© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcVăn học Việt Nam
17.2.2007
 
Phỏng vấn Kiệt Tấn
Phan Thị Trọng Tuyến, Đặng Mai Lan thực hiện
 1   2 
 
Nhà văn Kiệt Tấn
Truyện ngắn đầu tay anh viết lúc nào, trong bối cảnh nào?

Truyện ngắn đầu tay của tôi? Thiệt tình mà nói, tôi cũng không nhớ rõ. Bởi lẽ tôi đã viết lai rai từ thuở còn học trung học và đại học. Hình như truyện ngắn đầu tay tôi viết về Diane, người em xóm học, khi tôi từ Paris trở về Québec năm 1961, không còn nhớ rõ tựa, đăng trên nội san Đất Lạnh số 1 của nhóm sinh viên Việt du học tại Québec chủ trương. Đất Lạnh ra có mỗi một số thì toà soạn đóng cửa đình bản vì cụt vốn, các mầm non đại văn hào đều bị bắt buộc nghỉ dài hạn không ăn lương.

Trước khi nói về văn chương, xin lạc đề một chút: hình như anh hơi kì thị chủng tộc? Anh đã chẳng mê toàn mấy cô đầm, hết đầm Âu đến đầm (bắc) Mĩ. Hay là đầm dễ mê Kiệt Tấn hơn Mít?

Nói kì thị chủng tộc thì hơi quá đáng...

Hay là vì dạo đó có lẽ thiếu con gái Việt Nam đi du học? Hay là việc "giao du" trai gái Việt Nam có nhiều khó khăn, trở ngại (thí dụ: không thể có sex nếu không cưới nhau)? Con gái Việt Nam khó "thương" hơn? Anh nói sơ về khoảng thời gian du học ở Québec...

Thời buổi đó ở Québec chỉ có mỗi một cô sinh viên người Việt, lại lớn tuổi hơn tôi và chỉ có những là xương. Đành chịu thua. Sức người có hạn!

Mấy cô đầm mới ngó vô thấy lạ, bồ bịch rồi thì cũng quen lần. Lên giường, lúc lâm trận mịt mờ thì cô gái nào cũng chỉ là một cô gái thôi. Chỉ có chia động từ thì khác... Còn rên rỉ thì cũng y chang như nhau... Còn chuyện viết lách. À!... Để tôi động não ráng nhớ lại coi. Nếu không lầm thì "Trước mặt" là truyện tình đầu tay của tôi được lên mặt báo, nhưng báo nào thì tôi không còn nhớ rõ. Đó là sự nối tiếp của cuộc đời tình ái lăng nhăng của tôi. Truyện kể tôi đến nhà đón một cô vũ nữ bồ bịch đi chơi. Trong lúc ngồi chờ cô em trang điểm, tôi hồi tưởng lại những cuộc tình đã qua ba trật bốn vuột của mình mà ngán ngẩm. Những Hoa, những Tuyết, rồi Diane, Louise, Danyèle, những Nguyên, Hường, Nhung… đều lần lượt giã biệt. Buồn ơi! Ta xin chào mi. Truyện kết thúc bằng những câu hỏi miên man không dứt: Cô em sẽ phụ tôi, tôi sẽ bỏ nàng, tôi và nàng sẽ yêu nhau dai dẳng, nàng sẽ có con với tôi, tôi sẽ cưới nàng, nàng sẽ bỏ tôi bất thần để đi lấy chồng? Hoàng hôn lần lữa năm hầu hết, hờ hững ai xui thiếp phụ chàng... Tôi không còn dấu vết nào của truyện "Trước mặt".

Thời đó đưa vũ nữ bồ bịch đi chơi có "dễ dàng" không? Vì giới nghiêm, thiết quân luật, vợ nhà… vân vân.

Đưa vũ nữ bồ bịch đi chơi có "dễ dàng" hay không là tuỳ ở tài nghệ và tâm tánh của mỗi người. Giới giang hồ có câu "chịu chơi thì đừng có run". Nhắc giới nghiêm, tôi nhớ một lần đó, còi giới nghiêm vừa hụ, tôi lật đật nhảy lên xe bốn bánh phóng ào ào từ quán nhậu ở Chợ Đũi về Hàng Xanh, quẹo cua lỡ trớn lạc tay lái ủi sập bót cảnh sát ở gần nhà, may nhờ chỗ công chức quen mặt nên sếp bót thông cảm ...

Khi trở về Việt Nam, anh làm việc ở đâu? Làm công chức cao cấp có chán không?

Tôi làm chuyên viên ở Bộ Kinh tế. Tánh tình, tóc tai, áo quần dị hợm nên bị đì làm chuyên viên dài dài. Cho đến mười năm sau, đùng một cái, được đề cử lên làm Giám đốc Định chuẩn. Nghề đó không ai giành, không do bè cánh hay piston đẩy lên chi hết. Khi làm giám đốc một cơ quan tự trị gồm toàn những người trẻ do mình tuyển dụng, tôi rất phấn khởi...

Truyện của Kiệt Tấn đa số đều đưa vấn đề tình dục vào? Tại sao?

Câu trả lời thật ra khá đơn giản: Cuộc tình nào của tôi cũng tay chưn rối beng, thịt da bát ngát, đồi núi chập chùng, cỏ non mút mắt. Khi hồi tưởng và viết lại thì nó y chang như vậy thôi, cũng đất trời choáng váng, thịt da bấn loạn, đâu có mất công gì phải đưa với đón tình dục vào truyện hoặc hư cấu làm chi cho nó nhức cái đầu, mệt thằng nhỏ (Cười cười). Xin cô Hai thông cảm.

Có lần, khi nói về tình dục, tôi đã minh định: "Tôi viết về tình dục với mục đích cho độc giả thấy tình dục là một điều tự nhiên và đẹp đẽ". Lần khác, khi viết về tôi, Nguyễn Hưng Quốc đã nhận xét: "Nhiều người cho là Kiệt Tấn viết bạo. Thêm điều này nữa: Bạo nhưng không bao giờ nhớp nhúa. Thiếu cái trong sáng của Thạch Lam, tình yêu trong truyện Kiệt Tấn lại gần hơn với sự thực, với cuộc đời" (Tuyển tập Kiệt Tấn, trang 476).

Anh có thể đưa ra một vài đoạn văn tiêu biểu của anh khi viết về tình dục?

Khi đọc những truyện tình hôi hổi tình dục của tôi trong Tuyển tập, ở trang 17, Đoàn Nhã Văn đã phân tích và để ý được điểm này: "Một trong những điểm đặc thù ở chữ nghĩa của Kiệt Tấn, trong vùng cấm địa này, là đặt nhiều cặp tính từ đằng sau một câu nói để nhấn mạnh điều diễn tả. Cặp chữ này nối liền cặp chữ kia tạo nên những đợt sóng dập dồn trong dòng suy nghĩ người đọc. Vì thế, người đọc thấy mình tham gia đủ đầy qua những vùng chữ nghĩa mang hơi hướm đàn bà:

Tuyết vừa ngồi xuống là tôi đi thẳng vào nỗi ám ảnh của mình. Bàn tay tôi sục sạo tìm kiếm đoá hoa thầm kín của nàng. Mềm mại, ấm áp, trơn mượt, nhung êm. Mê mẩn, sung sướng, hạnh phúc. (TNBN, "Đêm cỏ tuyết", tr. 56).

Chân tay hai đứa quấn quýt chằng chịt rối beng, tưởng không thể tháo rời được nữa. Rên rỉ, năn nỉ, xô ra, quấn vào, cuồng nhiệt, mê tơi, cực điểm, chết ngất…  (TNBN, "Người em Xóm Học", tr. 105)".

Cái gì anh cũng ngó, cũng mó, cũng sờ, cũng nếm tuốt tuột. Ừ, dê dễ sợ: anh cầm cái bông bưởi, anh hửi cái bông hồng, anh bồng cái bông cúc, anh hít cái bông mai, anh liếm luôn bông lys... Chẳng còn chi là đoá hoa thành thị/ núi rừng/vương giả! Chẳng lẽ với đàn bà anh luôn "phàm tục" như vậy sao? Chuyện tình của anh chóng vánh đi đến... đỉnh cao xác thịt, phải chăng anh cố ý bỏ quên phần... trái tim? Trái tim thì rất khó sờ mó! Bởi cách một lớp thịt mỡ!

(Đưa hai tay lên trời) Ối! Tôi chỉ sờ nếm cái gì mà đàn bà có thôi, chớ tôi đâu có sờ mó cái gì đàn bà không có đâu mà cô Hai cự nự? (Giở Tuyển tập ra) Ở trang 492, Thuỵ Khuê đã nhận xét: "Đứng trước vẻ đẹp của người đàn bà, Kiệt Tấn trở thành thi sĩ. Văn ông không hề gợi dục, khi viết dường như có chất thơ đâu đó lãng đãng bước vào. Nhục cảm của thi nhân bỗng nhiên trong sạch lắm: Hương nắng còn đọng trên da lụa, tay khua tưởng đánh thức mặt trời, dục lên sóng biển và điệu tây ban cầm sẽ phả ra từ khung cửa sổ khuất kín của nàng. Dấu cỏ mất còn đó? Dấu bầm bên vú trái còn đó. Lời thề yêu em suốt đời còn đó. Tôi nựng nịu gò tình. Hôn lên ẩm ướt. Yêu. Yêu." (TNBN, "Người em Xóm Học", trang 113)

Đó! Cái cung cách yêu đương và thưởng thức đàn bà của tôi là như vậy đó. Viết về tình dục kiểu đó cô Hai có bị dị ứng không?

Dạ dị ứng thì không dị ứng, chỉ thấy hơi sấm chớp... giùm mấy nàng. Toàn là những người nữ tội nghiệp hết sức. Thôi xin hỏi tiếp câu sau. Rất nhiều ca dao trong truyện Kiệt Tấn. Tại sao?

Tôi được cái may mắn là từ thuở lọt lòng, tôi sống ở nhà quê và xóm bình dân. Lối xóm ai ru con cũng đều biết ầu ơ ví dầu vài ba câu ca dao. Má tôi cũng biết ầu ơ… Ví dầu ví dẩu ví dâu, ví qua ví lại ví trâu vô chuồng. Hoặc: Má ơi đừng đánh con đau, để con hát bội làm đào má coi. Rồi lớn lên, khi đi học, nhờ học giỏi, tôi được lãnh thưởng mấy quyển sưu tầm tạp lục ca dao, tôi đọc thấy sướng ran, bèn đọc đi đọc lại nên thuộc lòng hồi nào không hay. Khi cầm bút lên viết thì nó cứ rỉ rả tuôn ra vậy thôi chứ chẳng có bí quyết gì hết ráo. Hơn nữa, khi viết về miền Nam ruộng đồng mút mắt, sông nước tư bề, khi viết về những người bình dân sống nơi miền đất này mà không có hò hát, không có ca dao, tôi nghĩ là một thiếu sót lớn. Hò hát và ca dao tạo được bầu không khí quê mùa cho truyện viết, cũng hợp tình hợp cảnh lắm chớ. Nên lắm! Ngoài ra, khi còn đi học, đôi khi tôi còn dùng ca dao để chim gái, như dụ dỗ cô Hoa trong "Bến đò trao thơ" khiến cho cô xiêu lòng mà trao duyên cùng tướng cướp: "Hãy thề với anh hết miễu qua chùa, Ai cho anh uống thuốc bùa anh mê?" Rụng rún chưa em Hai?

Dạ rụng là cái chắc, nhất là mấy em nào tưởng ca dao là thơ anh... làm thiệt. Tiêu tùng mấy hồi cả một đời huê! Bây giờ xin nói chuyện liên hệ... với nhóm Sáng Tạo (Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền…) như thế nào?

Nhóm Sáng Tạo à? Để coi… Nói gần nói xa không qua nói thiệt. Tôi nghĩ sở dĩ nhiều người tưởng rằng tôi có liên hệ nhiều với nhóm Sáng Tạo là vì Sáng Tạo đã đứng tên xuất bản Điệp khúc tình yêu và trái phá, tập thơ đầu tay của tôi năm 1966. Thiệt ra, khi tôi về nước khoảng cuối năm 1963 thì tờ Sáng Tạo đã đình bản. Tôi cùng nhiệm sở với Cung Tiến nên nhân một dịp đi chơi chung, Cung Tiến có ghé ngang Thị Nghè giới thiệu tôi với Mai Thảo và Anh Ngọc ca sĩ khi đó đang lai rai ba sợi.

Giao tình Kiệt Tấn với các vị ấy ra sao?

Rủi thay, Chưa gặp anh, em đã có bầu! Mới gặp nhau lần đầu mà tôi và Mai Thảo đã chạm súng lẻ tẻ (Cười cười).

Anh còn nhớ lí do cuộc chạm súng đó không? Sau này bác Mai Thảo mỗi lần sang Pháp có gặp lại anh không? Và rồi sao nữa hả anh Kiệt Tấn?

Cũng chẳng có trăng sao gì hết. No stars where! Nói tiếp. Sau khi tờ Sáng Tạo đình bản thì Mai Thảo quay sang làm tờ Nghệ Thuật, toà soạn toạ lạc tại đường Phạm Ngũ Lão, máy in cũ mèm chạy sầm sập như trời đổ mưa. Viên Linh làm thư ký toà soạn, Anh Ngọc thủ quỹ. Ca sĩ nhà ta thủ rất kỹ nên tôi chẳng bao giờ được trả nhuận bút. Tới toà soạn chơi thỉnh thoảng gặp Thanh Nam, Trần Thanh Hiệp, Thanh Tâm Tuyền, Tạ Tỵ, Phan Lạc Phúc, Cung Trầm Tưởng và nhiều tay khác nữa. Bài thơ đầu tiên của tôi đăng báo Nghệ Thuật hình như là bài "Biết bao giờ" tặng Lộc và Diane. Trong những bài kế tiếp, có nhiều anh ngợi khen bài thơ "Dòng sông và con thuyền 20 tuổi" của tôi. Trong nhóm, có lẽ tôi còn lỏi nhứt thời đó.

Còn chuyện "bắn" nhau?

Mai Thảo khi đó tiếng tăm lẫy lừng trong giới văn nghệ, "rằng nghe nổi tiếng cầm đồ”. Mai Thảo ra cái vẻ đàn anh văn nghệ, còn tôi thì chẳng có viết lách gì. Văn nghệ văn gừng không mắc mớ gì tới tôi hết. Do đó mà có chạm súng lẻ tẻ. Sau này, thỉnh thoảng Mai Thảo sang Paris chơi, có gặp tôi vài lần. Một bận, tôi rủ Mai Thảo và một số bạn bè: Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Nguyễn Cầm, Nguyễn Hưng Quốc... về nhà nhậu nhẹt. Lần này thì chạm súng lớn hơn với Mai Thảo về chuyện ăn uống. Cứ cái giọng kênh kênh "Bắc kì là nhất” thì làm sao mà chịu đời cho thấu? Còn Thái Tuấn, hồi ở Sài Gòn ngày trước chỉ gặp nhau có một lần: bữa đó tôi xỉn quá xỉn nên bật ngửa cười hả hả trong buổi nhạc thính phòng tổ chức tại nhà một ông Bộ trưởng chịu chơi. Sang Pháp, thường lui tới với nhau vì hợp tính. Thái Tuấn tặng tranh miễn phí là tôi chíp ngay. Thích lắm.

Có còn cuộc "chạm súng" nào khác nữa không?

Thì thỉnh thoảng đi ăn nhậu với nhau cho vui vậy thôi. Tôi vốn không thích bàn cãi hay tranh luận văn nghệ. Tôi chủ trương “Viết không có chủ trương”, và viết từ bên trái sang phải, từ trên xuống dưới là ăn chắc. Thời viết cho tờ Nghệ Thuật, thỉnh thoảng tôi xách một chai Johnnie đi bộ tới toà soạn, rồi kéo nhau đi nhậu. Thế là xong.

Trước đây anh đọc tác giả Việt Nam nào. Anh thích ai? Tại sao? Anh có đọc tác giả hiện nay trong nước không?

Tôi đã có dịp trình bày ý kiến mình về văn chương Việt trong bài “Thơ văn quê nhà trong trí nhớ” đăng trên Văn Học số 203 & 204 năm 2002. Nhắc lại, khởi đầu tôi đọc và học thuộc lòng Quốc văn giáo khoa thư, kế tiếp là quyển tiểu thuyết đầu tiên Đồng quê của Phi Vân, theo sau là các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn cùng với các tiểu thuyết nẩy lửa của Vũ Trọng Phụng, trinh thám của Thế Lữ, Phạm Cao Củng... Vài truyện ngắn và tuỳ bút của Võ Phiến, Mai Thảo, truyện tình của Nguyễn Đình Toàn, biên khảo và truyện phong tục miền Nam của Sơn Nam. Thơ thì đầu tiên là Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính, theo tiếp là các nhà thơ tiền chiến. Rồi thì chiến tranh Pháp Việt bộc phát, kết thúc bằng trận Điện Biên Phủ, đình chiến và chia cắt đất nước năm 1954. Thời kỳ từ 1954 đến 1975, chiến tranh Mỹ-Quốc-Cộng phừng phực đổ lửa, đất nước loạn cào cào, tôi đọc sách lung tung nhưng phần lớn thì ham chơi hơn là ham đọc và viết. Thời kỳ này, tôi thích Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên, Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Tạ Ký, Dương Nghiễm Mậu, Thế Uyên, Nhã Ca và còn những ai nữa, nhưng quanh đi quẩn lại thì vẫn là những người làm thơ, phần lớn.

Cũng nên nhắc lại là tôi thuộc thế hệ 40 nên lãnh đủ cuộc chiến tranh đằng đẵng 30 năm Pháp-Mỹ-Quốc-Cộng từ 1945 đến 1975. Thiệt là chó chết! (Lắc đầu).

Anh thích Nguyễn Bính và trích dẫn ông thi sĩ này khá nhiều, nhưng thơ anh không có tí ti âm hưởng của ông ấy.

Tôi khám phá Nguyễn Bính lúc 13, 14 tuổi gì đó. Thuở tôi bắt đầu biết si tình đàn bà con gái... và âm thầm đau khổ y hịch như sư phụ mình vậy. Tôi không hề có tham vọng làm một Nguyễn Bính thứ hai. Bởi lẽ đó là cách tự sát tốt nhất.

Hiện nay anh còn giữ được liên lạc với ai? Những suy nghĩ của Kiệt Tấn về văn học trong và ngoài nước? Và về những bạn văn của anh?

Để đáp câu này, tôi lại dựa vào bài viết “Thơ văn quê nhà trong trí nhớ” đã nhắc lại khi nãy. Nhưng lặp lại những ý kiến đó thì dài dòng lắm. Nếu tò mò muốn biết thì xin tìm đọc bài đó.

Anh nghĩ sao về tương lai (có vẻ đìu hiu) của văn học Việt Nam ngoài nước?

Khi nói về văn học ngoài nước, tôi tự ý giới hạn trong phần sáng tác bằng Việt ngữ. Theo tôi nghĩ, môi trường sống dài hạn của các sáng tác bằng tiếng Việt phải là nơi mà mọi người đều đọc được tiếng Việt, nói được tiếng Việt và viết được tiếng Việt. Vì có như vậy mới có người thưởng ngoạn, phê bình và bàn cãi. Một điều rõ boong [1] : Môi trường đó phải là đất nước Việt Nam. Ngoài nước, các sáng tác hải ngoại bằng Việt ngữ chỉ sống ngắc ngoải như người bị bệnh nan y, sống vất vưởng như một lũ cô hồn. Bởi lẽ ấy, tôi mong là một ngày nào đó, một ngày đẹp trời, các sáng tác hải ngoại sẽ được hồi hương, chấm dứt kiếp sống lưu đày, và được in lại trong nước. Chuyện này không mắc mớ gì tới cộng sản cộng siếc gì hết. Chế độ nào rồi cũng phải có ngày chấm dứt. Còn sờ sờ đó cái màn cộng sản Nga sập tiệm, phần cộng sản Tàu thì giờ đây còn tư bản hơn cả Mỹ. Chớ cộng sản mà cứ “kéo dài xa tít tận chân trời” thì bỏ mẹ người ta hết sao? Nếu sau này chẳng may không có cơ hội nào được in lại trong nước thì tất cả những sáng tác Việt ngữ có giá trị tại hải ngoại sẽ trở thành những mối tình ôm xuống tuyền đài chưa tan ráo trọi!

Biết đâu được sẽ có những giọt nước mắt Mị Nương bất ngờ? Nói chuyện gần gần cho dễ kiểm chứng, thưa anh. Ai cũng thở than cho tương lai của văn thi sĩ hải ngoại, anh thấy đúng không? Anh xủ cho một quẻ coi.

Thì thôi, thể theo lời yêu cầu của cô Hai, tui cũng làm gan đứng ra làm thầy rùa, rờ mu rùa mà xủ cho một quẻ, nếu không trúng thì thế nào cũng trật, mất mát gì đâu mà sợ! Theo tôi, biến cố lịch sử tháng Tư 75 đã làm phát sinh hiện tượng văn học hải ngoại. Và như mọi hiện tượng trong trời đất, nền văn học hải ngoại đã sống như một hiện tượng, rồi giờ đây mãn hơi đang thoi thóp như một hiện tượng, để rồi sẽ biến đi như một hiện tượng. Một điều rõ rệt, trong lãnh vực sáng tác bằng Việt Ngữ tại hải ngoại, số lượng người viết càng ngày càng ít đi, số lượng người đọc cũng càng ngày càng ít đi. Tuy nhiên bù lại, nhờ có mạng lưới nên hiện nay người viết tại hải ngoại đã mở rộng lượng người đọc của mình về địa bàn trong nước. Nhưng (lại nhưng!), ngày nào tại hải ngoại hết còn ai sáng tác “ra hồn” nữa thì cũng đành ngủm củ tỏi mà thôi! Bó giò! Xin kiếu gia chủ ta thăng!

Khoan! Khoan thăng đã thưa anh Kiệt Tấn. Anh có bi quan quá đáng không, bởi vì như anh đã nói, nhờ mạng lưới truyền thông, sáng tác, sách vở đôi bên trong và ngoài nước hầu như không còn biên giới nữa, và chuyện giao lưu, du lịch đôi bên cũng mở rộng: thì đến một ngày nào đó, khi chế độ độc tài nhiều ngăn cấm răn đe này cáo chung, khi đó việc phổ biến, in ấn, trao đổi... kể cả tương lai văn học trong ngoài lúc bấy giờ không còn là vấn đề nữa. Nhưng (lại nhưng!) đó là chuyện... tương lai. Anh chưa trả lời mục các bạn văn của anh.

Cô Hai đã trót la "Khoan! Khoan!" rồi thì phải xuống vọng cổ để tui đây / Tây đui còn phựt đèn màu chớ! Thì thôi, khoan khoan ngồi đó chớ ra. Như đã nói hồi đầu, tôi không thích bàn cãi hoặc tranh luận chuyện văn chương. Tôi chỉ chú trọng phần sáng tác. Tôi thấy phe ta cứ cãi gì mà cãi nhau như giặc, cãi như mổ bò. Có cầm bút lên mà sáng tác hay không thì bảo? Cũng bởi lẽ không thích tranh cãi văn nghệ nên không có luôn trao đổi văn-gừng, do đó làm sao mà có được bạn văn-dênh? Bạn nhậu thì có, cái đó thì không. Bạn cầm bút, nếu có gặp nhau thì cũng rủ đi nhậu. Nhưng rủi thay, cũng có người thích uống nước dừa, uống sữa đậu nành, hột é lười ươi hoặc sương sa hột lựu. Mấy cha nội này thuộc phe "trà đá chanh đường". Thì mấy chả rán mà chịu cho quen! Làm gì mà cứ nằng nặc chê rượu như mèo chê mỡ: "Em chã! Em chã!", nghe sốt cả ruột.

Cách dựng truyện của anh như thế nào? Hình như anh luôn luôn chủ trương "nói hết, nói thiệt ‘chăm phần chăm’"?

Hầu hết những truyện tôi viết đều là tự truyện, nên "Có sao nói dzậy người ơi! Xin người đừng gian dối đời nhau! ". Tuy nhiên, tôi không phải là một người đêm đêm kể chuyện đời xưa cho con nít nghe hay một ký giả chiến trường viết bài tường trình cho một tai nạn tình ái kèm theo ảnh chụp. Về cách dựng truyện, trước khi viết, tôi hồi tưởng lại cuộc tình của mình, sau đó tôi sắp xếp các sự kiện, các chi tiết để cho chúng xuất hiện theo một thứ tự nào đó mà tôi thấy là "hết xẩy". Tôi thường đảo lộn trật tự, cắt đổi thời gian, hoán chuyển không gian. Khi viết, tôi cố gắng tôn trọng sự thật tới mức có thể được. Thứ nữa, thêm một điều quan trọng: Độc giả chỉ muốn đọc một truyện hay chứ không nhất thiết phải là truyện thật một trăm phần trăm. Họ cóc cần, có thể nói thẳng ra như vậy. Thế nhưng nếu hư cấu quá trớn, truyện viết thấy "xạo" rõ ràng thì độc giả cũng chịu đời không thấu. Xem xong nàng khẽ thở dài, người đâu tả ở mấy dòng thơ đây?

Khi viết anh quan tâm điều gì nhất? Chủ đề? Hình thức? Anh hạ bút viết thẳng một lèo hay "đứt rồi lại nối", cần một chỗ yên tĩnh, nghe nhạc, uống rượu, hút thuốc lá?

Có những truyện tôi viết suôn sẻ, có truyện viết xong tôi xé hết, viết lại từ đầu. Tôi viết chậm, có thể nói là rất chậm, sau đó là đọc đi đọc lại, sửa đi sửa lại, có khi thời gian sửa còn nhiều hơn cả thời gian viết. Không hiếm những lần tôi sửa tới sửa lui sửa xuôi sửa ngược một câu cho chán chê rồi cuối cùng trở lại giữ câu đầu tiên viết ra. Khùng thiệt! Tuỳ cảm hứng, có khi tôi viết cho tôi, nhưng phần lớn là tôi viết cho người đọc. Khi sửa chữa bản văn, tôi đặt mình vào địa vị người đọc, tôi sửa tới sửa lui, đọc đi đọc lại nhiều bận rồi tự hỏi: Liệu đọc như vầy đã sướng chưa? Cái cảm giác chung chung mà tôi đón nhận được ở những người đọc truyện của tôi là "đã". Đọc thấy đã (sướng ran!). Như đã đời! Như nuốt vô thấy đã. Nhậu biết đã. Gãi đúng chỗ ngứa, đã quá đã! Nhứt gái một con, nhì thuốc ngon nửa điếu. Đã ơi là đã! Tui nói thiệt đó cô Hai. Cô cứ thử đi thì biết.

Hầu hết những người phê bình sáng tác của tôi đều đi tới cùng một nhận xét chung chung: Kiệt Tấn sống thật, viết thật. Kiệt Tấn sống hết mình, viết hết mình. Và Thuỵ Khuê đã chung kết nhận định: "Cung cách đặc biệt dấn vào văn chương như thế, mấy khi chúng ta gặp được." (Tuyển tập, tr. 499)

Bên cạnh cái cảm giác đãcười. Khi theo dõi truyện của tôi, bỗng phát bật lên cười một tiếng. Có nàng cho biết đã bị đấng ông chồng yêu dấu chất vấn: "Bộ khùng tới nơi rồi hả? Sao khi không phát cười khơi khơi một mình vậy?". Dẫu cho truyện tôi viết có kết cuộc không khá, kết cuộc không có hậu, kết cuộc buồn hiu buồn hắt đi nữa thì vẫn cười hoặc mỉm cười lai rai suốt khi đọc truyện. Chưa thấy quan tài chưa nhỏ lệ!

Những nhà phê bình đều cùng nhau đi tới chung nhận xét: Kiệt Tấn dí dỏm, hóm hỉnh, tinh nghịch. Rất tiếc chưa có ai viết một bài đặc biệt có dẫn chứng về điểm này cho vui nhà vui cửa. Theo chỗ tôi nghĩ, trong đời sống, nụ cười giải toả được rất nhiều chuyện rắc rối, loạn tâm, nhức đầu, táo bón. Tôi rất nghi ngờ, dị ứng và sợ run sự nghiêm chỉnh. Một điều hiển nhiên: bộ mặt đạo đức giả bao giờ cũng phết lên mình một lớp sơn nghiêm chỉnh. Ai không đồng ý điểm này xin hãy thay bộ đồ lớn, thắt cà vạt đen, giơ cao tay lên và đứng dậy bước lên bục gỗ lớn tiếng phản đối… một cách nghiêm chỉnh! Một cách nghiêm chỉnh, please! S'il vous plaît! Yakitori! Phần tôi, tôi xin được phép bận xà lỏn rằn, ngồi tại chỗ, giơ cao tay lên và đứng dậy… dết toa lô, dô toa lết. Sorry! Désolé! Hara kiri!

Khi dựng và viết truyện, anh chú trọng phần nào nhứt? Phần đầu, phần giữa hay phần cuối?

Khi thực hiện Tuyển tập Kiệt Tấn, tôi bắt buộc phải đọc lại hầu hết các truyện mà tôi đã viết ra. Nhứt là với những truyện đã được tuyển chọn, tôi phải dò tới dò lui để sửa chữa từng chữ một, hoặc để bổ túc hay cắt bỏ một vài chỗ, một vài đoạn mà mình không ưng ý. Trong lúc đọc lại các truyện viết của mình, tôi không khỏi ngạc nhiên khi nhận thấy phần lớn cách dựng truyện với nhiều đề tài khác nhau của tôi, dù không cố tình, cũng có điểm giống nhau chung chung. Đó là cách thức vào truyện và phong cách ra khỏi truyện. Mở đầu, bằng một hình ảnh loá choá, tôi thường ném độc giả thẳng vào cuộc tình hay câu chuyện sắp được kể, đâu khoảng giữa chừng, khiến cho độc giả hoang mang không biết chuyện gì đã xảy ra trước đó, để rồi tò mò theo dõi, chờ đợi được giải thích, sự lôi cuốn đã được tạo nên. Rồi câu truyện được kể ra, không nhứt thiết theo thứ tự thời gian. Tôi sử dụng rất nhiều hình ảnh, rất nhiều sự kiện, rất nhiều chất sống thực, rất nhiều trải nghiệm, nói tóm rất cụ thể. Phần kết thúc, tôi thường đưa độc giả ra khỏi truyện bằng một xúc động. Cái cảm giác mà tôi muốn để lại cho người đọc là một nỗi bâng khuâng, man mác, có khi là một chút ngậm ngùi, tiếc nuối, có khi là một hoang mang, nghi vấn. Truyện tôi viết hiếm khi có kết thúc vui, một happy ending. Ý thì vậy nhưng không biết là tôi có tạo được xúc động mong muốn hay không, ngòi bút tôi có dẫn dắt độc giả vào những vùng cảm giác đó được hay không. Một đôi lần, có người cho biết là sau khi đọc xong truyện tôi viết đã ngùi ngùi sa nước mắt. Còn tôi thì khi viết, tôi đã nhiều lần khóc nghẹn ngào, đành phải buông bút ôm mặt khóc ngất. Hoài niệm thương động. Ôi! Những hoài niệm thương động! (Cúi mặt, bùi ngùi)... Theo cảm quan của tôi, sau khi đọc xong bất cứ một truyện nào đó, điều đáng kể là một chút cảm giác khó quên, một chút ám ảnh khôn nguôi, một chút không khí lạ lùng, một chút ấn tượng nhớ hoài còn sót lại ở người đọc. Truyện viết được như vậy mới có thể gọi là thành công, là "đạt". Bởi lẽ đó nên khi cầm bút, tôi viết theo cảm quan của tôi, tôi viết theo tính khí của tôi chớ tôi không viết theo một chủ trương nào hết, cho dù chủ trương đó mới toanh hay cũ mèm.
Nguồn: Tạp chí Văn 117-118 (số đặc biệt về Kiệt Tấn) tháng 9 & 10.2006



[1]Kiệt Tấn giải thích: Nghĩa là "ça saute aux yeux", ở nhà quê miền Nam người hay nói "đúng y bon" (không có g) Chắc là từ tiếng Pháp "bon".