© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
20.6.2006
 
Giai phẩm mùa Thu 1956 - Tập II
 1   2   3   4   5 
 
Phùng Quán
Thơ cái chổi - Chống tham ô lãng phí

Tôi đi qua
Những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt:

Tôi đã gặp
Những bà mẹ già quấn giẻ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo dây thép gai tay máu chảy ròng
Bởi đồn giặc trồng ngô tỉa lúa.

Tôi đã gặp
Những cô gái trồng bông
20? 30?
Tôi không nhìn ra nữa.
Mồ hôi sôi trên lưng
Mặt trời như mỏ hàn xì lửa
Đốt đôi vai cháy hồng.

Tôi đã đi qua
Nhiều xóm làng vùng Kiến An Hồng Quảng.
Nước biển dâng lên ướp muối các cánh đồng
Hai mùa lúa không có một bông.
Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ.

Tôi đã gặp
Những đứa em còm cõi
Lên năm lên sáu tuổi đầu.
Cơm thòm thèm độn cám với rau
Mới tháng ba đã ngong mong đến Tết
Để được ăn cơm no có thịt
Một bữa một ngày…

Tôi đã đi
Giữa Hà Nội những đêm mưa lất phất
Đường mùa đông nước nhọn tựa dao găm

Tôi đã gặp

Chị em công nhân đổ thùng
Yếm rách chân trần
Quần xắn quá gối
Run lẩy bẩy chui vào hầm xia tối
Vác những thùng phân
Ta thuê một vạn một thùng
Có người không dám vác
Các chị suốt đêm quần quật
Sáng ngày vừa đủ nuôi con.

Một triệu bài thơ không nói hết nhọc nhằn
Của quần chúng anh hùng lao động
Đang buộc bụng thắt lưng để sống
Để xây dựng kiến thiết nước nhà
Để yêu thương nuôi nấng chúng ta.

Vì lẽ đó
Tôi quyết tâm rời bỏ
Những vườn thơ đầy bướm đầy hoa
Những vần thơ xanh đỏ sáng loà
Như trang giấy kim
Dán lên quân trang
Đẫm mồ hôi và máu tươi của cách mạng
Như công nhân
Tôi muốn đúc thơ thành đạn
Bắn vào tim những kẻ làm càn
Những con người tiêu máu của dân
Như tiêu giấy bạc giả!
Các đồng chí ơi!
Tôi không nói quá
Về Nam Định mà xem.
Đài xem lễ [1] họ cao hứng dựng lên
Nửa chừng thiếu tiền bỏ dở.
Mười một triệu đồng dầm mưa dãi gió
Mồ hôi máu đỏ mốc rêu.

Những con chó sói lãng phí quan liêu
Nhe răng cắn rứt thịt da cách mạng!

Nghe gió mùa đông thâu đêm suốt sáng
Nhớ “đài xem lễ” tôi xót bao nhiêu
Đất nước chúng ta không đếm hết người nghèo
Đêm nay thiếu cơm thiếu áo.
Những tên quan liêu Đảng đã phê bình trên báo
Và bao nhiêu tên chưa ai biết ai hay
Lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo, gày
Khắp mặt đất
Như ruồi nhặng
Ở đâu cũng có!
Đảng muốn phê bình tất cả
Phải một nghìn số báo Nhân dân!

Tôi đã đến thăm nhiều hố xí cầu tiêu
Giấy trắng nửa mặt, xé toang chùi đít
Những người này không bao giờ họ biết
Ở làng quê con cái nhân dân ta
Rọc lá chuối non đóng vở học i-tờ!

Tôi đã đến dự những phiên toà
Họp suốt ngày luận bàn xử tội
Những con chuột mặc áo quần bộ đội
Đục khoét áo chúng ta
Ăn cắp máu dân đổi chác đồng hồ
Kim phút kim giờ lép gày như bụng đói
Những mẹ già, em trai, chị gái
Còng lưng, rỏ máu lấn vành đai!

Trung ương Đảng ơi!
Lũ chuột mặt người chưa hết
Đảng lập đội quân trừ diệt
- Có tôi!
đi trong hàng ngũ tiền phong.

Tôi gài bãy chăng lưới khắp mọi tâm hồn.
Xông khói ớt quạt lùa vào hang hốc.
Lưới bẫy của tôi chẳng tốn tơ tốn sắt.
(Dành công nhân dệt lụa dựng cầu)
Khói của tôi chẳng tốn ớt tốn rơm
Tất cả là thơ ca
Tôi rút từ tủy xương
Hiến dâng hết cho sự nghiệp đấu tranh của Đảng.


*

Trần Công
Một vài ý nghĩ

Tôi bước dần vào lòng Hà Nội
một sáng đầu thu nắng lên
chưa bao giờ
nắng chiều như hôm nay
trên ngực em gái quàng khăn đỏ.

Tôi bước dần vào lòng Hà Nội
gió vút lên cao tiếng máy
nhà diêm, nhà rượu, nhà bia
sở thuộc da, nhà máy nước, máy điện
trời ta càng ngợp khói
những nhà máy đó
dân ta càng dễ thở hơn.

Nắng rất nhiều
chưa bao giờ nắng nhiều
như hôm nay
trên ngực em gái quàng khăn đỏ

Tôi bước vào hàng sách
thấy buồn buồn
ít quá
cô hàng chống cằm ngồi mơ đi đâu?

Ôi! người yêu tôi đang buồn tủi
bao giờ cho em vui
sao mà chất nghèo
giá lại đắt.
cửa hàng quốc văn bé quá
so với những thứ khác
cũng gọi là hàng
bao giờ ở nước ta
có một Pie Xê-gơ [2]
kính cẩn in sách cho
A-ra-gông, Béc-tôn Bờ-rét [3]
Tôi bước vội ra tai ù lên
Như nghe tiếng nhiều người hỏi tội
Tôi thấy những đôi mắt nghiêm khắc
Của Lỗ Tấn, Goóc-ki, Rô-lăng
Ban-dắc, Sét-spia, Hao-va Phốt [4]
trừng lên: “Bao giờ các anh mới chịu
đọc sách chúng tôi”.

Nhưng may thay
nắng hôm nay nhiều quá
nắng vẫn sáng trên ngực
em gái quàng khăn đỏ
tôi rẽ vào một nhà in
ngửi thấy mùi giấy
tôi say như thèm hơi thở
trên ngực người yêu
nhưng lật đống giấy
lại thấy quảng cáo hoá đơn của mậu dịch
còn nhiều hơn tiểu thuyết

Tôi bước ra đường
lại ngồi cạnh một em bán báo
báo lèo tèo cùng một khuôn
giống nhau như một hàng quân phục
có tờ số xuất bản ra
không cao bằng số bao thuốc lá
bán ở một hàng Bờ Hồ
trong những tờ báo Đảng
các anh quên mất phần con người
thỉnh thoảng còn sống sượng
xếp nên những dòng chính sách trên giấy
các anh có biết rằng
một bộ ngực vừa nhú lên đôi vú
là đời sắp thêm một chuyện mới
của hai người yêu nhau
và Đảng phải lo cho họ
nhưng một số nhà văn ta
vì thích vỗ tay hiếu hỷ
cũng quên mất nốt
trong đó có những kẻ
nằm ngoan như cục xà-phòng
có mùi thơm và nhiều bọt

Tôi vào hàng cà-phê
một anh thương binh Nam bộ
tập tễnh đi
chiếc chân Đức mới lắp
hớn hở như trẻ lên hai
tập đi bên tay mẹ
thế mà không ai nói tới
trong lúc đó trên màn ảnh
phim ta nhiều diễn thuyết và vỗ tay
mà một số người quan trọng
vô tình đã trở nên tài tử
của Xưởng phim Thời sự

Nhưng may thay
nắng hôm nay nhiều quá
nắng sáng rực
trên ngực em gái quàng khăn đỏ

Có người chỉ đường
miệng rít còi
mắt mải nhìn theo một tà áo tím
để đọng lại một số xe
nhưng khách qua đường
đã vui vẻ cười
dễ tính

Vải vóc muôn mầu
nhiều lắm
hoa muôn mầu
nhiều lắm
nhưng bao giờ sách báo cũng nhiều
như hoa
tôi sẽ cao giọng
hát một bản tình ca
tặng các nhà xuất bản.

Hà Nội, 9-1956


*

Lê Đại Thanh
Cuốn sổ tay

Khi tôi đến thì Bảo sắp tắt nghỉ. Đôi mắt đã dại hẳn, đồng tử đưa ngược lên, Nhưng đôi môi lắp bắp thoáng một nụ cười, đôi môi như đang nói một câu gì chưa dứt đoạn với một người thân nào ở xa.

Sách vở, mấy bản thảo, giấy má, một số phác hoạ ném trên bàn, trên mặt chiếu hoa, dưới đất, nằm cả trên ngực, trên cánh tay người sắp chết. Một bông hồng quế đỏ tươi cắm trong một chiếc cốc nước pha lê trong suốt. Một bức ảnh in trên giấy lụa mầu nâu để dựng nên một chồng tác phẩm ngoại quốc. Bức ảnh chụp một bến sông có một người đàn bà ăn mặc cán bộ đứng quay mặt lại vẫy nón chào ai, Nét mặt có một sức cám dỗ đặc biệt nhất là nụ cười toát ra một tình yêu thắm thiết say mê.

Tôi là người biết rõ Bảo hơn ai hết. Anh là người yêu bạn hơn bản thân mình và có thể hy sinh tất cả để làm một việc anh thích. Không có một điều gì anh không nói với tôi. Nhưng hôm nay nhìn bức ảnh, tôi thấy còn một chuyện anh giấu hay chưa kịp nói. Tự nhiên tôi thấy thương Bảo vô cùng. Mỗi người chết như mang đi một câu chuyện, một tâm tình, một cuộc đời. Người văn nghệ sĩ chết chôn với mình ít nhất một tác phẩm.

Tôi phải can đảm lắm mới chặn nổi mấy dòng nước mắt nghẹn ứ ở cổ khi Bảo nắm chặt tay tôi thầm thì như nói một mình.

“Biển mặn nuôi ngọc trai. Ngọc trai có là vì biển mặn. Có ai nuôi ngọc trai trong ao tù được đâu. Người làm văn làm thơ, người nghệ sĩ cũng chỉ là những con trai nhả ngọc, Không làm được việc đó đau xót như người đàn bà không có con… Tác phẩm là hòn máu của người văn nghệ sĩ để lại cho đời.”

Nói xong anh tắt nghỉ.

Tôi nhắc cuốn sổ tay trong tay người bạn với cảm giác đang rứt ra một trái tim nâng trong tay mình, Một mảnh giấy nhỏ vương ra, tôi đọc:

“Gửi anh cả sinh mệnh của tôi”.

“Có ai đến lấy thì anh đưa, nếu không đó là kỷ niệm nhỏ tôi tặng anh, vì đó là cả một cuộc đời. Chưa tác phẩm nào của chúng ta nói lên được con người xứng đáng giai đoạn của chúng ta. Anh cố gắng làm việc đó.”

… Tôi hiểu cả. Cuộc sống của chúng tôi kết tinh cả ở đây, từng giọt tư tưởng chắt lại trên những trang giấy nhỏ, tôi nghĩ đến cuốn sổ tay của tôi. Con ong phải lấy phấn trăm hoa rừng lọc qua cơ thể mới nhả nổi một giọt sương mật. Một trang sổ tay có thể là một ngày sống, một đêm trắng, một cuộc gặp gỡ - một lời nói yêu thương hay mấy nét nguệch ngoạc viết giữa phút cái sống và cái chết giằng co nhau.

Một trang sổ tay có thể là một mảnh đời bỏng nung cuộc sống.

Phải đấu tranh tư tưởng mãi mới dám đọc. Đọc cuốn sổ tay của người văn nghệ sĩ như đi sâu vào cuộc đời một người đàn bà - Đêm tối đầy bí mật nhưng cũng đầy những vì sao lấp lánh khó khăn lắm mới lách nổi qua những con đường đi của tâm tình.

Người đàn bà ở đâu cũng có một chỗ đứng rất đặc biệt nhất là trong sổ tay của người văn nghệ. Nhiều chữ nhiều câu viết tắt – ghi bằng dấu – những tên chỉ là một chữ hoa, một nét vẽ tượng trưng.

Có những phác hoạ một khuôn mặt trái xoan, một đôi mắt dài và xếch, một cặp môi hiền dịu nét vẽ mềm và nhanh rất linh động. Má hồng nhiều khi là hai vết mực xanh đậm.

Vài trang đánh dấu những ngày qua một đồn giặc ở địch hậu – mấy trận đánh dọc theo sông Luộc, mấy đợt phát động quần chúng ở Việt Bắc và cả đợt cải cách ruộng đất gần đây.

Rồi những câu thơ viết dở, những chủ đề của một số truyện ngắn truyện dài. Chữ viết li ti, mực phai nhoà (vì mưa hay vì mồ hôi, nước mắt?). Có tờ còn mang cả vết bùn.

Giở từng trang giấy, đọc từng dòng, tôi thấy cuốn sổ tay không còn phải là một vật riêng biệt của người đã chết. Tôi lọc ra một số trang ghi chép – sắp xếp lại cho có hệ thống – Tôi muốn làm sống lại bạn tôi. Tư tưởng con người vẫn là một cái gì bất diệt khi nghệ thuật làm rung lên rất mạnh con tim người đọc mình, xem mình, nghe mình cũng vậy.

Đây là nội dung mấy trang giấy nhỏ:

4-6-47. Tôi phải viết. Tôi muốn viết rất nhiều. Tôi thèm viết như người đói thèm ăn. Chung quanh tôi người ta sáng tác khá nhiều nhưng chưa thấy một tác phẩm nào dựng được một con người cho đúng. Tôi lao vào đi tìm con người trong chiến đấu. Con người lù lù trước mắt như rặng núi xanh to lớn vĩ đại. Nhưng đi đến con người cũng như đi đến với trái núi. Mầu sắc, hình dáng, cây cỏ, cả đến cảm xúc, tình cảm không còn giữ tính chất đầu tiên của nó. Có lúc tôi đã thất vọng lo sợ, tôi muốn nắm lấy con người. Con người như dòng nước chuồi dưới tay tôi. Nhưng tôi không chịu nản.

13-1-48. Tôi đã nhìn rất kỹ cuộc sống chung quanh, tôi ghi chép hằng ngày những sự việc, tôi sống với người nông dân để viết. Bản thân tôi có lúc chùn lại trước một sự thực sống giữa con người mà không trông thấy con người.

Tôi đã tìm ra một chân lý cho tôi: Cả bao nhiêu thế kỷ chung đúc lại mới có được một Nguyễn Du.

25-12-49. Địch đã đổ bộ lên Sa Cát phía gần Cầu Bo Thái Bình. Chúng dồn nhân dân tới sát biểu định cắt đôi Liên khu III để tiêu diệt quân đội chúng ta. Bản hùng ca của dân tộc đang được những người vệ quốc quân và những du kích viết bằng dao quai bằng súng và cả bằng máu mình nữa.

Đứa con gái lớn của tôi cõng đứa em bé lên ba theo nhân dân hồi cư khóc nói với tôi:

"Con về quê tăng gia để nuôi em. Nhưng bố đừng để chúng con phải chờ lâu bố nhé."

Tác phẩm của tôi viết bằng nước mắt đang mọc rễ trong đầu tôi.

Rồi mặt trận vỡ.

Những người vệ quốc quân gan dạ im lặng bọc vũ khí vào chiếu, chia thành những đơn vị nhỏ chuyển vào hình thái chiến tranh bí mật.

Tôi không muốn viết gì lúc này. Chỉ còn một con đường: phải tìm hiểu những con người trước mắt của tôi. Tôi đã đi theo một đơn vị tác chiến…

3-3-1950. Hôm nay địch quây tròn càn quét. Và cũng hôm nay tôi nhận thấy giá trị của con người, Chúng tôi bị o ép trong một vòng vây hẹp như lòng bàn tay. Chỗ nào cũng thấy bóng địch: ruộng ngô, bờ đê, trên cầu, trong mấy chiếc đình vùng Cầu Nại, cả trên mặt sông. Địch cứ vây, chúng tôi cứ chạy, hai bên nhìn thấy rõ mặt nhau,

Có lúc tôi có cảm giác là con chim bị mắc cạn, rúc đầu vào nan lồng mà không chỗ nào tìm thấy lối thoát ra. Lúc người ta mạnh dạn đương đầu với cái chết là lúc tôi nghe lòng con người vững chắc nhất.

Một chị cán bộ mặc áo cánh trắng đeo chiếc túi xanh thay vội chiếc áo nâu, thản nhiên nói to bảo nhân dân:

"Các ông các bà cứ đi vào mấy làng trước mặt kia, thế nào cũng có cách tránh tai nạn."

"Nhưng đấy là làng tề!"

"Tề thì cũng là chúng ta. Vào là sống."

Giọng nói sắc và gọn. Đôi mắt xếch và dài của người cán bộ nữ sáng một nét rắn rỏi.

Chúng tôi rẽ xuống bãi ruộng ngô xanh nhắm gốc cây gạo phía trước mặt mà tiến. Bùn phù sa láp nháp bám chặt lấy bàn chân lôi chúng tôi lại. Tôi cứ nhìn chiếc áo nâu và chiếc túi con xanh mà bước. Có một sức mạnh thúc đẩy, quấn chặt lấy đầu óc, lôi cuốn. Tâm thần căng thẳng.

Tôi không nhìn thấy địch, không nhìn thấy nguy hiểm, mà nhìn thấy một tác phẩm hiện hình…

Thế là thoát. Bẩy hôm sau, tôi, Lý và mấy người cán bộ quân sự luân phiên nhau nằm hầm bí mật và đi nghe ngóng tin tức.

Sống một tuần trong hoàn cảnh tôi là sống bảy năm trong cuộc đời. Tôi thầm cám ơn sự may rủi cho tôi gặp tai hoạ – và gặp Lý. Con người văn nghệ ở trường hợp sáng tạo, khát khao sống – say mê sống - thèm uống vào sự sống ừng ực từng ngụm lớn. Con người, tôi đã tìm thấy ở đây rồi.

Tôi nhớ mãi tiếng đạn tiểu liên reo khô xé rách mướp những thân ngô non. Con chó Béc-giê cao lêu nghêu chồm qua bãi ruộng cắn lên những tiếng ông ổng. Tôi ngửi rõ thấy cả mùi hôi khai và nồng ở người nó bốc hơi. Lý giật mạnh cánh tay tôi kéo nằm úp mặt xuống một rảnh đất sũng nước. Một người đàn bà nông thôn đang nằm với chúng tôi vụt chồm dạy xoã tóc ra kêu rú như người điên. Bốn tên lính Pháp ập tới kéo vội đi. Tôi nghe rõ tiếng Lý rít hàm răng lẩm bẩm:

"Quân dã man!"

Ba hôm liền chúng tôi phải nhịn đói, chân tay tê dại. Đôi mắt dài và xếch của Lý mỗi phút như bắt mạch tinh thần lên xuống của chúng tôi tất cả năm người. Có lúc đôi mắt Lý gặp đôi mắt của tôi. Chúng tôi nhìn nhau rất lâu không nói gì. Tôi đã sắp xếp được trong đầu tôi cả một câu chuyện. Sáu tiểu đoàn địch kéo qua Cầu Nai xuống ca-nô về Nam Định, Tiếng súng Pạc Hoọc hay tiểu liên từng phút nổ ròn qua những cành cây me, và cây gạo làm bay lên từng đám quạ đen. Từ dưới hầm nước sâu, tôi nghe thấy cả cuộc đời bên trên – tiếng kêu, tiếng doạ nạt – tiếng van lơn – tiếng khóc của một em gái – tiếng cười ồm ồm của mấy tên quỉ dâm ô.

Lý và tôi nhiều khi phải nhắm mắt lại tránh nhìn nhau. Cái đau xót cái căm uất thấm vào mạch máu, vào tim, vào óc nhức nhối khi kim châm không chịu được. Cái đau xót của đồng bào chúng tôi thấy khắc vào da thịt chúng tôi hằn thành những nét chạm phù điêu.

10-3-50. Hôm nay người nông dân giấu chúng tôi mang cho mấy củ khoai và một mo cơm nắm chỉ tay về phía Duyên Hà nói vội:

"Các anh các chị đi cho nhanh – Bọn Phòng Nhì và hương dũng ở Hưng Nhân xuống đang đi sục hầm, tìm cán bộ ấy."

Chúng tôi đi tắt ở cổng sau lội qua ruộng nước.

Lý chuyển cho mỗi người mo cơm dặn ăn đỡ lòng một hai miếng còn phải để dành.

"Có thể chúng ta chưa bắt được liên lạc ngay đâu."

Bảy hôm mặt trận vỡ.

Bảy hôm tôi yên trí là địch đã càn quét hết cả khu hoạt động của chúng tôi.

Nhưng mới đi được một giờ bỗng chúng tôi nghe thấy tiếng súng cối và tiếng lựu đạn trong một thôn xa. Một anh cán bộ quân sự nghe ngóng một tràng đại liên rồi kêu to.

"Đúng là quân ta rồi!"

Những con mắt tìm nhau. Từ bé tới giờ tôi mới được thấy hãnh diện là người. Tôi muốn ôm lấy từng đồng chí chung quanh, để nói một lời vui. Tôi thấy dân tộc gian khổ quá và vĩ đại quá.

Lần thứ nhất tôi thấy Lý cười – đôi môi mỏng có một nét đồng tiền lúm xuống ở góc.

Nhiều trang sổ tay của Bảo ở đoạn này bị đứt quãng. Nước mưa, vết bùn dính một tập ngắn vào nhau.

Từ đoạn sau có nhiều những câu ngắn hằn học, bất mãn. Hình như có một giai đoạn nào đó Bảo không vừa ý với cuộc sống.

Tôi chép lại đây mấy câu thơ khôi hài viết bằng chữ mực mầu cánh cam tươi.

Đời tôi như chiếc ba lô rách
Thủng cả hai đầu đứt cả quai

Dưới đó có mấy dòng chú thích bằng bút chì nét yếu và mềm nhưng chữ rất nắn nót:

"Đừng viết thế, dù đó là sự thực. Anh em thân người ta lại cười cho."

Ký tên: Người bạn ra đi

Tiếp theo mấy trang sau có bốn câu thơ ghi vội bằng mực đỏ:

Người về đuôi mắt ngời sao
Rưng rưng lệ nhỏ má đào nhẹ hoen.
Người đi tựa cánh mui thuyền
Bâng khuâng mơ dải tóc huyền phủ vai.

5-4-1950. Tôi thèm viết quá rồi, không chịu nổi sự thằn thúc của sáng tác. Nằm trên một sàn gác tôi khơi to đĩa đèn dầu chẩu để viết. Tôi viết hối hả như người đói được ăn. Hình ảnh Lý giúp tôi rất nhiều. Có lúc mệt quá ngủ gục trên sàn tre. Nghe tiếng trâu rũi sừng vào cột ngoàm thở phì phì mới mở mắt thì người chủ nhà đã thức dậy giã thình thịch một cối lúa lấy gạo ăn bữa sáng để cả nhà còn đi rừng. Tôi nhìn rất lâu bức ảnh của Lý chia tay trên sông. Số giấy viết cạn dần nhưng sau ba tháng làm việc tác phẩm đầu tay của tôi đã thành. Tôi viết đi viết lại năm lần.

Sau mấy trang này tôi đã nắm được sự việc vì Bảo đã kể cho tôi nghe câu chuyện của anh. Sau ngày qua sông, anh vượt bến đò Nhật Tảo về khu tìm cách cho in tập truyện của anh. Nhưng người phụ trách sau năm tháng nhận xét trả lời gọn lỏn một câu viết trên một mẩu giấy báo đưa cho liên lạc cầm ra.

"Lúc này cần in những tập ca dao, hay kịch tuyên truyền để phục vụ đòi hỏi trước mắt. Trả lại anh bản thảo để anh sử dụng. Nếu có điều kiện sẽ viết thư cho anh sau."

Bảo uất ức để đầu trần đi lang thang trên con đường Xích Thổ giữa ban ngày. Thời kỳ này là thời kỳ máy bay địch ráo riết kiểm soát các đường giao thông của chúng ta. Bảo bất chấp cái chết. Anh rủ tôi đi vào miền địch hậu Nam Định. Ở đây chúng tôi đã gặp một thi sĩ dùng những bản đất in thơ, rồi cho vợ gánh từng tập ra chợ bán. Thơ dí dỏm nói đúng sự việc của địa phương. Giá lại rẻ vừa với túi tiền của bà con đi chợ nên những tập thơ nhỏ bán chạy như tôm tươi.

Bảo cũng rất tán thành cách làm việc tháo vát thích ứng với hoàn cảnh của người bạn thi sĩ! Nhưng anh cũng rất buồn về việc đó. Anh làm một bài thơ châm biếm dài mà tôi còn nhớ mấy câu:

Mòn tay viết lách năm năm
Thơ in đất thó truyện nằm ổ rơm
Gác sàn gối cánh cô đơn
Giấc mơ gặp bạn chập chờn lửa khuya

Câu chuyện đến đây là chấm hết. Mấy tờ cuối cuốn sổ tay bị xé rời mép còn gợn vết răng cưa. Gần một tháng tôi tìm cách lục lại một số tài liệu và các bản ráp khác của Bảo để xem có gì sử dụng được không. Tôi muốn làm sống lại bạn tôi dù chỉ bằng mấy dòng ngắn: Người văn nghệ sĩ thường cũng chỉ có hai bàn tay trắng và cái thiên tài của mình làm cái vốn độc nhất trong đời. Không thể hiện được cái thiên tài đó bằng tác phẩm, chết không nhắm mắt nổi. Thì một hôm có một người đàn bà đến thăm tôi.

Khuôn mặt gầy, đôi mắt xếch và dài, nét da xanh mái. Chúng tôi nói chuyện rất lâu về sáng tác, những thắc mắc của con người sáng tác, những giằng co vật lộn của nội tâm trước vấn đề sáng tạo nhân vật dựng lên cuộc sống. Người đàn bà tỏ ra thông minh và rất am hiểu văn nghệ.

Tôi hỏi tên, người đó không nói.

Chỉ khi ra về, chỉ một ngón tay lên mặt bàn đúng vào một tập tài liệu:

"Tôi muốn xin ông những cái này vì đây là một người tôi quen thân."

Tôi bất giác kêu lên:

"Đồng chí là người kí tên ở dưới bài thơ của anh Bảo phải không?" Người đàn bà khẽ gật đầu, nhẹ nhàng rải chiếc khăn tay lụa mỏng kẻ ô đỏ gói cuốn sổ tay và tập bản thảo để ở góc bàn của tôi, trân trọng như gói một di vật hay một mớ ngọc châu.

Khi người ấy đi khuất đã lâu, tôi bàng hoàng như vụt tỉnh một giấc mơ, tự trách mình là quá nhẹ dạ tin người, và nhận thấy tôi có lỗi nặng với Bảo.

Nửa tháng sau tôi còn hối hận về việc đó, nhất là việc quên không hỏi tên và địa chỉ người đàn bà, thì một hôm nhận được một phong thư chữ mực viết mầu xanh cánh cam thật tươi, nét yếu nhưng rất duyên dáng.

"Cám ơn ông đã tin ở tôi. Người bạn thân của ông không dặn tôi địa chỉ của ông thì tôi không biết đâu mà đến. Tôi quí những bản thảo và cuốn sổ tay của Bảo hơn cả ông và hơn cả Bảo nữa. Vì tôi là một người đàn bà, một người đàn bà rất yêu văn nghệ, hiểu rõ tâm trạng những người văn nghệ. Bảo đã khuyến khích tôi viết mấy năm gần đây nhưng anh căn dặn tôi rất kỹ: ‘Cuộc đời không cho chúng ta không cái gì. Mỗi dòng viết của chúng ta phải đổi bằng một dòng nước mắt’. Tôi quí trọng và mến Bảo vì anh đã say mê cuộc đời, biết yêu thương con người. Tôi cho là một dân tộc văn minh không sao không yêu những người văn nghệ chân chính. Họ hy sinh cả cuộc sống của mình, quên cả giầu sang để phục vụ một quần chúng không bao giờ gặp, hay có khi chưa có mặt trên trái đất khi họ viết.

Tôi cũng đang muốn hy sinh cả cuộc sống của tôi đấy ông ạ, nghĩa là tôi làm văn nghệ. Liệu tôi có may hơn Bảo không? Nhưng cuộc đời nó là thế. Con thiêu thân yêu ánh sáng đèn và chết vì ánh sáng đèn, nhưng có con thiêu thân nào sợ ánh đèn đâu. Ngọn lửa chúng ta cùng thắp lên phải chuyền từ tay người này tới tay người khác mới làm được cái sứ mệnh soi sáng được tâm hồn con người đã chết như Bảo.

Tôi không còn ân hận gì nữa khi được giữ cuốn sổ tay của Bảo. Nó sẽ giúp cho tôi làm được một cái gì. Cuốn sổ tay văn nghệ của tôi sẽ bắt đầu làm việc từ hôm nay đấy.

Ký tên: Lý"

Tự nhiên tôi thấy nhẹ hẳn người như vừa trút được một gánh nặng. Tôi thấy không cần phải thương bạn tôi nữa, Hình như trong cuộc sống anh đã tìm thấy một con người.


*


K.
Ngụ ngôn: Tìm ưu điểm


Một dạo, giữa loài dở cạn dở nước mở cuộc thi sắc đẹp. Nhân có sự tranh chấp, ba con ếch, cóc, ếch ương đấu khẩu với nhau. Tiếng cóc nhỏ hơn hết, nhưng mà động đến Trời.

Trời sai nhái bén làm trọng tài. Nhái bén từ chối: Con nhỏ hơn hết, con không dám có thẩm quyền trên ba chị ấy.

Trời phán: Chỉ có mầy là đồng loại với chúng nó, mầy sẽ làm vừa ý ta, không được từ chối.

Sau khi cực chẳng đã phải làm trọng tài, nhái bén tâu kết quả: Ếch ương giải nhất, ếch giải nhì, cóc không ở giải nào cả.

Trời tỏ dáng không vui, bảo nhái bén: Mầy cố hết sức tìm ưu điểm của cóc xem.

Nhái bén tâu: Chị ấy mụt mằn khắp cả người, con không tìm ra ưu điểm nào hết.

Trời phán: Thôi, cho mầy đi về.

Mấy hôm sau, có nghị định của Hà bá sức về: Nhái bén bị đày vĩnh viễn ở dưới nước, không được lên cạn nữa.

Nhái bén gặp cá trê, kể cảnh ngộ của mình.

Cá trê bảo: Mầy dại lắm. Đi đâu chẳng biết “con cóc là cậu ông Trời”? Tao đây mà cũng còn thua kiện nó nữa là...



[1]Đài xem lễ do ủy Ban thành phố Nam Định dựng lên để các đại biểu đứng xem lễ. Việc này đã bị phê bình ở báo Nhân dân.
[2]Pierre Seghers: một nhà thơ vừa là nhà xuất bản tiến bộ Pháp
[3]Aragon, Bertolt Brecht: thi hào Pháp, Đức
[4]Tên những đại văn hào thế giới.
Nguồn: Giai phẩm mùa Thu 1956 -Tập II, vá»›i sá»± cá»™ng tác của Hoàng Cầm, Trần Công, Trần Duy, Quang DÅ©ng, Hoàng Huế, Phan Khôi, Hồng Lá»±c, Hữu Loan, Sỹ Ngọc, Bùi Xuân Phái, Phùng Quán, TrÆ°Æ¡ng Tá»­u, Lê Đại Thanh, Tô VÅ©, Trần Lê Văn. Tranh khắc gá»— trong hầm mỏ của Bùi Xuân Phái, in tại nhà in Quảng Nghi do Ngô Quang Thịnh trông nom. Bìa của Sỹ Ngọc, in tại nhà in Minh Đức, do Nguyá»…n Viết Thưởng trông nom. Bản khắc của nhà Tiến Mỹ, Minh Đức xuất bản, in tại nhà in Sông Lô, Hà Ná»™i, hoàn thành ngày 30-9-1956, khổ 16 x 24, 72 trang số in 318, số xuất bản 49, số sách in… Ná»™p lÆ°u chiểu tháng 9-1956 tại Hà Ná»™i. Bản Ä‘iện tá»­ do talawas thá»±c hiện.