© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcThơ và Thơ TrẻVăn học nước ngoài
13.6.2003
Ezra Pound
Thi chÆ°Æ¡ng 49
Hà Vũ Trọng dịch và chú thích
 
[1]

Tặng bảy hồ, và những câu thơ chẳng biết của ai:
Mưa; sông vắng; viễn hành,
Lửa chớp từ mây băng giá, mưa nặng hạt trong chiều
Trong khoang thuyền một ngọn đèn .
Rặng lau trĩu; cong mình,
bụi tre cất tiếng như khóc

Trăng thu; đồi sừng sững mọc quanh hồ
trên nền hoàng hôn
Chiều như bức mành mây
nhạt nhoà trên sóng gợn; và xuyên qua
cây quế cành dài sắc nhọn,
một điệu buốt trong bụi lau.
Bên kia đồi tiếng chuông chùa
vẳng theo làn gió.
Giăng buồm tới đây tháng Tư; có lẽ quay về tháng Mười
Con thuyền mờ bạc; chậm trôi;
Mặt trời cháy lẻ loi trên sông.

Nơi ngọn thu kì bắt bóng tà dương
Khói bếp nhà ai phất phơ giao nắng

Tới rồi tuyết thổi thốc trên sông
Cả nhân gian phủ bạch ngọc
Thuyền con bồng bềnh như chiếc hoa đăng
Nước chảy quánh cơn lạnh. Và ở Sơn Gian
người dân nhàn tản.

Ðàn ngỗng trời sà xuống cồn cát,
Mây tụ cửa tò vò
Con nước mênh mang; mùa thu ngỗng lội từng hàng
Quạ lao xao trên ánh đèn câu
Một tia sáng di động trời bắc;
nơi lũ bé trai lấy đá liệng tôm.
Năm một ngàn bẩy trăm [vua] Thanh[2] tới vùng hồ núi này.
Một tia sáng di dộng trời nam.

Quốc gia tạo nên của cải lẽ nào để mang công mắc nợ?
Ðấy là ô nhục; là con quái thú ba đầu Geryon.
Con kênh này còn dẫn tới Thiên Tân[3]
mà hoàng đế xưa đào để mua vui

"Ðón mây rực rỡ
Vần vũ lan toả ;
Nhật nguyệt chiếu soi
Mỗi buổi ban mai"[4].


Hừng đông; ra làm
Chiều tà; về nghỉ
Ðào giếng; uống nước
Cuốc ruộng; ăn cơm
Vương quyền? Với ta có nghĩa chi đâu?[5]

Chiều kích thứ tư [6]; tĩnh tại.
Quyền uy giáng phục muôn loài dã thú.

© 2003 talawas



CANTO 49
("The Seven Lakes Canto")

Bottom of Form For the seven lakes, and by no man these verses:
Rain; empty river; a voyage,
Fire from frozen cloud, heavy rain in the twilight
Under the cabin roof was one lantern.
The reeds are heavy; bent;
and the bamboos speak as if weeping.

Autumn moon; hills rise about lakes
against sunset
Evening is like a curtain of cloud,
a blur above ripples; and through it
sharp long spikes of the cinnamon,
a cold tune amid reeds.
Behind hill the monk's bell
Borne on the wind.
Sail passed here in April; may return in October
Boat fades in silver; slowly;
Sun blaze alone on the river.

Where wine flag catches the sunset
Sparse chimneys smoke in the cross light
Comes then snow scur on the river
And a world is covered with jade
Small boat floats like a lanthorn,
The flowing water clots as with cold. And at San Yin
they are a people with pleasure.
Wild geese swoop to the bank-bar,
Clouds gather about the hole of the window
Broad water; geese line out with the autumn
Rooks clatter over the fishmen's lanthorns,
A light moves on the north sky line;
Where the young boy prods stones for shrimp.
In seventeen hundred came Tsing to these hill lakes.
A light moves on the south sky line.

State by creating riches shd. Thereby get into debt?
This is infamy; this is Geryon.
This canal goes still to Ten Shi
though the old king build it for pleasure

KEI MEN RAN KEI
KIU MAN MAN KEI
JITSU GETSU KO KWA
TA FUKU TAN KAI

Sun up; work
Sundown; to rest
Dig well and drink of the water
Dig field; eat of the grain
Imperial power is? And to us what is it?

The fourth; the dimension stillness.
And the power over wild beasts.




Chú thích:

[1] "Canto thứ 49" còn có tên là "Thất hồ thi chương" (The Seven Lakes Canto), là canto ngắn nhất trong số 100 canto đầu, được chia thành 4 phần: phần I, từ câu 1-3; phần II, câu 33 - 36; phần III, câu 37 - 45; và phần IV, câu 46 - 47. Phần I chiếm 75% bài thơ, cảm hứng của Pound có thể cho là xuất xứ từ bộ tranh thuỷ mặc tám bức của thiền sư hoạ sĩ Mục Khê thời Ðường, nhan đề là "Bát cảnh Ðộng đình hồ" (thường gọi là "Tiêu Tương bát cảnh") thuộc hạ lưu sông Giang tử. Hoạ phẩm này được các hoạ sĩ Trung quốc và Nhật bản sao chép lại qua nhiều thế kỉ. Trong bộ tranh sưu tập của Pound, trên mỗi bức cũng có đề những bài thơ ngắn không ghi tên giác giả vừa bằng chữ Nho và chữ Nhật. "Canto 49" là nghi thức để hài hoà tâm (mind) và tánh (nature) gồm một sự phản kháng lại con quái thú ba đầu Geryon của vua Elytia [trong thần thoại Hilạp biểu tượng cho sự bóc lột và bạo hành Thiên nhiên]; cũng để nhắc lại một bài thơ trong Xuân thu tả truyện. T S Eliot từng ngợi ca Pound là "nhà phát minh của thi ca chữ Nho cho thời đại chúng ta", Pound đã mở ra phương pháp để tái xét lại chất liệu của thơ trên bình diện toàn cầu. Tác phẩm đầu tiên của Pound phát khởi từ chữ Nho (Cathay năm 1915) đã cho ông phạm vi để tiến xa các thử nghiệm bằng thi pháp "hình tượng" & thể thơ "tự do" hay "mở" - cũng trong nội dung các bài thơ dịch , chủ đề chiến tranh & lưu đày cùng sự phê phán cuộc đại chiến đang lan tràn khắp châu Âu. Ðược viết ra hai thập niên sau, "Canto 49" thay đổi thể tự do của Cathay sang lối tiếp cận phiên dịch từ văn liệu chữ Nho theo từng kí tự theo cấu trúc biểu ý mà Pound là kẻ kế thừa từ nhà Ðông phương là Fenollosa (Xin xem cuốn The Chinese Written Character as a Medium for Poetry [Văn tự chữ Nho như là chất liệu cho thơ] của Ernest Fenollosa, Ezra Pound hiệu đính, 1936). Cấu trúc biểu ý (ideogram structure): lí thuyết về thi pháp của Ezra Pound qua các giai đoạn khác nhau như từ Hình tượng (Imagism), - "hình tượng di động", Cơn lốc (Vortex) đến Biểu ý (Ideogram) - hướng tới nguyên tắc cấu trúc cùng một lúc mang nhiều ưu điểm: cụ thể, chuyển động, năng lượng và trường (field) hay thể (form). Chiều hướng nhắm tới một phương pháp có thể vận dụng được những chất liệu phức hợp trong một ngữ cảnh đơn phương mà không mất đi tốc độ của tác dụng tâm lí. Ðại thể là phương pháp Biểu ý đem những yếu tố dị biệt vào trong sự xắp cạnh nhau (juxtaposition) triệt để, thúc đẩy sự "phối trí bằng tính bất phù hợp". Chúng ta được [tác giả] nhắc nhớ rằng chức năng "thâm sâu hơn" của thi pháp Hình tượng là để gây ý thức bất chợt về thực tại của chúng ta, của trí tuệ (the nous) ra khỏi mọi tâm trạng cá thể, của biển cả kết tụ và lưu tồn, của pha lê ngời sáng tan chảy bao bọc ta được hoà chan ánh sáng (The Guide to Kulchur - 1938).

[2] Nguyên văn là Tsing, có lẽ để chỉ hoàng đế Khang Hi (1662-1723) và cuộc Nam tuần của ông.
[3] Nguyên văn Ten Shi, có thể là một chuyển âm tên của thành phố phía bắc Trung quốc là Thiên Tân, tại đây là mút cùng của con Kênh Lớn (phù hợp với con kênh nhắc tới trong câu thơ này) dẫn từ sông Giang tử lên. Nó được đào để chuyên chở mễ cốc từ vùng trung nguyên phì nhiêu lên phương bắc.
[4] Bài "Nghênh vân ca" tương truyền của vua Thuấn, trong sách Thượng thư, E. Pound phiên âm từ Kanji (Hán tự).
[5] Phiên dịch bài dân ca "Kích nhưỡng ca" (Bài ca vỡ đất) thời nhà Nghiêu.
[6] Pound liên hệ tới lí luận về chiều không gian thứ tư của Einstein đương đương với phản cảm tính hay ngoài cảm quan.