọi là trung dung đó thôi. Cái trung dung ấy, nói cho tận mặt nó, tức là cầm chừng, tức là ở cửa giữa, tức là thậm thà thậm thụt, tức là thủ cựu. Cho nên hễ ai đem cái thuyết trung dung ra mà nói, thì tôi cho là người ấy có ý làm ngu dân.

Nói tới đây, làm cho tôi nhớ sực đến ông Monet. Ông ấy có nói trong sách An Nam tỉnh dậy, tức là bài của ông diễn thuyết cho người An Nam tại Khuyến học hội năm xưa mà rằng: “Tôi bị họ công kích bên tả bên hữu, song kẻ môn đồ của thầy Tử Tư nầy vẫn giữ trung thành với đạo trung dung”.

Rõ thật ông Paul Monet muốn làm ngu dân An Nam mà đã nói trái với lương tâm mình.

Đức Jésus Christ là người chủ trương cái thuyết cực đoan thứ nhứt. Có lần “một môn đồ thưa cùng ngài rằng: Xin chúa cho phép tôi về chôn cha tôi trước đã. Nhưng ngài phán rằng: Hãy theo ta, để kẻ chết chôn kẻ chết” [11] . Lần khác, ngài phán cùng các sứ đồ rằng: Ta đến không phải đem sự bình an cho thế gian mà là đem gươm. Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, dâu với bà gia, và người ta sẽ có kẻ thù nghịch là người nhà mình” [12] . Nhứt là câu này nên đem mà dạy dân nào đã theo đạo trung dung như dân Việt Nam ta và cũng có lẽ là câu ngài nói vào tai ông Monet nữa: “Chẳng ai được làm tôi hai chủ, vì sẽ ghét người nầy mà yêu người kia, hoặc trọng người nầy mà khinh người kia. Các ngươi không có thể làm tôi Đức Chúa Trời lại làm tôi Ma-môn nữa” [13] .

Tôi biết ông Paul Monet theo đạo Gia-tô, ông là một môn đồ sốt sắng của Jésus Christ. Song khi ông nói với chúng ta thì ông lại xưng là môn đồ trung thành của thầy Tử Tư!

Tôi đêm ngày mong mỏi, mong cho đến ngày Jésus Christ tái lâm. Bấy giờ ông La Fontaine, sống lại từ trong những kẻ chết, ra khỏi phần mộ, sẽ đọc lại cho trước là ông Monet sau là tôi nghe bài thơ Con dơi của ông, thì hai chúng tôi đều được vui thích mỗi người một vẻ!

Ta ở vào đời nầy, việc gì ta cũng cứ cực đoan đi, cứ thẳng tay đi, đừng trung dung chi hết. Trung dung thì chết. Mà trong thiên hạ lại có cái trung dung là cái gì!


IX. Cái chủ nghĩa làm quan

Tôi không phản đối sự làm quan. Làm quan cũng như làm các nghề khác, hoặc làm ruộng, hoặc đi buôn, hoặc làm thợ, cũng là một lối sanh nhai của người ta ở đời, việc chi mà phản đối? Nhưng đến lấy sự làm quan làm như là một cái chủ nghĩa, coi nó là mục đích của sự học vấn, thì tôi phải phản đối.

Vì theo cái thuyết minh đức tân dân mà tôi đã nói rõ trong chương thứ VII, nên trong Khổng giáo đã thiệt tình lấy sự làm quan làm một cái chủ nghĩa. Mà hình như chính đức Khổng Tử cũng đã đem cả đời mình hy sanh cho cái chủ nghĩa đó, ví chẳng khác ông Bùi Quang Chiêu ta đã nói to trước mồ ông Tây Hồ mà rằng đem cả đời mình hy sanh cho cái chủ nghĩa Phát Việt đề huề!

Mạnh Tử có nói rằng: “Đức Khổng Tử ba tháng không có vua thì hình như băn khoăn, hễ ra bờ cõi là chở con t n [14] theo” [15] . Thật vậy, cả đời đức Khổng Tử chỉ châu du các nước chư hầu để kiếm một cái địa vị làm quan. Về sự đi của ngài, trong sách nói rằng “triệt hoàn liệt quốc” nghĩa là dấu bánh xe quanh khắp các nước, cũng như tiếng An Nam ta nói “đi mòn đường chết cỏ” vậy, thì biết rằng ngài đã đi lung lắm. Sau hết, các vua các nước không có ông nào dùng được ngài, mà ngài cũng đã già rồi, mới chịu về nước Lỗ là quê hương mình. Cái thái độ ngài như vậy, cho nên có một lần, Vi Sanh Mẫu, chừng cũng là vai lớn hơn ngài thì phải, xách quai nôi ngài ra mà bảo rằng: “Khâu ơi, chớ chú làm cái gì mà lăng xăng vậy, có lẽ là chú làm nịnh ư?” [16]

Chữ “nịnh” đó theo tiếng An Nam ta là “lém lỉnh”, như kiểu bọn du thuyết hồi Chiến Quốc, đến đâu cũng trổ cái tài ba tấc lưỡi để được làm quan. Thế mà Vi Sanh Mẫu đến nỗi lấy điều ấy nghi cho ngài, đủ biết rằng sự đã quá lắm.

Tôi không khi nào nghi ngài như Vi Sanh Mẫu. Tôi vẫn hết lòng tin rằng ngài muốn ra làm quan là cốt để hành đạo cứu thời. Ngài từng nói rằng: “Nếu có ai dùng ta, ta sẽ làm nên nhà Châu ở phương Đông” [17] . Có một lần, người ẩn sĩ kia nói nhắn cùng ngài rằng thiên hạ đều loạn cả, ông toan cùng ai biến đổi, thì ngài trả lời rằng: “Nếu thiên hạ chẳng loạn thì Khâu nầy có biến đổi làm chi?” [18] . Lại lần khác Công Sơn Phất Nhiễu và Bật Nật, là hai tên phản thần, đều có mời ngài đến giúp mình, thì ngài toan đến. Dầu về sau ngài không đến, nhưng trong khi Tử Lộ can ngài về sự ấy thì ngài nói quả quyết rằng đến là không hại gì cả, và rằng: “Ta có phải cái bầu đâu, thể nào treo mãi đó mà không ăn?” [19] .

Cứ như mấy lời trên đây thì thiên hạ hồi đó cũng như thiên hạ bây giờ, nghĩa là gặp lúc bước loạn ly, không còn có nhân đạo, mà ngài thì cũng như mấy nhà chí sĩ nhiệt tâm ở đời nay muốn đem cái tài học của mình ra mà xoay đổi cả cuộc đời. Ngài cứ lăng xăng kiếm một cái địa vị làm quan là vì cái lòng sốt sắng đó, chớ không phải là vì ham danh lợi, sự ấy tôi vẫn biết cho ngài và hết lòng tin nữa.

Song le, tôi tin ngài ở đó, mà tôi lấy làm lạ cho ngài cũng ở đó.

Cứ theo lời người thì lúc bấy giờ thiên hạ vô đạo, đại loạn, mà cái chí ngài là muốn biến đổi cả thiên hạ, muốn làm nên nhà Châu phương Đông kia, vậy thì chỉ làm quan mà đạt được cái chí ấy hay sao? Tôi tưởng, làm quan mà đến bậc tướng đi nữa, là cũng không thiệt hành cái chí ấy được. Mà chỉ có làm vua thì hoạ may mới làm nổi công việc to tát ấy.

Thế mà, theo ý ngài thì ngài cứ mơ tưởng “nếu có ai dùng ta”. Ngài cứ phàn nàn “chẳng ai biết đến mình”. Có khi ngài bực mình vì “không làm đạo ra được mà toan cỡi bè trôi nổi trên mặt biển”. Sự đó tôi rất lấy làm lạ.

Tôi thì tôi nói: ngài đã có chí như vậy thì đợi chi ai dùng? Cần chi ai biết? Tội chi lại cỡi bè ra biển làm chi? Sẵn có ba ngàn đệ tử đó, sao ngài không vận động mà nổi lên cuộc cách mạng? Nổi cách mạng đi, rồi ngài lên làm vua quách đi, có thế mới biến đổi cả cuộc đời được chớ. Mà sự cách mạng ở nước Tàu thì có lạ gì, trong Kinh Dịch ngài vẫn nức nở khen vua Thang vua Võ cách mạng, là “thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân”? Thang Võ dám cách mạng, dám làm vua, thì sao ngài lại không dám?

Còn như ngài giữ nghĩa quân thần, thì sao bọn phản thần kia mời ngài mà ngài lại toan đến, và quả quyết đến là vô hại? Dữ kỳ theo lũ phản thần ấy thì thục nhược khởi binh cách mạng, đánh kẻ có tội, vớt dân ra khỏi bùn than, có phải là đường đường chánh chánh hơn không?

Nếu ngài muốn hành đạo, thì, theo thời thế, theo địa vị, ngài chỉ có nước làm vua mà thôi, còn làm quan không ăn thua gì và cũng không xứng đáng gì cho ngài hết. Nhược bằng muốn truyền đạo thì hà tất phải làm quan? Cứ làm như mấy ông giáo chủ kia, như Lão Tử, Thích Ca hay là Jésus Christ cũng được chớ.

Xin độc giả chớ tưởng tôi đem lý sự cùn mà nói tay đôi với ngài. Trên đây tôi chỉ có ý hỏi ngài đó thôi. Vương Sung nhà Hán ngày xưa, có làm sách Luận hoành trong đó có một thiên kêu là Vấn Khổng, va lại hỏi ngài nhiều điều ngặt hơn tôi nữa. Va hỏi được thì tôi đây cũng có quyền hỏi được.

Cái tư tưởng làm quan ấy di hại cho người nước ta nhiều lắm. Cái hồi còn học chữ nho, chẳng có người nào đi học mà không hằm hằm tính việc làm quan. Chỉ khác một điều là cái chủ nghĩa làm quan của Khổng Tử là để hành đạo cứu thời, còn cái chủ nghĩa làm quan của người mình là để cầu danh cầu lợi. Thế nhưng có ai chỉ trích đến chỗ đó thì người ta lại lấy Khổng Tử ra làm xương sống. Rất đỗi có người lại cho sự làm quan là một cái bổn phận của mình, không làm không được. Ông Hoàng Tế, người làng Trà Kiệu, tỉnh Quảng Nam, là một ông thầy dạy tôi năm xưa, đậu cử nhơn đã hơn 15 năm mà ở nhà luôn không ra làm quan. Không giấu chi, thầy tôi không làm quan là vì có ý không muốn hiệp tác với nhà nước bảo hộ. Song đến ngày trên 50 tuổi, thầy tôi thình lình đổi ý mà rằng: “Lẽ nào ta vì có người Pháp mà bỏ hết một cái bổn phận làm người, là bổn phận đối với vua!” Rồi thầy tôi được bổ làm Huấn đạo huyện Quế Sơn. Được mấy tháng thì vừa gặp ngày lễ Chánh chung, quan tỉnh sức trát biểu quan huyện và quan huấn phải đi hầu lễ. Thầy tôi cầm bút ký trong lá trát rồi ném bút mà thở dài và than rằng: “Ôi! Ngũ kinh đem quét đất hết rồi!” – liền cáo bịnh mà về.

Đó là cái thái độ cao thượng của nhà nho ta đó. Song tôi phải lấy làm lạ, thế thì té ra thầy tôi vốn không biết hễ ra làm quan thì phải đi hầu lễ Chánh chung hay sao? Đợi gì đến thò tay ký lá trát rồi mới ném bút đứng dậy về? Hay là biết rồi mà vì nhìn sự làm quan là bổn phận của mình nên phải ra mới được? Ai kia chớ còn thầy cử Trà Kiệu tôi thì chính là vì lẽ sau đó.

Cho đến ngày nay cũng vậy, hễ miễn được cái bằng cấp ở nhà trường rồi, ấy là chen nhau ra làm việc với nhà nước. Cái bụng dạ thì chưa chắc là bụng dạ của Khổng Tử, song cái kiểu cách thì thật là kiểu cách của Khổng Tử vậy...


X. Về cái thuyết khinh nông

Nước ta là một nước thuở nay vẫn lấy nghề nông lập quốc. Đâu đâu cũng nhờ nghề nông đặng mà sống, cho đến mọi sự cần dùng đều lấy ra từ trong hột lúa, củ khoai, trái bắp. Lẽ đáng có một bọn người học thức chăm lo nghề ấy hầu cho mỗi ngày một phát đạt lên để chống với thủy hạn thiên tai mới phải. Thế mà xưa nay trong hạng người ấy chẳng hề có ai chịu mó tay hay là để ý đến nghề nông. Cái sự cày sâu cuốc bẫm chỉ phó cho một lũ dân ngu vô học mà thôi. Như thế, chúng ta còn có hột gạo mà ăn là may phước đó, chớ trông gì trong nước cho thạnh vượng được!

Từ hồi có người Pháp đến đây, thì trường Canh Nông cũng đã lập ra. Theo ở nước khác, thì học trò tốt nghiệp ở trường ấy ra, phải chuyên làm nghề Nông, phải lấy cái sở học của mình mà cải lương mọi sự của kẻ dốt đã làm. Song ở ta đây không hề như vậy! Bao nhiêu người tốt nghiệp Canh Nông cũng thấy ra làm quan làm quyền như các người kia. Coi như cụ Bùi Quang Chiêu đó thì biết.

Tôi nói vậy thì người ta sẽ đổ cho: một là tại phải tùy theo nhà nước dùng, hai là tại không có vốn lớn để cất ra mà làm lấy các công cuộc về nông phố. Song le, đó chẳng qua là lời kiếm cớ để chữa mình, chớ kỳ tình là khác kia.

Tôi nói: đó là vì chịu ảnh hưởng của Khổng giáo. Trong Khổng giáo đã có cái chủ nghĩa làm quan như bài trước đã nói, cái chủ nghĩa ấy thấm trong óc mọi người nên ai ai đi học cũng muốn làm quan. Song cái đường làm quan mỗi ngày một chẹt, thành thử người ta đâm ra đường khác, miễn là sau nầy cũng làm quan được thì thôi, chớ không phải bổn ý muốn làm nghề nông mà đi học canh nông. Huống chi trong Khổng giáo lại có cái thuyết khinh nông nữa, cái thuyết ấy cũng đã choán một phần trong óc sĩ phu nước ta, cho nên dầu có ai thạo nghề canh nông mà cũng không thèm làm nghề ấy là phải lắm.

Không biết làm sao, về nghề nông, đức Khổng Tử nói nhiều lời khinh miệt họ lắm, tôi rất lấy làm bất bình. Ngài nói rằng: “Người quân tử mưu đạo chẳng mưu ăn. Cày vậy mà đói ở trong đó; học vậy mà lộc ở trong đó. Người quân tử lo đạo chẳng lo nghèo” [20] . Có lần, Phàn Trì, học trò ngài, xin học cấy lúa, ngài đáp rằng: Ta chẳng bằng kẻ làm vườn. Phàn Trì ra rồi, ngài nói rằng: Tên Phàn Tu (tên tộc của Phàn Trì) thật là tiểu nhơn thay! Người trên ưa lễ thì dân dưới chẳng ai dám chẳng kính, người trên ưa nghĩa thì dân dưới chẳng ai dám chẳng phục, người trên ưa tín thì dân dưới chẳng ai dám chẳng dùng tình thiệt. Hễ như vậy thì dân bốn phương cõng con nó mà đến, lọ phải cấy lúa làm gì!” [21]

Tôi biết ngài nói đó là nói với một hạng người đi học mà có chí về sự tế thế an dân, đành phải bỏ việc nhỏ để lo việc lớn chớ không phải ngài bảo ai nấy đều phải bỏ nghề làm ruộng mà đi học làm quan cả đâu. Nhưng mà những câu “cày vậy mà đói ở trong đó, học vậy mà lộc ở trong đó” thì nghe nó ra thế nào! Cày mà đói, thì ai còn cày làm chi? Học mà được lộc thì cái học ấy chẳng là đáng khinh bỉ lắm ư? Rất đỗi ngài mắng Phàn Trì là đồ tiểu nhân, rồi lại nói “lọ phải cấy lúa làm chi?” thì thật là quá đáng.

Xét một sách Luận ngữ, thấy Phàn Trì hỏi ngài nhiều lần lắm, nào là hỏi hiếu, hỏi nhân, hỏi trí, hỏi việc chánh trị, lại có khi đánh xe cho ngài, đi chơi với ngài, cũng học hỏi luôn luôn. Chắc ông ta cũng nghĩ rằng kẻ học phải lấy sự trị sanh làm cần, nên lần nầy mới hỏi về sự cấy lúa làm vườn, ngài không biết mà không bảo cho thì thôi, cớ chi ngài lại mắng?

Người ta hỏi sự cấy lúa làm vườn, ngài không dạy cho, lại nói dông dài ra những là người trên ưa lễ, nghĩa, và tín thì dân dưới quy phục, chớ không cần cấy lúa, thì thật là hỏi một đường mà trả lời một đường. Vậy cho biết cái đạo ngài cốt chỉ dạy cho “người trên”, chớ không dạy “kẻ dưới”, trái hẳn với cái bình dân chủ nghĩa ngày nay.

Chẳng phải ngài khinh thị nghề Nông mà lại cũng không coi sự làm ăn buôn bán ra chi. Trong đám môn đồ của ngài có Tử Cống chăm nghề buôn, hễ rẻ thì mua mà mắc thì bán, làm nên giàu có. Có một lần, ngài phẩm bình các học trò mình, ngài cho Tử Cống là “chẳng chịu mạng trời mà lo đi chứa của” [22] . Chữ “chẳng chịu mạng trời” đó, có ý là trời biểu nghèo thì phải chịu nghèo, sao Tử Cống lại cưỡng đi mà làm nên giàu có? Theo ý ngài thì phải “một đai cơm, một bầu nước” như Nhan Hồi cứ ôm lấy cái nghèo mãi thì người khen. Hay là “ăn cơm lức, uống nước trong, co cánh tay mà gối” như ngài thì ngài chịu lắm. Vẫn biết sự an bần cũng là một cái tiết thanh cao, như ngài và Nhan Hồi, tôi há lại không phục? Song xét trong các sách nói về cách Tử Cống làm giàu thì chỉ là rẻ mua mắc bán, như kiểu nhà buôn đời nay; vậy thì cũng là một cách làm giàu chánh đáng, chớ có phải bóp họng thắt hầu hay là ăn cướp ăn trộm ai, mà cho là chẳng chịu mạng trời? Ngài khinh rẻ sự làm ăn buôn bán đã đành, mà nói như thế thì lại thành ra cái khuynh hướng về cái thuyết định mạng (fatalisme), có hại cho sự phấn đấu tấn thủ của chúng ta ngày nay lắm vậy.

Có một lần, ngài đi qua nước Vệ, Nhiễm Hữu đánh xe cho ngài. Thấy dân cư trù mật, ngài khen rằng: “Dân đã đông lắm thay!” Nhiễm Hữu hỏi rằng: “Đã đông thì nên làm gì nữa?” Ngài đáp rằng: “Nên làm cho chúng nó giàu” [23] .

Coi đó thì thấy ngài cũng cho sự làm giàu là cần, nhưng làm giàu cho kẻ khác thì được, còn làm giàu cho mình như Tử Cống thì ngài lại phản đối.

Theo cái ý kiến của ngài đó nên về sau Mạnh Tử cũng khinh rẻ nghề nông mà cho là “việc của tiểu nhơn” [24] . Chữ “tiểu nhơn” nầy tức là chữ “tiểu nhơn” của Khổng Tử dùng mà mắng Phàn Trì hồi nãy, nghĩa là đồ dân ngu, đối với “quân tử” là người ở trên cầm quyền cai trị, do đó mà thành ra cái chế độ tư bổn, lần lần trông thấy trong xã hội có một bọn người ngồi không đó mà ăn, còn một bọn người làm cháy da phỏng trán.

Người An Nam mình vì chịu ảnh hưởng của cái thuyết khinh nông ấy, nên người nào đã ôm cuốn sách đi học là cố chịu kiếm ăn trong sự học đó chớ không lo sanh lý [25] gì cả, một nghề gì cũng không biết. Những người ấy một mai không kiếm ăn trong sự học được, nghĩa là không làm quan được, thì lại xoay ra làm những nghề địa lý, coi tướng, coi số, là nghề phỉnh người ta lấy tiền mà lại mát mặt hơn vác cái cày đi cày. Mà rồi xã hội cũng tôn họ mà kêu bằng “thầy”, sắp hàng họ ở trên những kẻ tay bùn chưn lấm, nai lưng ra làm cho có hột gạo để trút vào mồm mọi người, ôi! nó trái ngược là dường nào!

Chúng ta ngày nay nên vùi những câu của đức Khổng Tử nói xuống dưới đất cái mà đừng có khinh rẻ nghề nông như ngài nữa. Phải coi sĩ, nông, công, thương bằng vai với nhau, đừng có phân ra cao thấp. Xứ Nam kỳ là xứ có những đồng ruộng cò bay thẳng cánh, thế mà mất mùa chơi một năm đã thấy kêu đói tứ tung, mà lại còn không biết trọng nghề nông, thì tôi không hiểu cái học thức của người An Nam là cái gì.


XI. Về sự bao biếm của sách XuânThu

Nhẫn lên bốn chương, về cái thuyết minh đức tân dân, cái thuyết trung dung, cái chủ nghĩa làm quan, cái thuyết khinh nông, tôi cho là bốn điều trong Khổng giáo mà có ảnh hưởng xấu ở xã hội ta. Từ đây trở xuống, tôi sẽ kể ra những điều gì đã có ảnh hưởng tốt.

Có điều này tôi không vì mích lòng Khổng giáo mà phải nói thiệt: trong những cái ảnh hưởng xấu đã nói trên kia, tôi không thấy có phần nào tốt; mà trong những cái ảnh hưởng tốt kể dưới này, lại thấy có phần hơi xấu.

Trước hết xin nói về cái ảnh hưởng của sách Xuân Thu.

Xuân Thu nguyên là một bổn sử ký chép chuyện nước Lỗ là quê hương của đức Khổng Tử và là một nước chư hầu ở dưới quyền thiên tử nhà Châu lúc bấy giờ. Ngài sửa sang bổn sử ký ấy lại mà làm ra sách Xuân Thu, về sau liệt vào làm một kinh trong ngũ kinh. Trong một bổn sách xưa nói về Xuân Thu có nói rằng: “Sách Xuân Thu do chính tay đức Khổng chép lấy, chỗ nào đáng chép thì ngài chép, chỗ nào đáng bỏ thì ngài bỏ; tuy Tử Du, Tử Hạ là tay văn học trong cửa ngài, cũng không giúp được một lời”.

Sách Xuân Thu cốt để bao biếm. Bao, nghĩa là khen những điều phải; biếm, nghĩa là chê những điều quấy. Có vì tiên nho tán dương cái nghĩa bao biếm của sách Xuân Thu mà rằng: “Ngài khen cho một chữ là vinh hơn áo mão của nhà vua ban cho; ngài chê cho một chữ là nghiêm hơn dùng búa rìu mà giết”.

Sự khen chê của sách Xuân Thu là suốt từ việc lớn cho chí việc nhỏ. Đây nói những việc lớn: ai giúp kẻ yếu, chống kẻ mạnh, cứu những nước bị tai nạn, phò những nước bị diệt vong, ấy là được khen, còn những nước chiến tranh nhau, hoặc dùng mưu kế mà khi trá nhau, cùng những con giặc, tôi loàn, và những kẻ phản quốc, thờ quân thù nghịch, thì bị chê. Nói tóm lại, phàm việc gì hại đến cuộc hòa bình của xã hội là bị chê, mà trái lại, là được khen vậy.

Tuy vậy, xét kỹ lại thì cái hiệu nghiệm của sách Xuân Thu, bên khen không có quan hệ lắm bằng bên chê. Cũng có lẽ là vì sự cấm người ta làm điều dữ có công hiệu hơn là khuyên người ta làm điều lành. Bởi vậy ông Mạnh Tử có nói rằng: “Đức Khổng Tử làm nên sách Xuân Thu mà bọn con giặc tôi loàn phải sợ”.

Trên nền Khổng giáo ở nước Nam ta có những tư văn, văn chỉ, ấy là những cái cơ quan để phê bình xã hội theo như cái ý nghĩa của sách Xuân Thu.

Từ hồi có người Pháp đến xứ nầy, nhứt là sau khi cuộc bảo hộ đã thành lập, vì cớ mở miệng mắc quai, nên các hội nói trên đó ngoài một năm hai kỳ tế Thánh ăn thịt uống rượu rồi về không thấy có hành động sự gì; chớ trước kia thì chính các hội ấy đã làm giềng mối, chủ trương cả dư luận trong xã hội. Mỗi một phủ huyện nào cũng đều có hội Văn chỉ, mỗi một ông thầy dạy học lâu năm và đông học trò thì có hội Đồng môn. Những hội ấy rất có thế lực ở dân gian; người ta quen gọi là cái nền “danh giáo” hay là cái cơ quan “thanh nghị”. Chẳng những người trong hội, cho đến người thường ở ngoài nữa, nếu có làm một việc gì phạm tới luân lý, trái với đạo đức thì không thể nào tránh khỏi sự công kích của hội hoặc trực tiếp hay gián tiếp. Có khi một việc trái phép mới xảy ra, pháp luật của nhà nước chưa hỏi đến, mà chính người thủ phạm trong việc ấy đã bị “thanh nghị” làm cho sỉ nhục mà phải hối cải hơn là bị hình phạt. Bởi vậy cũng có khi, ở dân gian, người ta đem những việc bất bình mà cáo với các hội ấy, chớ không cáo với quan.

Hồi xưa người ta sợ “thanh nghị” lắm, sợ đắc tội với “danh giáo” lắm, hơn là sợ tù tội nữa. Bởi vì cái nhục của tù tội còn có chừng, lại có khi theo vua thì bị tù tội, song đối với công chúng lại được khoan thứ; chớ còn đã bị “thanh nghị” công kích, đã bị “danh giáo” loại ra, thì gần như là không còn mặt nào trông thấy ai, không còn biết ở đời với ai, chỉ có nước vạch đất ra mà chui xuống! Cho nên lúc bấy giờ, từ hàng tấn thân cho đến hạng dân giã, ít kẻ dám công nhiên làm bậy như ngày nay. Sự đó tôi không có thể trưng bằng cớ ra đây, nhưng tưởng ai ai cũng công nhận như vậy.

Cái “thanh nghị” do theo ý nghĩa bao biếm của Xuân Thu đó, tôi cho là đối với xã hội ta đã có hiệu lực nhiều hơn là các tín điều của tôn giáo đem buộc các giáo đồ. Cái lẽ đó là vì các tín điều chỉ lấy cái giáo nghĩa của một tôn giáo làm chuẩn đích; còn bên “thanh nghị” thì lấy nhân cách làm chuẩn đích. Phàm người nào làm ra việc gì phạm tới luân lý, trái với đạo đức, tức là làm mất nhân cách của người ấy, “thanh nghị” cứ băm vào chỗ mất nhân cách ấy mà công kích thì nghe nó thiết thiệt hơn. Tôi xin cử ra đây một sự cấm hút thuốc phiện.

Đời Tự Đức, khi chưa hòa với Pháp về trước, triều đình ta vẫn cấm nhân dân hút thuốc phiện. Trong sự cấm ấy, phép vua tuy nghiêm mà cũng không bằng các hội Văn chỉ và Đồng môn. Tôi chưa kịp thấy, nhưng nghe các ông già nói lại rằng lúc bấy giờ thuốc phiện dầu nhiều và rẻ mà ít ai dám hút, nhứt là những người có học, không sợ hình phạt là mấy, nhưng sợ rủi bị hội Văn chỉ hoặc hội Đồng môn ngoại ra thì khốn.

Ta thử đem việc ấy so với hai việc sau nầy. Ở gần miền tôi có một người vô đạo mà ghiền thuốc phiện. Ông cố bắt xưng tội ấy thì anh ta không chịu xưng, nói rằng hút thuốc phiện không phạm vào mười điều răn của Chúa. Lại khi ở Hà Nội, tôi có gặp một ông thầy tu cũng hút. Tôi hỏi chớ thầy không sợ phạm giới sao. Ông ta trả lời rằng trong ngũ giới của Phật vẫn không cấm điều nầy, mà có lẽ hút á phiện thì tiệt được sự sắc dục, lại là có ích cho người tu hành nữa vậy! Coi đó thì thấy rằng cũng đồng một sự cấm hút á phiện mà một bên nói rằng hút thì hư nhân cách, làm cho người ta dễ nghe hơn là bên kia nói rằng hút thì “trái ý Chúa” hay là “mang tội cùng Phật” vậy.

Cái thế lực của các hội Văn chỉ mạnh là như vậy, cho nên gặp khi trong nước có việc thì mọi sự phản động [26] đều do đó mà ra. Ông quan địa phương nào tham ô, bị “thanh nghị” trong hàng tỉnh hay hàng huyện công kích, ấy là có thể bị giáng bị cách, không thì cũng bị đổi đi nơi khác. Sau khi kinh thành thất thủ, các đám cần vương khởi nghĩa toàn là bắt đầu tổ chức từ trong các hội Văn chỉ, các hội Đồng môn. Nói tóm lại, các hội ấy chẳng những chủ trì dư luận mà thôi, lại cũng nắm luôn cái quyền ngấm ngầm về chánh trị nữa.

Hiện nay các hội ấy chỉ còn cái xác mà thôi, song cái hồn nó lại tản mác ra trong dân gian, nó bám vào trong lòng mọi người. Trong khoảng 5-7 mươi năm nay, những người nào tỏ ra là bất trung với bổn quốc, hãm hại đồng bào, thì bị người ta chửi mắng nhiếc móc riêng với nhau. Ở Bắc kỳ, có những sanh phần sanh từ của mấy ông quan to bị người ta đề thơ mà chửi bới, hay là đem đồ ô uế mà ném vào, cùng là lén mà phá cho hư đi. Lại có những người tuy chưa làm ra việc chi đáng trách, chỉ mới nói một vài câu chi đó mà thôi, cũng đã bị cáo là “bán nước dối dân”, rất là khó chịu. Một vạn cái lòng An Nam chẳng có cái nào là chẳng ghét những người làm mật thám, tức Nam kỳ kêu bằng lính kín. Mật thám ở các nước văn minh là những người có phần trong sự giữ cuộc trị an cho xã hội, song theo cái tình thế riêng ở xứ ta lại khác, cho nên người ta ghét cũng phải.

Trong khoảng 4-5 năm nay, có nhiều người khi không [27] mà bị nghi là mật thám. Tôi cũng là một người trong đám ấy. Tôi đã trải qua cái tình cảnh ấy nên nói ra chắc có ý vị. Trong khi ấy, tôi đi đến đâu, người ta chào sơ qua rồi thôi, ít hỏi han chi. Nếu là chỗ đông người thì họ lấy mắt ngó nhau, dường như bảo phải giữ mình vì tôi, chẳng khác nào giữ một đứa kẻ cắp. Ngoài sự giữ gìn ấy họ lại còn hằm hằm mà tỏ ra dáng khinh bỉ. Tôi lại có được thơ nặc danh gởi đến luôn luôn, cái thì khuyên tôi cải ác tùng thiện, cái thì chửi tôi tàn tệ. Tôi chịu những điều đoán phạt oan ức ấy mà lại lấy làm vui lòng, vì nội đó cũng đủ chứng rõ cái lòng ái quốc và cái đức chánh trực của dân tộc Việt Nam. Tôi nói: dân tộc ta mà sau nầy có ngày cất đầu lên được, là nhờ ở chỗ đó. Chỗ đó, ta phải cảm ơn Khổng giáo, ta phải nhận rõ ràng là sự ban tứ của sách Xuân Thu.

Tiện đây, ta cũng nên cứ thiệt mà trần khai cho chánh phủ Pháp ở đây biết rõ một điều. Chánh phủ làm việc gì mà nói rằng ấy là theo dân ý, là cái dân ý ở đâu? Mấy ông hội đồng An Nam chăng? Mấy tờ báo quốc ngữ chăng? Không phải đâu. Nếu chánh phủ muốn tìm cho ra cái dân ý chơn chánh của An Nam thì hãy tìm ở trong những câu đàm tiếu của dân gian, trong những câu chuyện trò rất tầm thường ở đầu đường xó chợ. Vì cái hồn “thanh nghị” theo kiểu Xuân Thu của sĩ phu An Nam ngày xưa, bây giờ nó đã lẩn lút vào những nơi hạ tiện ấy, trong đó mới có câu chuyện thiệt tình, còn ở đâu cũng đều là giả dối hết. Mà thật vậy, người Pháp có biết cái chỗ bí yếu ấy rồi mới biết cái giá thật của dân tộc An Nam là thế nào.

Ngày nay dầu các hội nói trên kia không còn gì, cái thế lực của “thanh nghị” không có tỏ bày ra như trước, nhưng tôi nói rồi, nó đã bám vào trong lòng mọi người, thì không có bao giờ mất đi được, điều ấy khỏi lo. Lo là lo người An Nam mình kém học, ít nghe, cạn thấy, lại thêm không biết phán đoán, mà ôm cái lòng ghét điều ác quá nồng nàn, bao biếm nhiều khi thất thiệt, thì người ta lợi dụng cái nhược điểm ấy mà gieo điều nghi kỵ giữa chúng ta, thành ra ngờ vực nhau, chia rẽ nhau, thật là một điều rất hại vậy.

Lại còn, những người có tài lỗi lạc, hay cậy có thủ đoạn mà toan làm ra những việc phi thường. Trong khi làm chưa nên việc, bị cái sức ngầm của “thanh nghị” làm cho hư hỏng đi cũng nhiều lắm. Cho nên, làm anh hùng hào kiệt ở nước nào còn dễ, chớ làm anh hùng hào kiệt ở nước An Nam nầy mới thiệt khó, vì dư luận ý chừng nghiêm khắc quá.

Tức như ông Varenne bên Pháp, khi trước liều cho đảng Xã hội xóa tên mình để được đi Toàn quyền Đông Dương, khi trở về rồi lại xin vào đảng lại, thế mà dư luận người Pháp chẳng lấy làm điều, không ai nói chi hết, được ở bên mình thì người ta dị nghị biết bao.

Hai điều vừa nói trên đây là tôi muốn chỉ ra cái chỗ dở của cái ảnh hưởng sách Xuân Thu. Song chỗ đó chúng ta phải nhận là cái chỗ thiên lịch của mình chớ không phải tại chữ Xuân Thu vậy.



[1]Sách Trung dung, chương II.
[2]Sách Mạnh Tử theo Chu Hy tập chú, thiên Tận tâm thượng.
[3]Sách Trung dung theo Chu Hy tập chú, chương II.
[4]Trung dung, chương III.
[5]Trung dung, chương III.
[6]Trung dung, chương III
[7]Trung dung, chương VI.
[8]Mạnh Tử, thiên Tận tâm thượng.
[9]Mạnh Tử, thiên Tận tâm thượng.
[10]Luận ngữ, thiên Thuật nhi.
[11]Thấy trong Tân ước thánh kinh, sách Mathieu.
[12]Thấy trong Tân ước thánh kinh, sách Mathieu.
[13]Thấy trong Tân ước thánh kinh, sách Mathieu.
[14]Ở bản đăng báo chỗ này rơi mất 1 chữ nguyên âm nên hơi khó đoán “con t n” là gì? Nguyên câu trong sách Mạnh Tử là: “Khổng Tử tam nguyệt vô quân, tắc hoàng hoàng như dã, xuất cương tất tải chí” (= Khổng Tử nếu ba tháng không thờ vua nào thì lòng dạ như bàng hoàng thiếu thốn; mỗi khi ngài từ nước này sang nước khác đều mang sẵn theo lễ vật hiến tặng). Ở các từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh và Thiều Chửu có 2 từ “chí”, dạng chữ khác nhau, đều có nghĩa là “đồ lễ”, “của làm tin”, “đồ lễ tương kiến”. Khi dịch câu này của Mạnh Tử, có lẽ Phan Khôi không muốn dịch sát là “đồ lễ”, “lễ vật” nói chung mà muốn cụ thể hóa hơn một chút hành vi của Khổng Tử. Dựa vào gợi ý của một vài bạn nghiên cứu, tôi đoán chỗ này có lẽ Phan Khôi dịch là “... chở con tẫn theo”; tẫn, chữ Hán, trỏ con cái trong các giống chim, thú (LNA).
[15]Mạnh Tử, thiên Đằng văn công, hạ.
[16]Luận ngữ, thiên Hiến vấn.
[17]Luận ngữ, thiên Dương hoá.
[18]Luận ngữ, thiên Vi tử.
[19]Luận ngữ, thiên Dương hóa.
[20]Luận ngữ thiên Vệ Linh Công.
[21]Luận ngữ thiên Tử Lộ.
[22]Luận ngữ, thiên Tiên tấn.
[23]Luận ngữ, thiên Tử Lộ.
[24]Mạnh Tử, thiên Đằng Văn công, thượng.
[25]sanh lý ở đây gần với sinh kế, ý nói việc làm ăn kiếm sống thực tế; hoàn toàn khác sinh lý theo nghĩa hiện nay (LNA)
[26]phản động: ở đây nghĩa là “chống lại”; khác hàm nghĩa “phản động” thời nay (LNA)
[27]khi không: tình cờ, tự nhiên, không có chuyện gì (theo H.T. Paulus Của. Sđd); bỗng dưng, tự dưng (theo Từ điển phương ngữ Nam Bộ, Sđd.) (LNA)
Nguồn: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1929, Lại Nguyên Ân sÆ°u tầm và biên soạn, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2004