© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Dịch thuật
18.9.2006
Nguyễn Nhật Anh
Lost in Translation - Trả lời các ông Cao Xuân Hạo và Trịnh Lữ
 
Vừa rồi, chúng tôi mới được đọc hai bài viết trên talawas các ngày 28.8 và 29.8 về cái tít sách Utopia - Địa đàng trần gian do NXB Hội Nhà văn và Công ty Nhã Nam xuất bản, trong đó giáo sư Cao Xuân Hạo chê cái tiểu đề Địa đàng trần gian là "không dung thứ được", "không thể nào chấp nhận được" và dịch giả Trịnh Lữ, ngoài việc nhất trí là cái tít kia "không thể chấp nhận được" còn chê cái cái bìa sách là "rẻ", thiết kế "thiếu chuyên nghiệp", rồi "cửa quyền trong biên tập"... Chưa hết, trên báo Lao Động liên tiếp trong các số 244 ngày 4.9 và số 249 ngày 10.9.2006, giáo sư Cao Xuân Hạo tiếp tục viết bài nói cái tiểu đề trên là "một lỗi quái đản", và là một "lỗi kếch xù" trong công tác biên tập... Với ngần ấy ý kiến, chê bai và bài bác, liên quan đến nhiều người trong NXB Hội Nhà văn và công ty Nhã Nam, chúng tôi đành viết bài này, với cái tít mượn từ một tít phim, để nói lại cho rõ sự việc.


I. Về bài viết của giáo sư Cao Xuân Hạo

Toàn bộ bài viết của giáo sư Cao Xuân Hạo chỉ gói gọn lại trong một điểm là theo ông cái tiểu đề Địa đàng trần gian là "không dung thứ được" bởi vì nó bị trùng ngữ, vì "hai chữ trần gian đã hoàn toàn rõ nghĩa trong chữ địa (đối lập với thiên) rồi". Vì, theo lời ông, nói "địa đàng trần gian" thì chẳng khác nào nói "ánh nắng mặt trời", "bóng Nguyệt của chị Hằng"... - là những lỗi khó tưởng tượng nổi ở một người có tư duy bình thường. Cho nên, theo ông, "dù có dễ tính đến mấy", bốn cái chữ kia "cũng không thể nào chấp nhận được".

Đại ý bài của giáo sư Cao Xuân Hạo là như vậy. Còn lại, việc ông trình bày chữ Hy Lạp, hay mào đầu về bản dịch tác phẩm của Thomas More mà ông chỉ mới thấy tít nhưng chưa được đọc nhưng vẫn phải viết bài, hoặc gợi ý cách dịch lại tít sách, hoặc nói rằng ông đã tra và nhờ tra từ điển, hoặc giải thích về cách đọc trại địa đàng, địa đường... chỉ là câu chuyện ngoài lề, trong đó có nhiều chi tiết chúng tôi cho là không chính xác, như:

Trở lại với chính điểm trùng ngữ Địa đàng trần gian của giáo sư Cao Xuân Hạo. Địa đàng (hoặc vườn địa đàng) trong hầu hết các từ điển cái, quan trọng, được liệt kê nói trên đều tương đương với khái niệm Paradisus hoặc paradisus terrestris trong tiếng La-tinh, và với Paradis hoặc Paradis terrestre, trong tiếng Pháp, tức là đều trỏ rõ là thiên đàng. Điều này là hiển nhiên, khi trong cuốn từ điển phổ thông Le Petit Larousse Illustré 2005 trong mục từ Paradis còn chua rõ: "Paradis terreste ou paradis: jardin de délices où Dieu plaça Adam et Eve, dans la Gènese" (tr. 784). Tình hình cũng tương tự như vậy với cuốn Dictionnaire de la langue française, ấn bản 2003, của Émile Littré: "Le paradis terrestre, ou, simplement, le paradis, jardin où Dieu mit Adam dès qu'il l'eut créé" (tr. 4447). Như vậy, nếu chúng tôi không lầm, địa đàng hoặc vườn địa đàng chính là thuật ngữ Việt được đặt ra để dịch Paradis/paradisusParadis terrestre/ paradisus terrestris, chỉ một chốn thiên đường nơi Adam và Eva từng có mặt, cũng chính là vườn Eden. Và là địa chính là lối dịch chữ-đối-chữ của terrestris/terrestre, chứ địa đã không còn hoàn toàn là đối lập với thiên như là trong Hán ngữ nữa như giáo sư Cao Xuân Hạo nhận định. Vì thế nói là địa đàng/vườn địa đàng không phải là nói một cái thiên đàng ở dưới đất như ý ông ngụ (nơi những người ít học); mà nó hướng đến một chốn thiên đàng (đã mất) của con người...

Sự tương đương giữa paradisparadis terrestre (sang tiếng Việt tức thiên đàng và địa đàng) này cũng được chứng tỏ rất rõ trong cuốn Dictionnaire Annamite-Français, (Imprimerie de la mission à Tân Định, 1898) - cuốn từ điển Việt-Pháp lẫy lừng của Génibrel. Trong đó, theo Génibrel, địa đàng chính là paradis, chứ học giả này không băn khoăn với yếu tố đất đai terrestre hay địa gì hết. Vì vậy, theo chúng tôi, kể cả căn cứ nghiêm ngặt vào thuật ngữ, thì dịch là Địa đàng trần gian cũng không có sai quấy gì về mặt khoa học, vì thực sự yếu tố địa trong địa đàng, nó không hiện hữu hoàn hảo, không sống động thật sự, mà phần nhiều chỉ là một cái vỏ từ mà thôi. Cho nên khi địa đàng kết hợp với trần gian [1] , theo chúng tôi, sẽ không xảy ra hiện tượng trùng ngữ lặp nghĩa khủng khiếp đến mức "không thể dung thứ được" nào cả.

Ngoài ra, theo chúng tôi, thực tế cho thấy địa đàng lâu nay đã được hiểu và dùng theo nghĩa thiên đàng khá nhiều, văn liệu đủ [2] . Đó là chưa kể, địatrần gian không phải là không thể bổ sung cho nhau được, vì chúng xuất xứ khác nhau. Và nếu ai đó vẫn băn khoăn quá về yếu tố đất đai của chữ địa đàng, thì chúng tôi xin gợi ý rằng chỉ nên coi đó là một sự điệp nghĩa mà thôi; hoặc là một trùng nghĩa giả, quá tinh tế để để ý.

Vả lại, theo chúng tôi, bất kỳ ai cũng có thể nói: "Đây thật là một chốn địa đàng trên dương thế/cõi trần/dương gian/trần gian này!" mà không ngại bị trùng ý lặp nghĩa gì cả. Đây là một câu hết sức bình thường đối với tục thức (conscience ordinaire). Do đó, tục thức của chúng tôi cũng thấy rằng địa đàng trần gian là một ngữ hoàn toàn chấp nhận được. Trong văn liệu, có vô số những ví dụ về sự trùng lắp khá rõ rệt mà chắc chắn là không phải chỉ có riêng chúng tôi thấy hoàn toàn mãn ý khi đọc chúng:

Thí dụ, trong Nho giáo, phần "Lễ ký" nói về đức Khổng Tử, khi sắp mất, Ngài tự thán với học trò là Tử Cống, ông Trần Trọng Kim đã dịch: "Núi Thái Sơn có lẽ đổ chăng? Cây lương mộc có lẽ nát chăng? Người Triết nhân có lẽ nguy chăng?" (tr. 28, bản in của Trung tâm học liệu, Sài Gòn cũ, 1971). Cũng đoạn này, trong Sử ký, phần "Khổng Tử thế gia", dịch giả Phan Ngọc đã dịch: "Núi Thái Sơn sắp đổ, cột trụ nhà sắp gãy, kẻ triết nhân sắp tàn" (tr. 249, Văn Học, 1988); hay như câu thơ "Bất thình lình bỗng trong bàn mất vui" (Nhị Độ Mai)... Theo chúng tôi, trường hợp ông Trần Trọng Kim dịch là "Người Triết nhân" thậm chí còn có nét nghĩa tự cảm thương, khiến người ta thêm xúc động... Tuy nhiên, may mà ông Trần Trọng Kim không sống trong thời này, cái thời của ông người ta trứ tác và dịch thuật hẳn là còn tự do và thuần phác hơn rất nhiều, còn thời này, khi mà tiếng Việt đã có những gác-đuy-co (garde du corps) như thế này rồi, thì chẳng có gì đảm bảo là ông sẽ tránh được nạn búa rìu.

Nhưng chúng tôi cũng băn khoăn tự hỏi đời sống của một ngôn ngữ thực sự là thế nào, là được sống và phát triển bởi dân gian, bởi đại đa số, đôi khi bất chấp cả từ nguyên và ngữ pháp, hay là được giới hạn bởi những cuốn từ điển của nhà ngôn ngữ học? Và vì thế khi tivi nói "sai", đài nói "sai", báo chí viết "sai", học sinh viết "sai", và mọi người cứ đồng lòng "sai"... thì rút cục nhà ngôn ngữ học có công nhận hay cập nhật hay đặt thêm phích cho từ cho ngữ hay không, hay là vẫn nghiến răng phẫn nộ?

Trở lại với câu chuyện, theo chúng tôi, việc đặt tít sách, đứng từ quan niệm xuất bản, đôi khi người ta có thể đặt một tên khác đi hoàn toàn, với mục đích để cuốn sách có được sự tiếp cận tốt nhất đối với độc giả của nó, chứ không phải bám sát vào cái đầu đề để dịch. Nhà văn Pháp gốc Hoa Đới Tư Kiệt mà Nhã Nam đã xuất bản cuốn Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa, khi sang Việt Nam, có kể cho chúng tôi nghe trường hợp cuốn Complexe de Di (tạm dịch là Mặc cảm của Di) được giải Femina năm 2003 của ông khi xuất bản bằng tiếng Anh đã có một cái tên khác hẳn là Mr Muo's Travelling Couch, chẳng liên quan gì đến mặc cảm hay phức cảm gì cả vì nhà xuất bản họ không muốn độc giả có ấn tượng rằng đây là một cuốn sách thiên về phân tâm học.

Vì thế, trừ phi cái tít đặt sai tiếng Việt, còn lại thì nó do nhà xuất bản quyết định, và trong nhiều trường hợp, khi nó không vừa ý một ai đó, thì cũng phải chịu, vì nhà xuất bản có những lý do riêng của họ.


II. Về bài viết của dịch giả Trịnh Lữ

Nội dung chính bài viết của dịch giả Trịnh Lữ, chúng tôi đã trao đổi ít nhất cũng đã vài lần với ông (chúng tôi cũng đã báo trước cho ông về cái tít sách Utopia - Địa đàng trần gian rồi). Nay chúng tôi xin nói lại một lần nữa cho rõ ràng.

Sau khi đã nêu những ý kiến của mình, dịch giả ở phần kết có nói tới cái gọi là "tình trạng cửa quyền trong biên tập và thiếu chuyên nghiệp trong thiết kế sách ở ta". Chúng tôi không biết ông muốn ám chỉ tới đơn vị làm xuất bản nào. Nhưng với tất cả những kiến giải mà chúng tôi đã trình bày ở trên, chúng tôi cũng xin khẳng định Nhã Nam chưa bao giờ đi theo con đường đó. Kể cả trong thiết kế lẫn trong biên tập. Ngoài ra, kể cả với sách ở nơi mà xuất bản đã đạt đến một trình độ rất cao là châu Âu, chúng tôi vẫn gặp lỗi biên tập, lỗi chính tả. Không có cuốn sách hoàn hảo. Sách ở Việt Nam cũng vậy. Vấn đề là mức độ cho phép có đủ để làm cơ sở kết luận về chất lượng của một xuất bản phẩm hay không. Vậy nên cần nhất ở đây là một cái nhìn tổng thể. Chúng tôi tin rằng ai có nhiều kinh nghiệm làm việc với các nhà xuất bản sẽ hiểu điều này.

Xuất bản là một công việc cần một sự hợp tác tập thể, chặt chẽ... Với câu chuyện xung quanh một cái tít sách này, chúng tôi cũng mong rằng chúng tôi sẽ rút được kinh nghiệm một cách sâu sắc.

Hà Nội ngày 11.9.2006

© 2006 talawas



[1]Trần gian là một từ Hán Việt "xịn": trần: bụi; gian: trong khoảng; chỉ cõi nhân gian/trần thế/thế gian/thế giới. Theo Theurel trong Dictionarium Anamitico-Latinum (Ninh Phú, 1877), thì trần gian hay trần thế chính là mundus (tr. 490). Còn với Dictionnaire Annamite Français 1898 của Génibrel thì trần gianle monde (tr. 875)... Mundusmonde đều là hai từ chỉ thế giới, thế gian, hay là cõi nhân gian của con người, chứ không có yếu tố nào liên quan đến đất đai như terrestre/terrestris cả.
[2]Thí dụ, xin hãy tìm kiếm bằng từ khoá "địa đàng" trên Google.
[3]Cho đến nay, một số cuốn sách của Nhã Nam vẫn bị tình trạng này, khi xin phép xuất bản, có khi chỉ là một cái tên tạm dịch, nhưng đã được Cục Xuất bản cấp phép rồi, thì một số NXB không muốn thay đổi nữa... Còn nếu không, thì lại phải đăng ký xin lại, rất mất thời gian, trước đây thì gần như không thể, vì có một số cuốn sách, kể cả mấy cuốn dịch giả Trịnh Lữ dịch như Cuộc đời của Pi, Con nhân mã ở trong vườn, mất hơn một năm trong việc xin giấy phép và biên tập.