© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcThơ và Thơ Trẻ
23.12.2006
Đỗ Hoàng
Gặp nhà thơ Hữu Loan ở Đồng Nai
 
Tôi vào Đồng Nai tháng 8 năm 1987, sang năm 1988, tôi được kết nạp vào Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai. Tháng 6 năm đó, hội mở trại sáng tác văn học Long Hải – Bà Rịa (lúc này Bà Rịa đang thuộc Đồng Nai). Về dự trại là niềm vui lớn của anh em văn nghệ, vì họ được viết, được giao lưu gặp gỡ, làm quen anh em, bạn bè. Ở trại này ngoài những bậc đàn anh kính thân từ trước như nhà văn Hoàng Văn Bổn, Lê Huy Khanh, anh em bạn hữu như Nguyễn Thái Hải (Khôi Vũ), Đàm Chu Văn, Cao Xuân Sơn, Nguyễn Đức Thọ, Lê Đăng Kháng, Phạm Thanh Quang, Hoài Tố Hạnh, tôi còn được quen thêm Trương Nam Hương, Nguyễn Hoài Nhơn, Nguyệt Cầm… Các anh Hoàng Văn Bổn, Đàm Chu Văn, Khôi Vũ, Cao Xuân Sơn đã tận tình giúp đỡ tôi những ngày tha phương cầu thực. Đa phần các cây viết ngày ấy đều đã trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Và thật may mắn trong đời tôi, tôi được gặp nhà thơ lừng danh: “Màu tím hoa sim” – Hữu Loan! Tôi không thể nào diễn tả nổi lòng cảm mến kính phục của mình trước một bậc thật tài, thật nổi tiếng mà cũng thật chua chát đớn đau trước nghịch lý của đời!

Tôi nhớ khi lên Biên Hoà thì xe của Hội chở anh em sáng tác đã đi rồi, tôi đành nhảy xe đò xuống Long Hải. Khoảng chập choạng thì về đến nơi, anh em tay bắt mặt mừng hỏi han đủ chuyện và kéo nhau đi ăn cơm. Thật là những bữa ăn ngon mà những người làm mướn như tôi không thể tưởng tượng được.

Lúc về phòng viết, tôi đi ngang qua phòng khách, thấy một ông lão dáng người tầm thước, mảnh mai, tóc trắng như cước xoã ra hai bên thái dương. Người ấy đang đưa nhẹ hai tay vuốt cho hai mái tóc chảy xuôi. Dưới ánh nê-ông trắng bạc trông ông như một ông tiên trong truyện cổ tích của trẻ em. Tôi tự lẩm bẩm “Tiên lão có tướng thật đẹp” và nghĩ chắc đó là bậc trưởng lão của tỉnh hay của trung ương đến an dưỡng ở đây.

Định bước đi thì Đàm Chu Văn, Cao Xân Sơn, Nguyễn Đức Thọ, Trương Nam Hương, Hoài Tố Hạnh, Nguyệt Cầm gọi với ra bảo tôi vào chơi.

Nguyễn Đức Thọ giới thiệu đây là nhà thơ Hữu Loan. Ôi nhà thơ Hữu Loan! Người vừa đứng ở phòng khách là ông đấy? Tôi ngắm nhìn ông. Ông năm ấy cũng đã 70 tuổi rồi nhưng trông ông còn nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, không như nhiều người ở vào độ tuổi ông thường run rẩy, mỏi mệt. Tôi khẽ khàng chào ông và ngồi xuống cùng bạn bè nghe ông trò chuyện. Từ bé tôi đã nghe danh nhà thơ “Màu tím hoa sim”. Bây giờ được gặp ông, tôi thật xúc động. “Màu tím hoa sim", mẹ tôi và các anh chị trong làng tôi thường hay hát bài hát này cùng với các bài “Đêm đông” , “Hồn vọng phu”, “Tiêu tương”. Sau này học lên, qua chuyền tay, tôi có dịp đọc và thuộc bài thơ “Màu tím hoa sim”: “Ngày hợp hôn, nàng không đòi may áo mới. Tóc nàng chưa kín búi… Nàng có hai người anh đi bộ đội .. Được tin em gái mất trước tin em lấy chồng”… “Không chết chàng trai khói lửa, mà chết em gái nhỏ hậu phương!” Thuở bé, tôi chưa hiểu được nội dung và nghệ thuật nhưng tôi cũng như bao người đều bị cuốn hút từ trong tâm linh bài thơ được phổ nhạc. Tuy các anh chị phải hát chui, nghĩa là không được hát trên loa phóng thanh, hát giữa hội nghị nhưng rồi ai cũng thuộc, ai cũng hát. Khi nhập ngũ, xung phong tham gia cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc, tôi càng thấm thía cái bất tử của thi phẩm. Dù phải qua bao thăng trầm vì sự hiểu biết hạn hẹp của con người nhưng những giá trị nhân văn đích thực thì dân tộc nâng niu và chấp nhận. Tôi đồng cảm và hiểu được lòng nhân đạo, nhân ái vượt qua nhận thức thời đại của nhà thơ! Hữu Loan không chỉ nổi tiếng với “Màu tím hoa sim”, nhà thơ còn có “Đèo Cả”, “Người không chết” viết về tướng Nguyễn Sơn: “Một đám tang đi. Đi không bao giờ đến huyệt”. Hữu Loan không viết nhiều. Trong đời thơ dài như vậy, ông có chừng trên dưới 30 bài thơ được in nhưng sức nặng và tiếng vang của những bài thơ ấy thì các nhà thơ nghìn bài cũng phải nể trọng! Bây giờ tôi đã được gặp nhà thơ ngoài đời thật. Tôi kính cẩn đến bắt tay và chào nhà thơ. Ông nắm chặt tay tôi. Bàn tay ông cứng chắc và thực là gân guốc, khác hẳn với dáng dấp tiên phong đạo cốt của ông. Ông vẫn tươi cười rạng rỡ, còn tôi thật bồi hồi xúc động trước một kỳ nhân mà chân tình giản dị dễ cảm mến ngay vừa gặp gỡ! Trừ nhà văn Hoàng Văn Bổn, còn tất cả anh em chúng tôi lúc đó chưa ai thành danh mà sau này có chút tên tuổi văn chương thì làm sao so được với “Màu tím hoa sim”! Mà Hữu Loan cũng chưa nghe trên văn đàn tên ai trong đám chúng tôi. Thế nhưng ông vẫn đối đãi với chúng tôi như những thi hữu bằng vai, bằng lứa. Cho đến bây giờ tôi vẫn thấy vui và vinh dự: Trại sáng tác văn nghệ Long Hải được khai mạc từ lúc có cuộc tiếp xúc với nhà thơ Hữu Loan.

Đêm ấy thực sự là đêm thơ văn nghệ Đồng Nai. Sau khi tôi, Cao Xuân Sơn, Đàm Chu Văn, Nguyễn Đức Thọ, Trương Nam Hương, Hoài Tố Hạnh, Nguyệt Cầm đọc thơ… là đến lượt đại thi nhân Hữu Loan đọc thơ và nói chuyện thơ. Ông đọc nguyên bản bài thơ “Màu tím hoa sim” mà không có sách báo nào lúc ấy in đúng. Ông đứng lên giữa cử toạ. Dù đây chỉ là cuộc tao ngộ ngẫu hứng. Giọng ông đọc thơ vang và khoẻ, mang nặng âm sắc Thanh Hoá không pha trộn. Trước khi nói hoặc khi đọc, ông đều đưa tay vuốt hai mái tóc bạc như cước cho ngay ngắn rồi mới cất giọng. Lúc này tôi mới nhìn kỹ ông. Tại sao một con người tài ba đỗ tú tài Tây toàn phần, khi cách mạng thành công giữ chức Ty trưởng bốn ty mà toàn những ty “có chữ” như: Ty Giáo dục, Ty Tuyên truyền, Ty Canh nông, Ty Văn hoá, mà cuộc đời ba đào làm vậy? Thời điểm ấy và cả ngay bây giờ ít người tin vào tướng số tử vi nhưng nhìn ông tôi thấy ông cũng bị nhân tướng học chi phối. Ông có trán rộng nhưng hơi thấp, hàm én ngang tàng nhưng cằm ngắn. Mái tóc nhô ra giữa đỉnh trán thành hình chữ V thì không thể hanh thông trên đường hoạn lộ. Nhưng bù lại giữa hai lông mày của ông được đóng chữ Xuyên và có một nét lớn dài như vành trăng khuyết giống như dấu trên trán Bao Công, tỏ rõ ông là người kỳ tài và trường thọ!

Sau cuộc hội ngộ giữa các anh chị hậu sinh với lão thi nhân thì hầu như lúc nào rảnh viết chúng tôi đều tụ tập đến hầu chuyện ông. Ông đủ khối chuyện. Chuyện các nhà thơ Trần Mai Ninh, Hoàng Lộc, Trần Hữu Thung, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, chuyện Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Thường… Hay nhất là chuyện Trương Tửu hầu rượu Tản Đà. Sau này Trương Tửu có viết về việc này và trở thành một tư liệu quí về đại thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu. Và thứ nữa là chuyện thi sĩ Hoàng Cầm diễn vở kịch Kiều Loan của mình mà lấy được người đẹp.

Hữu Loan có sự đánh giá khá chính xác thơ ca kháng chiến chống Pháp. Đấy là cuộc cách tân mạnh dạn và thành công. Không kể các bậc khai quốc công thần nền văn nghệ kháng chiến thì những tên tuổi như: Trần Mai Ninh, Hữu Loan, Hoàng Lộc, Trần Hữu Thung, Hoàng Trung Thông, Chính Hữu… có vị trị xứng đáng trong nền văn học cách mạng!

Biết tôi có dịch thơ Đường, ông khen tôi dịch bài “Chiến thành nam” của Lý Bạch có hai câu xuất sắc là: “Rửa gươm trong sóng bể dâu, Ngựa ăn cỏ máu tận đầu Thiên Sơn”. Ông bảo thơ Đường là đỉnh cao của thơ ca Trung Quốc và cũng của nhân loại. Không nhà thơ Việt Nam nào không học thơ Đường, không ảnh hưởng Đường thi! Rồi ông đọc bài thơ ông dịch, “Tương tiến tửu” của Lý Bạch. Bài thơ dịch sát nghĩa và giữ đúng hình thức trong nguyên bản. Tôi còn nhớ mở đầu Lý Bạch viết: “Quân bất kiến! Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai”. Hữu Loan dịch: “Thấy chăng ai! Dòng nước Hoàng Hà từ trên trời chảy xuống!” Đó cũng là một bài dịch thành công của Hữu Loan.

Đàm đạo, tâm tình với Hữu Loan tôi mới biết đời ông thực sự trầm luân sau vụ Nhân văn-Giai phẩm. Ông thì không bị liên luỵ và hệ luỵ gì như các bậc đàn anh khác, nhưng với tính khí cương cường thẳng thắn, trung thực, ông ghét cay, ghét đắng đám hãnh tiến xu thời, nhân cớ dậu đổ bìm leo bán rẻ bạn bè để mưu cầu lợi ích cá nhân. Với lại người đời chưa hiểu hết sức nghĩ, sức cảm trong “Màu tím hoa sim”, vu cho ông hết tội này đến tội khác, ông chán đám quan tham ô lại, ông phủi tay bỏ về quê thồ đá nuôi vợ con!

Kể đến năm 1988, ông đã có thâm niên hơn 30 năm thồ đá. Một vóc dáng thư sinh như ông mà làm cái công việc của lực điền trong hơn 30 năm qua là một việc hi hữu. Nhưng đám trương tuần, hương vệ đời mới có để cho ông yên thồ đá kiếm sống đâu. Khi thì chúng xầm xì: “quân Nhân văn-Giai phẩm”, khi thì chúng hỏi giấy tờ gốc chuyển về. Không có giấy tờ, dù ông ở giữa bổn quán chúng vẫn nói ông là dân lậu. Chúng không cho ông nhập khẩu dài dài. Ngay bây giờ không có hộ khẩu đã khó sống, huống hồ thời ấy, huống hồ người có dính líu đến Nhân văn– Giai phẩm và có bài thơ “nhạc vàng”!

Ông đau xót kể lại:

Có một lần mình thồ đá dọc bờ sông Mã, đám công an xóm đến hạch sách mình. (Hồi ấy và cho đến năm 2004 công an địa phương chưa có sắc phục riêng như bây giờ nên không dễ phân biệt với người thường). Chúng nó bảo: “Cho xem giấy tờ”. Mình quát: “Tôi người làng đây giấy tờ gì!” Chúng bảo: “Vẫn biết ông là người làng, nhưng ông bỏ làng bao nhiêu năm, ông làm gián điệp cho Mỹ –Diệm thì ai biết!” Tôi tức quá tôi chưởi: “Mồ cha chúng mày, chúng mày nhìn ai cũng là gián điệp cả!”. “Không gián điệp thì cũng Nhân văn–Giai phẩm, nhạc vàng, còn hơn cả gián điệp!” Chúng xỉa xói. “Bọn mày chưa vỡ bọng cứt mà đã học đòi tố láo! Gọi cha mày ra đây!” Tôi chưởi lớn. Thế là chúng xông vào đánh tôi nằm bẹp trên mặt đê, còn hai sọt đá chúng xô xuống sông!

Bài học vỡ lòng chua chát ấy tôi khắc ghi khi trở lại sống ở bổn quán. Cuộc sống thôn dã cũng có nhiều mặt tốt của nó nếu như dân trí được nâng lên. Còn với dân trí thấp, bạo lực lộng hành thì sống ở nơi thôn dã quả là rùng rợn. Tôi biết những kẻ thừa hành công vụ cũng chỉ là người ngu tối. Vì những ngày đó có nhiều kẻ làm to gấp nhiều lần công việc của tôi mà nhận thức xã hội, học lực, văn hoá còn quá yếu huống gì đám trương tuần, dân quân, du kích, công an xóm, công an xã. Đến như tôi, tôi cũng chưa hiểu Nhân văn-Giai phẩm sai lầm ở chỗ nào và bài hát “Màu tím hoa sim” nhạc vàng ở đâu, huống gì người mù chữ.

Nhiều anh em mà đời gọi là Nhân văn–Giai phẩm thật ra là những con người tốt, muốn đất nước mình tiến nhanh hơn, cuộc sống tươi đẹp ơn, chống bạo quyền, chống tham ô, lãng phí. Khi tôi bỏ về quê, tôi đã biết có nhiều người vì quá cực đoan mà vu oan cho họ.

Còn đối với tôi, chưa bao giờ tôi nghĩ “Màu tím hoa sim” là thơ vàng hay nhạc vàng gì cả. Đây là bài thơ hoàn toàn riêng của tôi, tôi viết cho người vợ hiền thảo của mình chết còn quá trẻ. Người thật, việc thật, chi tiết nào trong bài thơ đều cũng là sự thật. Đến như sự mất mát hy sinh cũng là sự thật nữa là. Vợ tôi tên là Lê Đỗ Nhật Ninh, khi cưới tôi thì hai người anh trai của nàng là bộ đội đang chiến đấu ở vùng Đông Bắc không về dự cưới em gái được. Đám cưới kháng chiến, mà nhà tôi cũng khó khăn nên nàng đã phá vỡ tục lệ là không may áo cưới. Đúng thật trăm phần trăm như vậy. Còn nàng ở hậu phương lại bị chết còn tôi người lính xông pha lửa đạn thì không chết. Cuộc chiến tranh xảy ra ở đất nước ta nó dữ dội là vậy và sự thật là vậy, có gì khác nữa!

Thời điểm năm 1988 không được như bây giờ nhưng cũng hơn vạn lần thời Hữu Loan bỏ về quê thồ đá. “Màu tím hoa sim” tuy không được phổ biến nhưng người ta cũng không nặng nề nữa. Xã hội đã có cái nhìn cởi mở. Điều ấy cũng là may mắn cho Hữu Loan và nhiều người như ông.

Hữu Loan ở trại sáng tác Long Hải đến ngày thứ năm, tôi mới biết ông đến dự trại cũng với “tư cách” chui. Nghĩa là không phải tiêu chuẩn hội viên Hội Văn nghệ tỉnh Đồng Nai, cũng không phải khách mời của Hội Văn nghệ hay là của tỉnh! Lúc này nhiều người như ông cũng chưa được phục hồi hội tịch. Tức là danh hiệu nhà thơ chưa được Nhà nước công nhận. Nhân dân công nhận mà Nhà nước chưa công nhận thì đi dự trại sáng tác của Hội Văn nghệ địa phương cũng không có tiêu chuẩn. Lúc này cả nước đang đói to. Lương cán bộ chỉ sống khoảng dăm bảy ngày, gạo rất hiếm, người ta phải bán bo bo thay gạo. Ở Nam bộ có đỡ hơn ngoài Bắc nhưng cũng không thể phóng khoáng mời tất cả anh em văn nghệ sĩ dự trại được. Khi tâm tình, tôi hỏi nhà thơ vào du lịch Nam bộ do ai mời thì Hữu Loan nheo mắt cười khỉnh: “Ma nào nó mời, tớ có hai đứa con trai là thợ xẻ, chúng nó vào Nam bộ đi xẻ thuê, tớ bám vào luôn.”

“Bác thì như vậy, còn con cái bác có sao không?” Tôi tò mò hỏi.

“Tôi có đứa con gái học giỏi lắm, thi đỗ đại học nhưng trên cũng chỉ cho đi dạy cấp hai. Đám con trai lớn thì như vậy đấy.”

Nghe ông kể, tôi rưng rưng nước mắt. Đến con chó nó cũng được du lịch vũ trụ, còn nhà thơ tài danh của mình theo con tha phương cầu thực!

Ông sống được nhiều ngày ở Nam bộ là nhờ được hai người đẹp mến mộ tài danh ông là Hoài Tố Hạnh và Nguyệt Cầm. Hai nữ sĩ đầy nghĩa hiệp mời ông về nhà, chăm lo ăn ở cho ông mấy tháng trời. Nguyệt Cầm thì tôi không biết nhà riêng, nhưng Hoài Tố Hạnh thì tôi được Hạnh mời về nhà riêng ở lại lúc tôi đang lang thang cơ nhỡ tại Biên Hoà. Đó là một buổi chiều đẹp nhưng tôi lại rất buồn vì tiền đã hết mà việc không xin được. Ông phó tổng biên tập Đài Phát thanh Đồng Nai nói rằng: “Đài rất cần người, Nam bộ rất thiếu cán bộ nhưng nhận cán bộ là phải qua Ban Tổ chức tỉnh và phải có hồ sơ chuyển đến đầy đủ, chứ không nhận tay ngang”. Hoài Tố Hạnh lúc này đang làm phóng viên cho Đài Phát thanh Đồng Nai thấy tôi đang lang thang, cô bảo tôi về nhà nghỉ rồi sáng mai đi tiếp. Tôi đã nhờ Hạnh viết giấy bảo lãnh cho tôi thay chứng minh thư, để bảo đảm an ninh mà địa phương cư ngụ của Hạnh yêu cầu. Tôi được Hạnh cho ăn cơm và tối đó được ngủ riêng tại nhà Hạnh.Tôi nghĩ chỉ những người bỏ quê kiếm sống mới có những nghĩa cử vượt qua nếp thường như vậy và đẹp như vậy. Tôi là người con trai đã có vợ con, Hạnh lúc đó là gái chưa chồng. Tôi hết sức trân trọng, cảm kích sự cưu mang của Hạnh.

Với Hữu Loan, Hoài Tố Hạnh và Nguyệt Cầm cũng cưu mang như vậy! Khi họ đi dự trại văn nghệ tỉnh, họ kéo ông đi theo luôn. Tôi đồ rằng nếu không có cuộc cãi vã to tiếng giữa hai người đẹp vì Hữu Loan thì chắc rằng nhà thơ cứ yên tâm dự trại cho đến mãn khoá. Nhưng tối thứ năm xui xẻo ấy, hai nữ sĩ lại túm tóc, lôi áo nhau ra giữa hội trường của nhà sáng tác mà thượng cẳng chân, hạ cẳng tay, giống hệt cảnh trong tranh đánh ghen dân gian. Hữu Loan đứng giữa hai người phải khóc và nói thơ hoà giải: ”Đừng ghét nhau chóng già, Hãy thương yêu nhau như ngày qua!”

Với người giữ tay hòm chìa khoá, lo ăn uống cho trại sáng tác thì không thể “nghệ sĩ” mãi được. Cái gì đến thì nó đến. Nó đến thì Hữu Loan phải ra đi. Sáng ngày thứ bảy, Hữu Loan phải ôm gói trái bưởi lên đường. Anh em thương lắm nhưng không làm gì được. Lúc này tôi lại nhớ đến bài thơ “Mưa thu làm tốc mái nhà” của Đỗ Phủ, học Đỗ Phủ ước có nhà nghìn gian để che cho vạn hàn sĩ trong thiên hạ đang cơ nhỡ.

Đêm trước khi chia tay, anh em đến với ông rất đông. Tôi cũng được cùng anh em lại hầu chuyện Hữu Loan. Ông chép thơ ông vào sổ tay nhiều người bạn. Tôi cũng được ông chép một bài hiện còn trong sổ tay ở quê nhà. Bài ấy có tựa đề là “Lời cây gỗ vuông”. Chữ ông nghiêng nghiêng, kiểu chữ người học trước Cách mạng tháng Tám, nét hơi to nhưng dễ đọc. Tôi nhớ mấy câu kết như thế này:

“Tôi cây gỗ vuông chành chạnh suốt đời.
Lăn long lóc,
Chân tín đấy!
Mặc rìu, bào phó mộc!”

Rồi ông ký cẩn thận và viết cho tôi thêm một vài lời: “Chép tặng Đỗ Hoàng - Một người có tâm mà tôi tin tưởng sau này!”

Sáng chia tay nhà thơ lại là một sáng rất đẹp. Biển Long Hải nắng nôi tràn trề, cây cối giữa mùa mưa lá nõn non xanh bất tận. Bà Rịa như một cõi Bồng Nhược. Và cảnh trời nước như thế này thì chỉ có Niết Bàn mới xứng đáng, chứ đâu phải cảnh chia ly đói nghèo với nhà thơ kính yêu đã và đang chịu khổ nạn!

Hữu Loan vẫn măc bộ áo quần nâu cố hữu, tay cầm bọc áo quần gói bằng tấm ni lông đã ngả màu vàng úa, chân đi dép tông, gót dép đã mòn như lỡi dao cạo, đầu không đội mũ. Chiếc mũ cói rộng vành ông treo hờ sau lưng trông như tráng sĩ Kinh Kha vượt sông Dịch báo thù cho chủ. Mái tóc bạc như cước nổi bật giữa vạt nắng vàng không lẫn vào cảnh vật cỏ cây lúc này. “Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên, Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên“ (Người tráng sĩ bạc đầu buôn rầu ngẩng nhìn trời. Chí lớn và đường sống hai cái đều mờ mịt). Tuy hình hài bên ngoài trông quá trần ai như vậy nhưng dáng dấp ông vẫn toát lên sự cao thượng, vẫn xứng với phong cách đạo cốt tao nhân mặc khách. Cảnh chia tay diễn ra trong sự buồn thương, bi hùng.

Hữu Loan đi đã khuất sau các trảng đồi bát úp nhưng mái đầu bạc của ông như vẫn còn trước mặt chúng tôi. Biển Long Hải vẫn xô vào bờ từng đợt sóng bạc trắng như tóc của thi nhân. Bất giác tôi nhớ lại bài thơ “Bên sông tiễn Hạ Chiêm“ của Đỗ Phủ viết gần hai nghìn năm trước:

“Bi quân lão biệt lệ triêm cân
Thất thập vô gia vạn lý thân.
Đãn kiến chu hành phong hựu khởi.
Bạch đầu lãng lý, bạch đầu nhân!”

Tạm dịch:

Thương anh già cả lệ trào
Mái nhà không có sống sao giữa đời?
Con thuyền, ngọn gió chia phôi.
Bạc đầu sóng, bạc đầu người ra đi!

Hà Nội 12-8-2005

Nguồn: Tạp chí Nhà Văn tháng 11/2006. Bài đăng trên talawas được biên tập lại đôi chá»— vá»›i sá»± đồng ý của tác giả.