© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
Loạt bài: Sách xuất bản tại miền Nam trÆ°á»›c 1975
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18   19   20   21   22   23   24   25   26   27   28   29   30   31   32   33   34   35   36   37   38   39   40   41   42   43   44   45   46   47   48   49   50   51   52   53   54   55   56   57   58   59   60   61   62   63   64   65   66   67   68   69   70   71   72   73   74   75   76   77   78   79   80   81   82   83   84   85   86   87   88   89   90   91   92   93   94   95 
23.5.2006
Gérard de Nerval
Mùi hương xuân sắc
Bùi Giáng dịch
 1   2   3   4 
 
Tựa

"Les hommes sont si nécessairement fous, que ce serait être fou par un autre tour de folie, de n’être pas fou."

(Người ta vốn điên, điên một cách thiết yếu đến nỗi không điên cũng là điên theo một lối khác).

Ấy là lời của? Của một Kẻ Tư Tưởng Âu Châu thế kỷ 17 (mà Heidegger có nói tới trong Sao Gọi Là Suy Tư). Kẻ gay cấn chịu chơi trong triết học, kẻ gây kinh hoàng thán phục cho mọi nhà khoa học những thế kỷ sau – mặc dù cái tên tuổi của y quả nhiên là rất tếu (Pascal) cà gật ba gai.

“Xấp xỉ cùng một thời với Descartes, Pascal khám phá ra cái lý tính của trái tim…” - (của cái tâm hồn vô lượng của uyên nguyên tư tưởng).

Sao gọi là tư tưởng? – từ đó có nghĩa là: sao gọi là “trái tim vĩnh viễn” (Hölderlin) của Vô Lượng Tâm? Là Nhị Vô Lượng Tâm? Hay là tứ ngũ thập vô lượng Lý?

Sau nghìn thế kỷ của ba trăm năm điêu tàn sa mạc, con người Trí Thức Tưởng Giả Da Vàng vẫn điên cuồng nằm ngủ tại “trung tâm” trái bom nguyên tử, và vừa o bế o bồng “Nguyên Tử Tâm” vừa ò e nguyền rủa trái bom ly kỳ da trắng. Vừa thống thiết tự xưng “ta đông phương da vàng” vừa lém luốc dòm dỏ theo đuôi “em tây phương tiến bộ văn minh da trắng".

Quả nhiên thật là là? Là điên theo lối gay cấn? Là cuồng dại theo thể lệ da–vàng–rạng–rỡ-Lục-Hồng-Tích–Tham–Lam?

"Hồng tham
Dự lục tô bồi?"

Không phải không phải không phải. Vì sao không phải? Bởi vì: “Les hommes sont fous, si nécessairement fous, que…"

Điên cuồng thiết yếu bức bách đến nỗi?

Đến nỗi:

Vừa lém luốc dòm dỏ theo đuôi Em Văn Minh Da Trắng vừa ò è uốn éo ưỡn ẹo la to lên rằng Em–Đìu–Hiu–Da–Trắng–vong bản–hơn–Ta–Da-Vàng.

Sông dài biển rộng ngàn thu sau vẫn không sao gột rửa sạch cái chỗ quái dị tâm ly kia của không–lường–đông–phương–sa–mạc. Nghìn vạn Cô Em Mọi Nhỏ đi tiểu trên Nấm Mồ Trung Niên cũng không thể nào vãn hồi được sự huống lém luốc nhà ma bên phương hướng bình minh hòng nhật. “Chắc chi thiên hạ đời nay, mà đem non nước làm rầy chiêm bao." (N.Trãi)

Đem non nước làm rầy giấc chiêm bao của hồng hoang mặt đất? Đáng vào đâu?

Thiên hạ đời nay là gì? Có liên can đến thiên hạ đời nào? Mà chiêm bao là gì? Đem non nước làm rầy chiêm bao suốt bình sinh của hùng tâm thiên hạ? Sao gọi là thiên hạ? Thiên hạ là giữa bụi hồng? Sao gọi là bụi hồng? Là “bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao”? – Khốn nạn khốn nạn! Chiêm bao bèo bọt bóng vang? Bóng vang của vang bóng? Vang bóng của mộng mỵ? Mộng mỵ của chiêm bao? Kết thúc của Vô Lượng Tâm Ba La Mật Bát Nhã? Ồ!

Sương biệt ly bất thình lình là Nguyệt Hồi Phục? Les Chimères là Adrienne Sylvie?

Không phải không phải.

Vì sao không phải?

Bởi vì bởi vì bởi vì? Bởi vì toàn thể địa cầu đang lom lem hình thành Mạt Thế Thể của Sử Lịch Hương Nguyện Tương Lai. Và mọi cuộc cuồng điên vô–sở-tòng–lai–diệc–vô–sở-khứ, và mọi cuộc như–lai calvaire–bí–mật–xứ, và mọi trái bom hòn đạn trút lên đầu lên cổ da vàng da trắng da đen, vẫn không một mảy may nào giải thích được cái nghĩa lẽo đẽo chiêm bao cho bụi hồng đi về hồi phục.

Trong một đêm đông băng giá, Nerval đã thắt cổ hai lần cho tử sinh nhị tử. Nếu Marx Nietzsche trùng sinh thế kỷ này, ắt các ngài sẽ thắt–cổ-ba–lần–ca–vát–thần thông cho “tâm sự di thần triều Lê” được tử diệt thênh thang trong da vàng tình tự.

Tuy nhiên? Tuy nhiên một vạn lời Nguyền Rủa của sử xanh vẫn không thể nào đưa bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao trong Chúc Phúc. Do đó có câu:

“Tiền trình vạn lý đầu hoa
Ngờ đâu cuối tuyết còn xa vô cùng.”

(Tạm gọi đó là lời tiễn đưa cho bọn trí thức trưởng giả lên đường).

Người ta nhớ rằng đầu thế kỷ 19 Nguyễn Du Hölderlin Beethoven cùng đi về trong mùa dự cảm thênh thang. Thênh thang vì ấy chẳng phải dự cảm rằng mình là những “di thần triều Lê nhớ nhung cựu chúa” mà ấy bởi dự cảm bi hùng kịch biển dâu của những thế kỷ sắp tới, và tại thể tự thân phải chịu cưu mang lấy nghiệp dĩ làm Trường Sở Trụ cho một cuộc tranh chấp dị thường giữa những Thần Đế đang đi vào quá khứ và những Thần Đế man mác tương lai. Gánh lấy cái nghiệp kia quả nhiên là nặng lắm. Và bao phen ngôn ngữ loài người đã đành chịu vỡ toang cung bậc vì sự yêu thỉnh khôn hàn của cuộc hình thành một Thần Đế Thể bất khả tư lường đối với đám đông quần chúng huynh đệ. Niềm cô độc mênh mông xâm chiếm trái tim một vài người của nòi dự cảm. Trước một Hoàng Hôn của Sử lịch và sau một Đêm Dài Bất Tận của Sử Xanh, niềm dự cảm quy lại về một Bình Minh không tên tuổi. Và sự đó yêu sách liên miên những dông bão (nội tâm) song song với những chói chang gay gắt và những tà ngậm ngùi. Những vũ tuyết, những vân sương, xô ùa nhau gào kêu thị hiện và hình thành trong tinh thể khác.

“Bờ bến lạ lá cây rung cùng tột
“ Trận điêu tàn bào háo nhị giai nhân…”

Sau Nguyễn Du Hölderlin một phần ba thế kỷ, những Huyễn Mộng (Les Chimères) Nerval lại khiến cho những lá Cây Dự Cảm Bờ Bến Lạ rung lên tuyệt trù lần nữa. Không biết bao nhiêu Trận Điêu Tàn bào háo từ đó đã xảy ra. Les Fleurs du Mal, Une Saison en Enfer, Zarathoustra… Toàn nhiên là tinh hoa Tây Phương Hy Lạp Địa? Trừ Nguyễn Du, Đông Phương Trung Hoa Ấn Độ Thổ tuyệt nhiên không một Linh Hồn Thái Bình Dương nào cảm ứng nổi cái trận điêu tàn bào háo bờ bến lạ bên những lá cây cùng tột rung lên (…) Đông Phương đã tiếp tục ngủ vùi giữa những trầm thống thất thanh kia. Và lúc sực tỉnh ra thì chỉ biết thống thiết chạy theo đuôi một cái đuôi hút heo tan nát, vừa chạy theo đuôi vừa gào to lên rằng mình vừa chộp được một cái đầu thật bự.

Sự tình ấy tiếp diễn miên man quái gở cho đến khản kha thay là sự huống đi về ở giữa thế kỷ hai mươi trong tình-huống-da-vàng–xuân-xanh sái-dị…

Xuân thu trang điểm tình hình
Nghe đâu tình trạng nhớ tình huống xưa (…)
Chạy quanh vườn cỏ năm sau
Chép câu tội lỗi từ bao nhiêu lần (…)

Những “vườn cỏ năm sau” đang lên đường đi về trong Kết Tập những “vẻ diễm kiều của mặt đất mẫu thân”. Mặt đất đã rung lên bao phen não nùng trong đắm đuối, kể từ thuở ấy đến nay? Kể từ những mùa hạ sơ khai đầu–tường–lửa–lựu–lập–lòe–đâm–bông? Kể từ những mùa xuân sơ nguyên sơ thủy nách-tường-bông-liễu–bay–sang-láng giềng?

Không biết không biết. Vì kể từ bấy là kể ra bao. Kể ra bao là kể vào bấy. Bao bấy theo nghĩa: bao-bấy-chầy.

“Bấy–chầy chưa tỏ âm hao”
(Nguyễn Du)

“Hoặc là trong có làm sao chăng là?”
Chính thế.

Sau bao nhiêu những bấy–bao–chầy–bấy–chăng–là cuộc cơn “chưa tỏ âm hao” kia vẫn tiếp tục lũ lượt đi về trong từng phen phen nối đuôi lả tả tứ điệp ngũ trùng của đảo tứ điên tam.

"Hoặc là trong có làm sao chăng là?"

Vấn cú được nêu ra trầm thống đơn sơ trong tịch mịch. Nhưng chưa một lần nào Đông Phương nghe ra lời chất vấn là là, hoặc, chăng, chăng, bấy bấy, chầy chầy, trong trong, có có…

Bấy chầy
Chưa tỏ
Âm hao
Hoặc
Là? Trong

Làm
Sao? Chăng? Là?

Mà oái ăm sao là cái âm hao đi về trong bóng nhạn. Trong cánh hồng bay bổng. Trong cái ngoài song thỏ thẻ oanh vàng.

“Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng
Nách tường bông liễu bay sang Láng Giềng”

Bay sang láng giềng để hình thành cận lập cái chi? Cái Lãnh Địa Mnemosyme của Đầu Thai Ký Ức?

Không biết không biết không biết.
Vì sao không biết?
Vì tình hình tình huống tự tình của tình trạng hoàng hôn trong Phố Chợ Chiều lâm ly trong tình duyên sa mạc?
Không hẳn không hẳn không hẳn.
Vì sao không hẳn?
Vì ấy bởi “Xuân thu trang điểm tình hình, nghe đâu tình trạng nhờ tình huống xưa…”

Và do đó, mọi sự đã thênh thang đi vào trong bao dong Chiều Phố Chợ tham dự đầy rẫy những lục hồng.

“Một chiều phố chợ thênh thang
Chanh hồng quít lục thu dàn loạn ly
Mắt xanh hình thể trụ trì…”

Trân trụ trì hình thể mắt xanh kia từ đó thoắt nhiên là ân lộc. Ân lộc của ân huệ từ bi nảy ra từ trận điêu tàn ban sơ bóng nhạn của Quy Lai trầm luân trong Hồi Phục đắm chìm trong từng trận “di hồn tuyệt yến Dã Man Oanh”.

“Du hý mộng trường mao vũ tận”
(Hồi đầu, nghiệt hải Thích Ca Thân)

Có thể là như thế đấy chăng? Là Trận Chào lưu ly giữa phù du phong vân hồi phục?

(Mắt xanh hình thể điêu tàn
Chào cô Gái Lạ cô càng lạ thêm)

Nguyễn Du đã chào cô Gái Lạ Triều Minh. Từ Hải đã chào cô Gái Lạ Lầu Xanh. Homère đã chào cô Gái Lạ Troyenne Nữ Vương Andromaque. Ulysse đã chào cô Gái Lạ Phéacienne, Công Chúa Nausicaa. Nerval đã chào cô Gái Lạ Thiên Thu Thánh Nữ Thấp Thoáng Andrienne Nghìn Thu Thuần Nhiên Sylvie Phơ Phất. Trung Niên cũng còn có thể tha hồ chào mọi mọi Em Mọi Gái Lạ Brigitte Marilyn. Trên muôn ngàn tàn phế điêu linh của Mẫu Thân Mặt Đất, nghìn nghìn kẻ kẻ người người đã chào chào đón đón nghìn nghìn những Quốc Sắc kết tập những Châu Thổ Lãnh Địa Diễm Kiều. Để làm gì?

Để muôn vạn lầm than bụi hồng tro than lẽo đẽo, muôn nghìn thảo hoa dựng dậy trên muôn nghìn tàn phế của tích lục hồng cho hồng tham dự lục tô bồi… và sau đó?

Sau đó chúng ta xúm xít đi về, lũ lượt nối đuôi nhau tràn lan nêu câu hỏi: cớ sao tham hồng tích lục? Cớ sao mà chào? Cớ sao mà tích tham lại di hồn lục hồng về tham dự? Cớ sao mà sau trận điêu tàn bào háo nhị giai nhân, thì toàn thể những Nương Tử Sử Xanh bỗng nhiên bất thình lình quy lai về tinh hoa tuyệt trù quái dị lâm ly trong bước đi của Bà Hiệu Trưởng.

(Bà đi thể lệ bước ra
Tay khăn tay áo tà hoa thêu thùa
Bà về cỏ rậm giậu thưa
Đêm tàn cấm nguyệt chiều trưa lâm tuyền
Lá rừng kết tập oan khiên
Lãng quên dõng cảm muộn phiền hùng tâm
Người về lịch sử ca ngâm
Phù du phương cảo huyền cầm bảy giây
Đất về tình sử phôi thai
Nắng vàng đổ lục cuối ngày bà đi…)

“Un arc-en-ciel étrange entoure ce puits sombre” (…)
(Một cầu vồng vân nghê dị thường bao quanh cái giếng u ám ấy)

(…)

“Entre un monde qui meurt et l’autre renaissant”
(Giữa một thế giới đang chết và thế giới khác phục sinh)

“Sais-tu ce que tu fais, Puissance Originelle,
De tes soleils éteints, l’un l’autre se froissant…”
(Hỡi Quyền Uy Nguyên Thủy
Ngươi biết chăng ngươi làm gì
Về những vầng nhật chìm tắt của ngươi,
Những vầng nhật va chạm vào nhau)

(Liên miên như
Bardot triền miên giập vào bờ Brigitte)
(Như Sylvie cập bến Adrienne)
“Es-tu sûr de transmettre une haleine immortelle
Entre un monde qui meurt et l’autre renaissant?”
(Ngươi có chắc truyền tiếp được một hơi thở thiên thu (bất diệt)
Giữa một vũ trụ điêu tàn và một vũ trụ phục sinh?)
Kể từ câu hỏi đó,
“La terre a tressailli d’un souffle prophétique”

Và kể từ đó, Thần Tinh Huệ Mới gọi ta. Phượng hoàng, hoàng hạc, chim ó, chim bằng, đã bay qua, đã đi vào quá vãng. Ta đã bay qua, đã đi vào quá vãng. Ta bước về thênh thang trong đôi cánh chuồn chuồn bé bỏng, man mác vô phương “cá sóng phiêu bồng”, và…? Bước về và ra đi và trùng lai hồi phục như “ngàn năm ngậm bóng sương đồng”…

“L’esprit nouveau m’appelle.
J’ai revêtu pour lui
La robe de Cybèle…”

Sao thế sao thế sao thế?
(Ruộng Đồng chưa thể đoán ra? Rằng trong ý bạn là ta lên đường?

(Các em đầu đội vai mang
Tiếng kêu rào rạt mùa lan sang mùa
Anh đi cây bút vẽ bùa
Chào em như mộng mỵ thừa thãi dâng)



Sylvie
Souvenirs du Valois


I.

Đêm lãng phí

Tôi bước ra khỏi rạp hát. Rạp hát mỗi đêm tôi tới ngồi ở dãy ghế đầu ngay trước sân khấu, vận lễ phục xum xuê của kẻ mê gái mơ màng. Đôi phen rạp hát vắng teo. Tôi chẳng thiết đưa mắt ngó sân xem hát với đôi ba chục tài tử ham chuộng miễn cưỡng ngồi tại đó, với những chiếc mũ và y phục lỗi thời. Cũng chẳng thiết chi cái việc chen chúc ngồi chung một phòng với bọn khán giả ồn ào, với những thứ điểm trang hoa gấm, với những vòng vàng xuyến ngọc sáng ngời, và những khuôn mặt lồng lộng tươi vui. Tôi hờ hững với cảnh tượng phòng hát. Cảnh tượng trên sân khấu cũng chẳng thu hút được tôi – ngoại trừ cái xen thứ nhì hoặc thứ ba của một kiệt tác buồn thiu thuở đó: lúc bấy giờ, một trận xuất hiện kiều diễm quen thân bỗng làm rạng ngời khoảng không gian vắng vẻ, và bằng một hơi thở, bằng một tiếng ngân, bằng một nụ cười hây hây, bỗng trả lại linh hồn sinh động cho những khuôn mặt nhạt nhẽo ở xung quanh tôi.

Tôi cảm thấy mình rạt rào sống lai láng trong người nàng, và đối với tôi, chỉ duy có nàng là kẻ sống duy nhất trong thế gian. Nụ cười của nàng mở ra, thì lòng tôi ngập tràn hạnh phúc; tôi rung động khắp châu thân vì hoan lạc yêu đương, lúc nghe giọng nói của nàng ngân lên, giọng nói xiết bao êm ái, mặc dù cao vút lanh lảnh pha chút phiêu bồng trọ trẹ cõi hương giang. Coi tề, tôi trộm nghĩ thiết tha, nàng mang trong mình xiết bao kiều diễm, nàng đáp lại xiết bao phấn chấn chiêm bao trong linh hồn tôi nhảy múa, - đẹp như man mác Vu Sơn, tươi như ánh vàng nguyên tiêu của nguyệt, xanh xao như đêm mờ ngất tạnh giá băng, giữa làn ánh sáng lưu ly mờ tỏ, chiếu tỏa bốn bề bằng lộng lẫy dung nhan, như những Nữ Thần Eirênê giữ cửa Thương Khung hiện ra trên nền màu nâu những bức bích họa ở cựu thành Herculanum!

Từ một năm rồi, tôi vẫn không nghĩ tới việc dò xét xem nàng là ai. Nàng từ đâu tới. Nàng ở đâu về. Tôi sợ sẽ làm hoen mờ cái tấm gương huyền ảo phản chiếu hình ảnh nàng cho tôi mở mắt ngó hôm nay. Nhiều cho lắm, thì tôi chỉ để tai nghe vài câu chuyện bàn tán có liên can tới nàng, tới người phụ nữ là nàng, chớ không phải là tới nàng người ca sĩ nguy nga. Tôi chẳng để tâm dò hỏi làm chi, nghe thì nghe suông, cũng nghe mơ màng như nghe chuyện phiêu bồng liên can tới Công Chúa Elide hoặc Hoàng hậu Trébizonde, - một người cậu của tôi, đã sống qua những năm cuối của thế kỷ 18, có sống thật trong đó thì mới rõ ra thế nào, cậu tôi đã từng sớm cho tôi biết rằng những cô đào mang linh hồn ca sĩ, thật ra không phải là đàn bà phụ nữ, vì tạo hóa lúc nặn hình hài các nàng, đã lãng quên không tạc cho các nàng một trái tim. Chắc hẳn là ông ta nói về những ca nhi thời xưa, thời đại thế kỷ mười tám, dở dang, những thất vọng, những ngang trái của ông, và đưa cho tôi ngó bao nhiêu những hình dung trên mặt ngà, những médaillon mặt ngọc, những hình tượng mặt vàng (mà ông dùng tô điểm cho những hộp đựng thuốc lá), những tờ thư vàng úa, những ân huệ mưa móc tàn rơi, kể cho nghe, kể hết, và toán định toàn thể ván bài lỡ dở nhâm nhi, cho đến nỗi từ đó về sau, tôi đã quen coi mọi ca thi đào hát là thuộc loại người chả đáng chi cho lắm, mà quên mất rằng chuyện thời trước rất có thể khác hẳn chuyện thời nay.

Thuở bấy giờ chúng tôi sống trong một thời đại dị thường, giống những thời đại nối tiếp những cuộc cách mạng, hoặc những suy vong của những triều đại lớn. Không còn nữa cái cốt cách phong nhã oanh liệt như dưới thời Đầu Thạch Đảng. Không còn nữa cái lối trụy lạc thanh tao tội lỗi phong vận điểm trang như dưới đời Nhiếp Chính. Không còn nữa cái điệu hoài nghi, cuồng điên truy hoan như dưới thời Chấp Chính. Mà ấy là thời buổi của hoạt động mơ hồ, pha lẫn những ngại ngùng lười lĩnh, biếng nhác phân vân, những ảo mộng hoàng vân, những hoàng sa ốc đảo, những trăng tỳ hải, những sương phiêu bồng, những ước vọng siêu hình, siêu thể, những ý hướng, siêu nhiên, những phấn chấn mông lung, những chiêm bao bờ cỏ, những tiềm tàng bản tính phục hưng, hồi sinh nơi thạch tượng. Những ưu sầu vì bao cuộc bất hòa quá vãng, những phiền muộn vì linh cảm những tranh chấp tương lai, những hy vọng đi xuôi về ngược, những u tình vãng sự như yên, những mây giang nam, những cành sung cũ kỹ, những con chim từ bỏ nắng chiều… Vâng, có bề giống như những gì của thời đại PérégrinusApulée. Con người vật chất thô lậu tứ chi, vẫn triền miên mơ tưởng tới cái bó hoa tường vi kỷ độ đâm bông sẽ đem nhựa tái sinh đi về làm cho tâm linh mới mẻ, sẽ mang trời sương Hy Lạp về trên làn cánh trắng những phi tuyền tung rơi từ bàn tay Isis trong triều dâng kỷ niệm nhớ mai sau sắp buông cầm xốc áo… Nữ Thần ôi! Em trường sinh trẻ dại! Tiên Tử ôi! Em trẻ dại muôn đời. Hồn trinh bạch em kỳ ảo lôi thôi đi về trong chiêm bao lẽo đẽo trong những tĩnh dạ thâm canh, và kêu gọi mãi cái lời gì xui lòng ta xấu hổ vì những lời truy hoan lãng phí mất xuân xanh. Tuy nhiên, tham vọng lai rai không phải là linh hồn của tuổi trẻ chúng tôi thời đó. Và cái hiệu kèn dón dả vô độ tham lam những vinh quang hão, những tước lộc hờ, hồ dễ đã cuốn hút chúng tôi đi. Chúng tôi còn một chốn cư trú thiết tha, một doanh trại nguy nga là ngọn tháp ngà thi sĩ, để đi về xe mộng thổi thâm thể lên trời theo trận trường phong đổ lộc rung cây, với những mùi hương bốc ôn hinh một thuở Đạm Tiên nàng ấy không chồng. Phụng thần hôn tại phiêu bồng dặm khơi, Thư sinh nhất giới bên trời. Trút nghiên bút mộng trong lời tang du. Đằng Vương gác ngất non mù. Nguồn man mác gọi sương phù du tuôn… A ces points élevés où nous guidaient nos maîtres, nous respirions enfin l'air pur des solitudes, nous buvions l'oubli dans la coupe d'or des légendes, nous étions ivres de poésie et d'amour… Tại những đỉnh chơi vơi, theo dấu chân của những bậc thầy hướng dẫn, chúng tôi cuối cùng đã hô hấp bầu không khí trong veo ở chín tầng thái hư tĩnh mịch, chúng tôi đã uống vào trong tim máu, niềm quên lãng ở giữa lòng những chén vàng, ly ngọc của những chuyện thần tiên, nương tử hoa đường, chúng tôi đã đê mê với men rượu thi ca và tình ái. Tình ái, hỡi ôi! Ái tình chung đúc vào những hình thể mơ hồ, những màu hồng thanh lục, những bóng ma siêu thể siêu thần. Ngó nhìn gần, người đàn bà thịt da trơn trụi coi có bề rất đáng bực trước con mắt thơ dại thanh xuân; phải làm sao cho các nường biểu hiện trong dáng dấp hoàng hậu hoặc nữ thần, và nhất là đừng có dại mà men lại sát bên tấm quần hoặc tà xiêm của họ. Thì mộng vỡ nhà ma đi đời. (Amour, hélas! des formes vagues, des teintes roses et bleues, des fantômes métaphysiques! Vue de près, la femme réelle révoltait notre ingénuité; il fallait qu'elle apparût reine ou déesse, et surtout n'en pas approcher).

Tuy nhiên một vài đứa trong bọn chúng tôi không chuộng cái loại tư tưởng đăm chiêu lý tưởng nghịch lý rườm rà nọ, và xuyên qua những cơn mộng canh tân cựu phố Alexandrie, đôi lúc họ hươi cao bó đuốc của những Tà Thần hang hốc âm u, và trong một lúc, chớp lóe lên những đường rẽ lập lòe lửa ngân hoa, - Và thế đó, bước ra khỏi rạp hát với niềm u sầu chát chát do một cơn mộng tan tành để rớt lại dư hương, tôi liền chân chạy nhập bọn với một hội anh em gay cấn chịu chơi, ồn ào yến ẩm. Và thế đó, mối sầu chan chứa đành nhường chỗ, rút lui khỏi cõi lòng, trước sức tấn công của cái cơn cười vui nhiệt hứng cuồn cuộn của một vài bộ óc tài hoa nổi bật, linh hoạt mãnh liệt vô song, cao nhã tuyệt vời đôi lúc, - những bộ óc tài – khí – chịu – chơi như thường gặp vào những thời đại canh tân cách mệnh, hoặc tàn phế suy đồi, và những cuộc bàn cãi ngửa nghiêng xiêu đình đổ quán của họ dấy lên tới mức rạch đôi sơn hà, nghiêng trời trí dũng nào, mà thỉnh thoảng vài đứa, thuộc loại e dè chúng tôi, phải chạy tới bên cửa sổ xem chừng ngoài kia có đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh, những bọn Huns, những lũ Turcomans, hoặc những phường Cosaques có ì ầm kéo tới, rút trường kiếm ra, và đập nát những hiên hoa loạn trụy của bọn hùng biện lơ mơ, quáng gà dấm dớ, ngụy biện rỗng tuếch, ron ren mơ hồ khía bọt.

“Nâng cốc lên, nào thôi, các bạn. Uống cho nhiều, yêu cho lắm, đó là cách điệu hiền thánh chịu chơi, hào hoa số dách, phong nhã một cây, xum xuê tay tổ!”. Đó là ý kiến bọn trẻ tuổi nhất đám. Một trong những đứa đó bảo tôi: “Cũng đã khá lâu, tao gặp mày tại cái rạp đó. Trước sau vẫn chỉ một cái rạp nọ mà thôi, mỗi một phen ta tình cờ lui tới. Thế thì tại cớ mần răng? Mày tới làm chi mà năng đi năng lại như rứa? Mày lần khân lui tới là tại cái tà xiêm hây hẩy của con mẻ nào?”

Tại ai?... Tôi tưởng chừng như ngoài nàng ấy ra, thì nhân gian làm sao có thể tới lui vì một nàng khác? Tuy nhiên, tôi cũng thú nhận một cái tên. Thì thằng bạn tôi lấy giọng độ lượng bao dung mà rằng: “Ê! Thế ư! Nếu vậy thì mày thấy đó kia kìa cái thằng cha diễm phúc vừa dẫn nàng đi, và chiếu theo luật tắc tồn sinh của bang hội chúng mình, nó chỉ trở lại tìm cô nàng có lẽ là sau cái trường dạ thâm canh.”

Lòng không xúc động quá mức, tôi ngoảnh đầu đưa mắt ngó cái nhân vật mà thằng bạn vừa chỉ. Đó là một chàng trai ăn vận đứng đắn, gương mặt xanh xanh, có khí chất, phong thái đoan chính, và hai con mắt đăm chiêu tư lự dịu dàng. Y vãi đồng tiền vàng trên bàn cờ whist, và thua ván cờ mà vẻ mặt vẫn thản nhiên. Tôi nói: “Nó, hay một thằng khác, ta có bận lòng chi. Sau trước gì, thì cũng phải có một thằng đệ hơn, và gã đó xem xứng đáng được chọn lựa lắm. – Còn mày? – Tao ấy à? Tao theo dõi một hình bóng, chỉ có thế thôi.”

Ra khỏi phòng, tôi đi ngang phòng sách, và bỗng ngó một tờ báo. Ấy là để coi thị giá của chứng khoán thì phải. Trong những mảnh mòn hao của tình trạng phú dụ tôi, có một ngân khoản ngoại tệ khá to. Nghe đồn rằng, từ bao lâu bỏ lấp, giờ đây nó sắp được thừa nhận - ấy là do cuộc cải cách bộ viện… Tôi sắp giàu sang trở lại rồi.

Từ sự vụ đó, một ý tưởng duy nhất nảy ra: người đàn bà tôi yêu từ bao lâu thổn thức, người đó sắp là của tôi rồi, nếu tôi mà chịu muốn. – Lý tưởng vô ngần lục thanh tơ cỏ, tôi đương chạm nhè nhẹ vào hình hài của nó, ở đầu ngón tay tôi. Thật ư? Hay là chả thật? Hay lại là một huyễn tượng nữa? Hay lại do một lỗi ấn loát oái oăm của nhật báo? Nhưng những tờ khác cũng nói hệt như thế. – Cái số tiền đồ sộ bỗng dựng sững hình hài trước mặt tôi như một tượng vàng Moloch. Tôi thầm nhủ: “Gã thanh niên khi nãy sẽ nghĩ thế nào, sẽ ăn nói thế nào, nếu tôi tới bên cô nàng kia mà ngồi vào cái chỗ của gã?...”. Tôi bỗng run lên một cái: niềm kiêu hãnh của linh hồn không chấp thuận chuyện kia.

Không! Không thể thế được. Ở cái tuổi của tôi, con người ta không sát hại tình yêu bằng vàng bạc. Tôi sẽ không bao giờ làm cái gã đem tiền tài mà phá hoại tình yêu. Vả chăng đó cũng là một ý tưởng thời cũ. Ai nói với tôi rằng nàng gái nọ là một đàn bà có máu tham mê hơi đồng? Hai mắt tôi mơ hồ đảo vòng tờ nhật báo một lượt, và tôi đọc: “Hội Đố Lá Lục Tỉnh - Ngày mai những xạ thủ Senlis sẽ trao bó hoa cho những xạ thủ Loisy ». Những lời đó, xiết bao đơn giản, bỗng đánh thức dậy trong tôi cả một chuỗi dài hình ảnh, một tràng dài cảm giác bóng vang: một kỷ niệm vô ngần của mùi hương điền dã, của châu quận cũ từ hang thẳm lãng quên, tiếng vang xa xôi của những hội hè nô nức của tóc tơ tuổi nhỏ qua rồi. “Con đường thẳng con đường cong cỏ mọc. Nhịp mơ màng những quang gánh lên vai. Hồn tuổi trẻ phiêu bồng trong tơ tóc. Trút tình hoa rụng gió ở bên ngoài…” – Dư vang tiếng trống tiếng còi. Rập rờn đầu liễu mộng hoài xanh buông. Xa xôi thôn ổ ngậm buồn. Thanh xuân gái dệt từng guồng hoa bay. Còn nghe điệu hát nghiêng mày. Sử xanh lần giở bên này phù du. Tráng hoa thêu gấm khơi mù. Giòng tuôn thúy lục xuân thu lên ngàn. Ta về ngóng lại dư vang. Rồi mai ly biệt lên đàng nhớ-nhung… Le cor et le tambour résonnaient au loin dans les hameaux et dans les bois; les jeunes filles tressaient des guirlandes et assortissaient, en chantant, des bouquets ornés de rubans.

Một chiếc xe bò ì ạch đón nhận những tặng phẩm kia bên đường, còn chúng tôi, những đứa con thơ của những miền xứ nọ, chúng tôi kết hợp thành hàng lũ lượt tới lui, chân bước, chân bồng, gối tròn gối méo, tay ẵm, tay ôm, những vòng cung thánh thót, những mũi tên mơ mòng, tự ban cho mình cái danh hiệp sĩ cổ sơ hồng hoang phiêu dạt – không biết rằng mình đang lặp lại giữa những thời đại tiếp tiếp điệp trùng, một buổi hội nữ vu tháng ba xuân sắc, còn lưu mãi trong cổ lục truyền qua sóng lớp phế hưng. – Un lourd chariot, traîné par des bœufs, recevait ces présents sur son passage, et nous, enfants de ces contrées, nous formions cortège avec nos arcs et nos flèches, nous décorant du titre de chevaliers, – sans savoir alors que nous ne faisions que répéter d’âge en âge une fête druidique, survivant aux monarchies et aux religions nouvelles.

Nguồn: Tân An xuất bản tại Sài Gòn trÆ°á»›c 1975, An Tiêm xuất bản tại hải ngoại 1990. Bản Ä‘iện tá»­ do talawas thá»±c hiện. Bản tiếng Pháp có thể đọc tại: http://www.site-magister.com/sylvie.htm