© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
3.3.2007
 
Báo Nhân văn số 1
 1   2 
 
Tổ Ba Người
Đây mới là thủ phạm! [1]

Báo Nhân dân ra ngày 8-9, trong câu Chuyện vô lý có đăng tin Đội kịch Trung ương mất toi ba triệu đồng về việc diễn Nọc rắn mà không tìm ra thủ phạm. Nhưng cuối cùng Báo Nhân dân lại gọi hai tên “Quan liêu” và “Mệnh lệnh” cho rằng đấy là thủ phạm. Nghe đâu Hoài Thanh nhân danh Vụ Nghệ thuật đã có lời minh oan cho hai tên “Quan liêu” và “Mệnh lệnh”, chúng tôi cũng xin góp phần minh oan cho hai tên ấy.

Câu chuyện chúng tôi biết như thế này:

Khi Bửu Tiến đưa ra Nọc rắn thì một số anh em trong nghề nhận xét một cách khiêm tốn là chưa dùng được. Tuy tờ báo Văn nghệ có cố gắng đăng hai kỳ với chữ “tít” đỏ nhưng Nhà xuất bản Văn nghệ đã từ chối không nhận in.

Bửu Tiến đi Trung Quốc gới gắm Nọc rắn lại cho Thế Lữ. Thế Lữ, sau chuyến đi Liên Xô, Trung Quốc về rất phấn khởi và độ lượng. Thế Lữ thường nói một cách chí thành là: “Moa phải rơ-lơ-vê tất cả những vở kém! (Thế Lữ cũng đã thực hiện trong việc chấm giải dịch)”. Tuy thế, Thế Lữ cũng nhận thấy Nọc rắn còn yếu nên giao cho Nguyễn Khắc Dực chữa Nọc rắn (mặc dầu Nguyễn Khắc Dực rất sợ Nọc rắn).

Hôm đem đọc Nọc rắn thì có cả Huy Cận và Hoài Thanh. Tất cả đều ngồi nghe một cách chăm chú, cẩn thận. Đọc xong, Thế Lữ gật đầu một cách chí thành “Thật là hấp dẫn!!” Hoài Thanh cũng gật đầu: “Căn bản là phục vụ được cải cách ruộng đất”, Huy Cận có vẻ hể hả. Anh em thì có nhiều tiếng xì xào: “Nghe nó thế nào ấy! Nhạt lắm! Giống một vở kịch Pháp”… Nhưng cuối cùng, sau những lời chỉ giáo của các cấp thì anh em cũng đi vào diễn tập.

Báo cáo về diễn tập của Song Kim, lúc bấy giờ là đội trưởng - rất khả quan.

Lời giải thích của Thế Lữ hôm biểu diễn ở Nhà hát lớn cũng rất hấp dẫn.

Khán giả chờ đợi. Màn mở; tên địa chủ Lung ra dạo qua dạo lại… (Chế Lan Viên lại tưởng người trong Ban tổ chức!) một con điên khóc lóc và ca hát v.v…

Khán giả kiên nhẫn chịu đựng hơn một tiếng đồng hồ.

Màn buông xuống: Lưu Trọng Lư vỗ tay một cách vô tội vạ. Hoài Thanh ra về ưu tư. Huy Cận kém phần hể hả. Thế Lữ vẫn nói say sưa về thế hệ diễn viên Sta-ni-láp-sky và kết luận diễn viên của Đội kịch Trung ương là tồi. Mặc dầu, toàn thể người xem vẫn lắc đầu: Hỏng về căn bản!

Riêng Bửu Tiến đang lặng lẽ nghe tiếng chân của mình lê trên đường vắng, bỗng chửi đổng bọn phong kiến.

Nọc rắn gác lại đấy.

Câu chuyện rơi vào im lặng.

(Im lặng sân khấu)

Báo Nhân dân đã đánh cồng kéo một màn kịch mới.

Ai là thủ phạm?

Người ta đẩy hai tên Quan liêu và Mệnh lệnh ló đầu ra.

Đội kịch bảo rằng: Không phải! Không phải!

Hoài Thanh cũng bảo: Không phải! Không phải!

Chúng tôi đồng ý.

Sự thật thì Nọc rắn đã được nghiên cứu cẩn thận, chứ không phải chỉ “liếc qua” như báo Nhân dân đã đăng. Đấy là công việc thận trọng của những người trịnh trọng.

Ai là thủ phạm?

Hãy tạm gác lại việc truy tầm thủ phạm một vài phút để tiếp túc câu chuyện lúc nãy đã:

Sau buổi diễn Thế Lữ vẫn bảo rằng “Bửu Tiến có những ngón cao tay”.

Sau một phút trầm ngâm Thế Lữ nói tiếp: "Sự thành công của một tác phẩm không phải là chỉ ở ngón cao tay mà lại là ở cuộc sống, con người."

Thế Lữ lại tiếp tục trầm ngâm, bỗng sực nhớ ra việc gì, anh trố mắt hỏi một người đứng bên cạnh: "Này, thế ra Cải cách Ruộng đất đợt 5 lại có những chuyện thế cơ à?"

Rồi anh gật gù: "Ghê thật! ghê thật! Mình cứ ngồi đây thì chẳng biết gì cả."

Thế Lữ lại tiếp tục trầm ngâm, nhìn ra ngoài cửa sổ. Dưới đường, người đi, xe chạy. Cuộc sống qua vụt vụt. Thế Lữ “bàng bạc” như vừa đánh rơi một vật gì. Trong lòng anh chỉ còn sót lại ngón cao tay!

Huy Cận, Hoài Thanh thì có vẻ băn khoăn nhiều lắm.

"Quái thật! Ngón cao tay của Thế Lữ thế mà ít công hiệu?"

Lưu Trọng Lư gặp ai cũng nói:

"Mình dạo này phụ trách về Ca vũ… chả biết đội kịch nó ra thế nào!"

Ai là thủ phạm?

Thưa các ngài,

Chúng tôi xin bào chữa cho hai tên “Quan liêu” và “Mệnh lệnh” và xin vạch mặt thủ phạm vụ mất 3 triệu đồng ấy. Chính là tên “Không biết gì”. Không biết gì về nghệ thuật, không biết gì về cuộc sống.

Nhưng nếu chỉ có một mình tên “Không biết gì” thì nó cũng chẳng có cách nào làm mất toi được 3 triệu đồng của công quỹ. Nó đã nhờ có một tay trong nữa trong vụ này: Đó là tên “Ăn cánh”, thủ phạm thứ hai.

Tất cả câu chuyện là ở chỗ ấy.

Và nếu nhân dân và báo Nhân dân đồng ý thì chúng tôi đề nghị tha bổng cho hai tên “Quan liêu” và “Mệnh lệnh” để truy tố hai tên “KHÔNG BIẾT GÌ” và “ĂN CÁNH” .


*

Danh sách các bạn đã góp tiền ra báo [2]

Phan Khôi (Hội V.N.)
50.000 đ
Lê Đại Thanh (Báo V.N.)
20.000 đ
Hồng Lực (Hội V.N.)
5.000 đ
Nguyễn Thịnh (Điện ảnh)
200.000 đ
Tử Phác (Văn nghệ Q. Đ.)
20.000 đ
Hoàng Cầm (Hội V.N.)
100.000 đ
Trần Duy (Xưởng hoạ)
100.000 đ
Nguyễn Hữu Đang (Báo V.N.)
100.000 đ
Hoàng Tích Linh (Văn nghệ Q. Đ.)
5.000 đ


*


Hàn Phi Tử
Tường đổ [3]

Nước Tống có người nhà giầu. Một hôm trời mưa, tường nhà anh ta đổ.

Đứa con nói: “Thưa cha, không đắp ngay tường lại, e có trộm vào”.

Người láng giềng thấy tường đổ cũng nói: “Này bác, không đắp ngay tường lại, e có trộm vào”.

Tường chưa kịp đắp, tối hôm ấy, nhà anh ta quả nhiên mất trộm thật.

Anh ta khen đưa con khôn ngoan biết trước, mà ngờ người láng giềng là gian giảo làm xằng.

Cùng một câu nói, con nói thì khen là tinh khôn; láng giềng nói, thì ngờ là trộm cắp, bởi cớ làm sao? Tại con thì thân, cho nên không có bụng ngờ; láng giềng là tình sơ, cho nên sinh ngờ vực.

Thế cho nên phận sơ mà câu nói thân thì thế nào cũng làm cho người nghe mình đem lòng nghi hoặc.

(Cổ học tinh hoa)


*


Một bài thơ của Lê Đạt - Nhân câu chuyện mấy người tự tử [4]

Đọc báo Nhân dân số 822
Có đăng tin mấy người tự tử
Vì câu chuyện tình duyên trắc trở

Đêm mùa hè nóng nôi
như lửa

Tôi ngồi làm thơ
Vừa giận, vừa thương mấy người xấu số.
Chân đi chưa hết nửa đường đời
Đã vội nằm im dưới mộ

Cuộc sống cho dù lắm mưa
nhiều gió
Nhiều cay đắng xót xa
Cũng đẹp gấp vạn lần cái chết
Chết là hết
hết đau
hết khổ
Nhưng cũng hết vầng trăng soi sáng trên đầu
Hết những bàn tay e ấp tìm nhau
Len lén, bước chân hò hẹn
Bây giờ gặp gỡ nơi đâu?
Dù có chết cùng nhau
Cũng vẫn là chia tay nhau vĩnh viễn
Trời đầu xuân mây vần bão chuyển
Có lạnh không?
Tôi biết hai người khổ lắm
Còn gì buồn bằng không được yêu nhau
Nhưng sao lại chết?
Nhà đạo đức vuốt hàng râu mép
Hạ kính
lắc đầu
Chép miệng
“Hoà bình chủ nghĩa”
Tôi không nghĩ vội vàng như thế
Tôi đã từng yêu
từng đã khổ nhiều
Nhưng không thể tán thành cái chết
Tôi không thích loại cúi đầu theo số kiếp
Cắn răng vào cứ sống cứ yêu


Khi Lương Sơn Bá tương tư trên
giường bệnh
Ngày một võ vàng
Ôm bóng người yêu mà chết
Khi Chúc Anh Đài xăm xăm vào huyệt
Theo nhau cho trọn lời nguyền
Cả rạp lặng yên
Những chiếc khăn tay đầm đìa nước mắt,
Sự thật cuộc đời đắng cay hơn nghệ thuật
Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài
Sống không được yêu nhau,
Chết còn được hoá thành đôi bướm,
Nhưng mấy người tự tử
Xác bây giờ mục nát dưới mồ,
Biết ai thương họ?
Có phải vì chúng ta quá yêu người yêu cũ
Mà quên người sống bây giờ?

Có phải vì chúng ta mất nhiều trong Kháng chiến,
Nên chủ trương tiết kiệm lòng mình?

Có phải vì chúng ta muôn việc rối tinh
Đành xếp lại chuyện mấy người tự tử?

Lịch sử phải trải qua bao đau khổ
Những người chết thiêu trong lửa
Những người chết gục trong tù
Những người chết treo trên cột
Tùng xẻo lăng trì
Rỏ máu trên bàn thờ nhân loại
Cho con người được làm người
Cho con người được yêu được sống
Tôi muốn gào lên cho đến khi lạc giọng
“Không gì đau thương
bằng
mất một con người”


Sao họ lại đưa nhau đi tự tử?
Có phải vì họ không bằng lòng chế độ,
Bất mãn với cuộc đời?

Không.
Họ chưa hai mươi
Cô bé hôm nào mới lớn
Soi trộm vào gương, thấy má mình hồng
Nghĩ đến chuyện lấy chồng
đỏ mặt

Người con trai ngồi trên gò đất
Thổi sáo gọi người yêu
Làm nắng chiều
đứng lại
Lúa đương thì con gái
Cũng thấy rộn trong lòng
Xôn xao gió thổi
Đầu sát bên đầu bàn chuyện tương lai
Thôn xóm tan dần bóng đen địa chủ
Cuộc đời như ánh trăng mỗi ngày một tỏ
Sáng bừng lên
Trong những chiếc hôn đầu
Chế độ ta không cấm họ yêu nhau
Mà sao họ chết?


Người công an đứng ngã tư đường phố
Chỉ huy
bên trái
bên phải
xe chạy
xe dừng
Rất cần cho việc giao thông.
Nhưng đem bục công an
máy móc
đặt giữa tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi
Theo đúng luật đi đường nhà nước
Có thể gây rất nhiều chua xót
ngoài đời


Ngày Phật đản vừa rồi được nghỉ
Tôi đến nhà Văn Cao
Hai đứa rủ nhau
đi ăn thịt chó
Văn Cao vốn là người nể vợ
Ăn xong mua một gói về nhà
Tôi bỗng giật mình,
(nhưng không để lộ ra)
Người chủ xé thơ tôi
gói thịt
Ngay lúc đó tôi chỉ còn muốn chết
Như dại như điên tôi oán đất, oán trời
Nhưng hôm nay tôi chỉ oán mình tôi
Thơ tôi bị cuộc đời ruồng bỏ
Vì tôi đã ngủ quên trong chế độ
Vẽ phấn bôi son, tô toàn màu đỏ
La liệt đầy đường hoa nở
chim kêu
“Tốt tốt!
xà và
tốt tốt!”
Qua thơ tôi
cuộc đời như hết chuyện
Có thể khoanh tay yên trí đi nằm
Như Thượng đế bước sang ngày thứ tám
Không! Không!
bóng những ngày xưa u ám
Còn lởn vở che cuộc đời như gấu ăn giăng
Cải cách đợt năm
Tôi có qua thăm nhiều thôn xóm
Những cây lúa cúi đầu dưới ruộng
Đã ngẩng mặt lên trời
Mơ ước mấy nghìn đời
biểu tình trên dãy thẻ
Luỹ tre làng phơi phới bay xa
Mở rộng cửa đón những ông chủ mới
Ruộng đất nông dân được đội về cởi trói
Nhưng còn tim
còn óc con người?
Giữa năm Cộng hoà lớn khôn mười một tuổi
Vẫn còn lọt lưới
nhiều thói “an nam”
Dán nhãn hiệu
Made in Cách mạng”
Ngang nhiên xúc phạm con người
Đẩy họ đi tự tử


Phải quét sạch mây đen
cho chân trời rộng mở
Chặt hết gông xiềng
cho những cánh tung lên
Ngày và đêm
mộng bay đầy cuộc sống
Khát vọng theo khát vọng
Không gì ngăn cản con người

Hà Nội, tháng 6-56
Lê Đạt

Tái bút

Bài thơ đến đây, đáng lẽ là chấm hết
Nhưng tác giả đọc cho mấy người quen biết
Thấy cần tái bút đôi lời
Một anh bạn chửi tôi:
“Hết chuyện rồi sao
Mà lại đẽo đến chuyện người tự tử
Ngậm mực phun đen chế độ”

Anh bạn ơi!
Tôi khuyên anh
Không đẹp gì cái lối vu oan giá hoạ
Ném bã rượu vào nhà người
“Trăm năm bia đá thời mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”
Lịch sử luôn luôn duyệt lại
Không ai lừa được cuộc đời
Trước toà án ngày mai

Mấy thằng bán rẻ ông cha đi làm chó
Đánh hơi gật gù
“Lại một thằng làm thơ bất mãn”
Lân la xán đến gần
Hoa chân múa tay
Rêu rao miền Bắc
Trong kia miền Nam
thế này
thế khác.
Cút ngay đi! Đừng giở trò kiếm chác
Ăn bẩn sủa càn
Đất nước trong khó khăn
Đối với chúng ta càng yêu càng quý
Con thương cha mẹ
lúc ốm
lúc đau
Chén thuốc múi chanh bảo nhau chạy chữa.

Tôi chưa quên những ngày qua đau khổ
Kiếp sống nặng trên vai
như một án tù
Cắt tóc đi tu
tu không trọn
Thuốc phiện dấm thanh không thoát nợ đời
Mười tám tuổi già hơn ông cụ:
Tôi đã biết thế nào là tự tử
Nên tôi yêu thiết tha cuộc đời
Càng yêu cuộc đời
tôi càng yêu chế độ
Chế độ của tôi
Sống để bụng
chết mang theo dưới mộ
Nhưng yêu thương
không có nghĩa là tụng kinh gõ mõ
Bán dầu cù là
Xoen xoét “vì Đảng vì Dân”
để lừa Dân lừa Đảng
Cuộc sống đòi hỏi người làm thơ can đảm
Vạch mặt những con sâu cách mạng
Ẩn núp trong nếp cờ
Đội mũ đi hia
Phè phỡn trên lưng chế độ

Tôi trở lại chuyện mấy người tự tử
Họ đúng hay sai,
thôi để họ nằm yên ngủ
Dù khen dù chê
họ cũng đã chết rồi
Nhắc nhở chúng ta nhiệm vụ những người
còn sống
Phải hiểu
Phải yêu
Phải trọng
Con người…

Hà Nội, tháng 7-56

*



Hoàng Huế
Một cuốn sách chụp mũ [5]

Tôi đọc Một chuyện tuyệt giao giữa lúc Hà Nội đang sống yêu đương trong đêm thứ bẩy. Trời đầy sao. Những đôi vợ chồng, những cặp tình nhân và những đôi bạn trẻ đang đi thảnh thơi trên hè phố, hay ngồi trên những ghế đá vườn hoa, thì thầm to nhỏ. Cuộc sống đáng yêu quá. Giữa lúc đó, một cuốn sách Liên Xô dịch ra tiếng Việt nói về tình bạn và tình yêu, đã làm tôi thất vọng. Nội dung cuốn sách như thế nào?

Đó là một tác phẩm nửa phê bình nửa lý luận chia ra làm 6 phần.

Phần đầu kể: Một hôm bộ biên tập báo Sự thật của Đoàn Thanh niên Cộng sản nhận được thư của giáo sư A-mô-xốp yêu cầu báo đăng lên một lá thư của một nữ nhân viên dưới quyền tên là Ga-li-na, gửi cho bạn gái, kể câu chuyện riêng của chị. Trong thư, Ga-li-na kể:

Chị gặp anh Sê-pô-kin trong một buổi vũ hội. Hai người quen nhau trong hai tháng, thường nói chuyện rất say mê về hội hoạ, thi ca, nghệ thuật. Qua câu chuyện, Ga-li-na cứ ngỡ Sê-pô-kin là một sinh viên. Một hôm, Sê-pô-kin cho biết mình làm thợ nề. Ga-li-na vô cùng ngạc nhiên. Chị hỏi “thế ra anh là thợ nề thường thôi à?... Tôi cứ tưởng anh là sinh viên trường đại học kiến trúc cơ đấy!”.

Thế là xảy ra chuyện gì? Ga-li-na viết trong thư để phân trần với một lòng thành không ai có thể nghi ngờ:

Chị cứ thử nghe xem, anh hỏi tôi một cách như thế này có nhục nhã (cho tôi) không chứ: ‘Làm một thợ nề thường không tốt hay sao?’ Tôi vội nói: ‘Không, tại sao không tốt?’ và tôi bắt đầu giải thích nhưng cũng không đi đến đâu cả…

Chúng tôi trầm lặng bước đi, không nói với nhau chuyện gì được nữa. Đến cửa vào sân vận động, bỗng nhiên anh quay người lại và đi thẳng về nhà không nói với tôi nửa lời và chẳng chào tôi nữa. Mặc dù sau đó tôi cố gắng tìm cách hoà hảo lại như thế nào, tình bạn của chúng tôi cũng đã chấm dứt rồi. Anh ta cũng không muốn gặp tôi nữa.

Phần hai của cuốn sách kể: Báo Sự thật của Đoàn Thanh niên Cộng sản đã đăng thư này lên với một mục đích một chiều: “Bạn đọc hãy nói cho Ga-li-na rõ những sai lầm của mình. Thế là câu chuyện như hạt đậu trở thành to bằng con voi. Nhiều độc giả gửi bài đến suy diễn chuyện trên ra, quy thành tư tưởng và nghiêm khắc phê bình Ga-li-na. Những phần sau của cuốn sách tổng hợp lại bao nhiêu ý kiến ấy, và cho rằng những ý kiến này là văn kiện của quần chúng bình thường nên hoàn toàn đúng.

Nhưng nó có đúng thật hay không? Chúng ta, độc giả Việt Nam, cần bình tĩnh xét lại.

Đại khái bao nhiều lời phê phán quy kết nghiêm khắc ấy như sau:

Nhiều người đã dẫn chứng lời đồng chí Sta-lin “lao động là sự nghiệp vinh quang và vinh dự” và buộc tội “Ga-li-na đã coi thường và khinh miệt cái vinh quang, cái anh dũng, cái vinh dự ấy, Ga-li-na đã khinh rẻ lao động chân tay”.

Có người ghép Ga-lina vào một “loại” riêng và nói: “Những thiếu nữ loại Ga-li-na cho rằng quen biết với công nhân thì giảm bớt giá trị của họ đi.”

Có người quyết đoán rằng: “Rõ ràng khi Ga-li-na biết Sê-pô-kin chỉ là một công nhân thường, không thể không cảm thấy mình nhầm nên không vui lắm”.

Có anh phân tích như anh học trò lớp năm làm luận: “Nếu nước ta không có thợ công nhân thợ nề và thợ sơn thì Ga-li-na sẽ không có phòng thí nghiệm để ngồi làm việc”.

Và người viết sách đã đồng tình với tất cả những người đã chụp những cái mũ rộng thênh ấy cho Ga-li-na, và hoan nghênh những ai đã biết lấy câu nói “một công nhân thợ nề thường” của chị mà kết luận như đanh đóng cột rằng trong ý thức chị ta còn nhiều tàn dư của giai cấp tư sản.

Tôi, cũng như nhiều bạn đọc khác, sau khi đọc đi đọc lại cuốn sách nhiều lần, và suy nghĩ thêm nhiều lần, thấy rằng đó là những lời suy diễn vội vàng, hấp tấp, kém suy nghĩ.

Chúng tôi cho rằng câu chuyện của Ga-li-na chỉ là một chuyện hiểu nhầm nhỏ thường vẫn xẩy ra hàng ngày trong sinh hoạt của những đôi bạn trẻ, chứ tuyệt đối không mang một nội dung tư tưởng nào cả.

Ga-li-na không tỏ ra thái độ gì để có thể bị buộc tội là khinh miệt lao động. Chị vẫn yên trí là Sê-pô-kin là sinh viên, vì anh nói giỏi chuyện nghệ thuật; thi ca, nên khi anh bảo anh là thợ nề thì chị ngạc nhiên, một sự ngạc nhiên rất “người” do cái thực tế đột nhiên cải chính óc tưởng tưởng. Trong sự ngạc nhiên đó khống có ý gì xấu xa.

Nếu Ga-li-na có nói câu: “Thế ra anh chỉ là người thợ nề thường thôi à?” và “Tôi cứ tưởng anh là một sinh viên cơ đấy!” thì câu nói đó là một câu kính phục chứ không phải là một câu thất vọng. Nếu bây giờ tình cờ tôi quen một chị bạn mới nào đó, chị nói rất giỏi về vôi vữa, gạch ngói, nhưng sau cùng chị cho tôi biết chị là sinh viên đại học văn khoa, tất tôi cũng ngạc nhiên hỏi chị: “Thế ra chị là sinh viên đại học văn khoa à? Tôi cứ ngỡ chị là một thợ nề bình thường”.

Chúng ta có thể quy kết chuyện sinh hoạt nhỏ trên thành tư tưởng khinh lao động, trong trường hợp Ga-li-na khi nghe nói Sê-pô-kin chỉ là thợ nề, liền trở mặt, lặng lặng bỏ đi, và tự ý tuyệt giao. Nhưng ở đây không thể!

Bởi vậy tôi cho rằng người chịu trách nhiệm nhiều hơn trong chuyện tuyệt giao này, không phải là Ga-li-na, mà chính là Sê-pô-kin. Anh đã tỏ ra nóng nảy, hấp tấp, kém suy nghĩ, và có một lòng tự ái không đẹp lắm. Như lá thư đã trình bày, mặc dù Ga-li-na biết mình bị hiểu nhầm, đã hốt hoảng kêu lên: “Không! Tại sao không tốt?”, và những hôm sau đó cố tìm mọi cách hoà hảo để nối lại tình bạn, Sê-pô-kin vẫn cố tình “tuyệt giao”.

Rõ ràng anh ta là người tự ti, hay dỗi, nhiều thành kiến và cố chấp.

Phải công bằng mà nhận rằng trong cuốn sách có vài ý kiến phê bình Sê-pô-kin, nhưng người ta không vạch ra khuyết điểm nặng nề của Sê-pô-kin, mà chỉ nói anh sai lầm vì đã không bình tĩnh vạch khuyết điểm khinh lao động (?) cho Ga-li-na thấy.

Riêng tôi, tôi rất công phẫn tại sao báo Sự thật của Thanh niên Cộng sản lại có thể hiểu nhầm Ga-li-na đúng như anh chàng Sê-pô-kin – mà có lẽ còn tệ hơn Sê-pö6-kin vì đã đọc bức thư của Ga-li-na trong đó chị nói rõ nỗi khổ tâm bị hiểu nhầm - rồi báo đó lại căn cứ vào sự hiểu nhầm gần như cố ý của mình mà đặt vấn đề xuyên tạc như là Ga-li-na đã thú tội? Ngay cả giáo sư A-mô-xốp, bắt được thư riêng của Ga-li-na mà không trao trả, lại tự tiện đem công bố trên mặt báo, tại sao cũng không có một người nào vạch rõ thái độ bất lịch sự - và có lẽ còn phi pháp nữa - của ông ta?

Đến đây, tưởng phải ngoặc lại một chút. Tôi không hoàn toàn phủ nhận cuốn Tuyệt giao. Có nhiều vấn đề đã nêu ra và giải quyết một cách đúng đắn. Tôi rất tán thành những ý kiến tốt này: Phải tôn trọng giá trị lao động và người lao động, “lao động đang tạo ra trí thức” v.v…

Đúng thế. Hôm nay ở Liên–Xô, cũng như mai đây trên đất nước chúng ta, con em những người lao động sẽ là lực lượng thống trị trong các trường đại học. Giai cấp công nhân sẽ tự mình đào tạo ra những nhà bác học, kỹ sư, bác sĩ và những nhà văn của giai cấp mình. Điều đó không ai có thể chối cãi cũng như nhiều vấn đề đã được nêu ra trong sách: Lao động là cơ sở tất yếu của tình bạn chân thành; trong tình yêu nhất định phải tôn trọng nghề nghiệp và lao động của người yêu; tình yêu là cơ sở của gia đình v.v…

Tôi chỉ muốn nêu ra ở đây cái sai lầm cơ bản của cuốn sách: một lối chụp mũ trắng trợn.

Cuốn sách đã xuất phát từ quần chúng chủ nghĩa và công nông chủ nghĩa máy móc. Tôi dám nói thẳng rằng: có thể một số cán bộ phụ trách Đoàn Thanh niên Cộng sản Liên–Xô, trong hoàn cảnh lãnh đạo sai lầm của Sta-lin, đã phạm những khuyết điểm nghiêm trọng này. Họ cho rằng bao nhiêu ý kiến chụp mũ trên là ý kiến của những người dân bình thường nên hoàn toàn đúng. Họ chĩa mũi dùi của cuộc thảo luận về phía Ga-li-na là một tiểu trí thức chứ tuyệt không đả động đến Se-pô-kin, vì quan điểm người công nhân là thần thánh, trong việc này không thể có sai lầm.

Người đọc dù cố vô tình đến đâu cũng phải chú ý đến điểm cuốn sách mang trong mình nó cái dòng máu sùng bái cá nhân Sta-lin mà ngày nay chúng ta đã biết là một hiện tượng xã hội nguy hiểm ở Liên–Xô cho đến mãi Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên–Xô. Khá nhiều đoạn nhắc đi nhắc lại: nào là thời đại Sta-lin, nào là đồng chí Sta-lin, lãnh tụ của lao động toàn thế giới, đã dạy chúng ta thế này, đã dạy chúng ta thế nọ…

Sta-lin lúc còn ngồi trong điện Kờ-rem-lanh đã tạo ra rất nhiều sai lầm cho thời đại. Quần chúng Liên Xô, và cả giai cấp công nhân Liên Xô nữa, trong hoàn cảnh ấy, tất nhiên phần đông cũng chịu ảnh hưởng xấu kia ở những phương diện nhất định nào đó.

Bởi vậy cách giáo dục con người Liên Xô về thời ấy cũng có nhiều sai lầm. Tôi lấy ví dụ cuốn phim Con đường vinh quang. Ai đã xem phim ấy đều cảm thấy khó chịu. Một chị vợ muốn đi công tác, chồng không thích cho đi, chị đã “chỉnh” người chồng bằng những công thức chính trị cứng nhắc, rồi dứt áo ra đi. Tất nhiến trước thái độ phũ phàng và coi thường chồng ấy, người chồng phải bỏ chị. Cuốn phim hoan nghênh người vợ và đả đảo người chồng.

Cách đây ít lâu chúng ta lại được xem cuốn phim khác của Ba Lan, cũng đề cập tới vấn đề ấy. Một người vợ khi biết chồng có ý gò mình ở nhà nấu ăn và giữ con, mỗi buổi chồng đến xưởng thì chị lại lén đi học lái ô-tô. Mãi đến khi chị đậu giải nhất trong kỳ thi lấy bằng lái xe, tình cờ người chồng mới biết, và lúc ấy vô cùng cảm phục vợ, đã ôm vợ hôn thắm thiết.

So sánh hai cuốn phim, chúng ta mến phục lối giáo dục của những tác giả cuốn phim Ba Lan đã hiểu biết con người và quí trọng cái tình nghĩa vợ chồng mà người ta chỉ có thể dằn lòng gạt bỏ trong mâu thuẫn cao độ giữa cách mạng và phản cách mạng chứ không thể vì chưa đồng ý về chuyện ở nhà hay đi công tác mà dí xuống dưới chân.


Người dịch cũng như người viết, cùng làm một nhiệm vụ lớn: Kỹ sư tâm hồn. Anh có nhiệm vụ bắc cầu giữa nghệ thuật nước ngoài và quần chúng trong nước. Anh phải tìm tòi những cái tinh hoa của học thuật văn nghệ nước ngoài để giúp ích quần chúng nước ta.

Tiếc thay! Đáng lẽ phải đặt vấn đề chọn lọc thì người dịch và nhà xuất bản đã tin một cách ngây thơ rằng bất cứ sách nào của Liên Xô cũng hay cả.

Thái độ đó, trước Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô còn tha thứ được phần nào. Nhưng bây giờ, sau Đại hội, cả thế giới đều biết đến nhiều “chân lý” cần phải đem duyệt lại thì cái lòng tin ngây thơ kia thật đáng trách.

Cuốn Tuyệt giao, điển hình về sự phê phán độc đoán và chụp mũ, sản phẩm của những sai lầm độc đoán của thời đại Sta-lin, tôi chắc chắn rằng hiện nay quần chúng Liên Xô đã vứt bỏ, cũng như đã vứt bỏ cuốn phim Công phá Bá Linh, điển hình về sùng bái cá nhân. Vậy mà một cơ quan nhận trách nhiệm giáo dục thế hệ thanh niên Việt Nam mới, lại không suy nghĩ điều đó, hôm nay in lên giấy trắng mực đen 1 vạn 2 nghìn 102 bản dịch!

Thanh niên Việt Nam đang khao khát những sách “tươi” nói về tình yêu, tình bạn, tất nhiên phải tìm mua cuốn đó. Và 12.102 cuốn Tuyệt giao đắt như tôm tươi kia đã thở thành 12.102 liều thuốc chẳng… lẽ lại gọi là độc.

Trước khi dừng bút, tôi muốn tâm sự với các bạn một câu chuyện nhỏ. Buổi sớm ngày quốc khánh vừa rồi, khi quần chúng mặc áo đẹp diễu hành qua quảng trường Ba Đình, thấy lứa em nhỏ hồn nhiên phơi phới như những con ong và những chùm hoa đẹp nhất, bỗng dưng nghĩ đến cuốn Tuyệt giao, tôi đã trào nước mắt. Tôi đã khóc thật, các bạn ạ. Tôi khóc vì thấy tuổi các em trong trắng quá, tương lai các em tươi đẹp quá. Nếu ngay từ hôm nay, các em bị buộc phải nhận một sự giáo dục sai lầm để mai đây lớn lên biến thành những con người thiếu trái tim, thì chúng ta, tất cả chúng ta, phải chịu bao trách nhiệm nặng nề trước chế độ, trước lịch sử.

5-9


*


Địa ngục miền Nam [6]

1. Ngô Đình Diệm muốn tỏ ra rằng Diệm cũng có thể làm những việc văn học ngoài những việc giết người và buôn lậu. Diệm phát động nhiều thứ diệt…, diệt cộng, diệt kháng chiến, v.v và gần đây là diệt giặc dốt!

Tại Thừa Thiên, ở huyện Phú Lộc nhân dân yêu cầu chính quyền Diệm mở lớp bình dân. Chính quyền Diệm bèn cho đi biên danh sách những người không biết đọc biết viết và hứa hẹn sẽ thẳng tay diệt giặc dốt. Nhân dân kỳ vọng. Diệm tổ chức một cuộc phát động diệt giặc dốt rất rầm rộ bằng hình thức một đám ma đem chôn một một quan tài đầy ắp những danh sách những người mù chữ. Nhân dân già trẻ lớn bé không hiểu gì cả nhưng vẫn cứ hy vọng.

1 tháng sau khi phát động, vẫn không có gì động cả.

2 tháng sau khi phát động, vẫn không có gì động cả. Nhân dân vẫn cứ mù chữ như thường. Một hôm nhân dân kéo đến trụ sở chất vấn. Chính quyền Diệm nghiêm chỉnh trả lời.

“Giặc dốt Chính phủ chôn rồi còn đâu nữa mà diệt”…

Thế là dân thoát nạn mù chữ!.


2. Văn hoá và xã hội là hai công tác trọng tâm của Diệm như thế là giặc dốt diệt xong rồi!

Bây giờ phải nghĩ đến nâng cao dân sinh. Diệm lo để người dân miền Nam sống trên đồng ruộng phì nhiêu của Bắc Liêu, Rạch Giá v.v… sẽ phải đói khổ, nên muốn cho họ no ấm Diệm đưa họ lên… cao nguyên Pờ-lê-cu! Ở đây có đất đỏ, đá cuội trắng và muỗi độc.

Diệm không ngớt ca ngợi Pờ-lê-cu là thiên đường, đồng bào muốn sung sướng thì nên đi Pờ-lây-cu. Đồng bào ngần ngừ, Diệm sốt ruột dỡ nhà cho họ, tích cực đẩy họ lên ô-tô.

Ai phản đối “hạnh phúc” có thể cho đi tù được! Pờ-lê-cu thiên đường!

Vũ Gia Hiếu và Vũ Đức Hải là hai chuyên viên di cư trả lời cho một tờ báo Sài Gòn về cái thiên đường ấy: “Bây giờ phải tránh hai nạn: tiếp tế chậm và ở nhà lều vải lâu ngày!”


*


Hà Bá
Mầu sắc [7]

Những hôm văn công đi tuần hành, người ta có cảm giác đang ở phố hàng Mã. Màu sắc sao mà tươi thế! Xanh lam chen đỏ chói, lá mạ chen vàng, hồng, tím, xám, đỏ cánh sen. Lại có những bộ quần áo có nẹp như dán giấy. Những mẫu thêu đẹp của các dân tộc miền núi được thay bằng những miếng kim, ngân tuyến bán sẵn – thành ra những bộ quần áo đẹp được cải biến thành những quần áo của không biết lai căng xứ sở nào. Tươi quá khiến người ta phải nhắm mắt lại kẻo chói loà, loà cả mắt. Tíu tít dải lụa ở khắp mọi điệu múa, ở khắp các thành phần dân tộc. Ai bảo không màu sắc, tươi vui phấn khởi?

Nhưng chỉ có cái là không dân tộc. Nhất là cái khăn bỏ múi bên tai. Một cuộc loạn sắc bất cần mắt người xem.


*


Tranh châm biếm: “Hậu trường sân khấu ‘tố cộng’ ở miền Nam” của Trần Duy



*


Trần Công
Chống bè phái trong văn nghệ [8]

I. Bè phái là thế nào và ai bè phái

Ít lâu nay, trong giới văn nghệ thấy nói nhiều đến danh từ bè phái. Khi Giai phẩm mùa Xuân ra đời, một số cán bộ lãnh đạo văn nghệ lớn tiếng “Đây là một tổ chức bè phái”.

Những người viết Giai phẩm mùa Xuân có phải là một bè phái không?

Trong đợt học tập lý luận vừa rồi, anh em có phê bình nhiều điểm về chính sách, về lãnh đạo, nổi bật nhất là vấn đề bè phái trong lãnh đạo. Vậy bộ phận lãnh đạo có bè phái không?

Không khí văn nghệ chưa bao giờ sóng gió như bây giờ? Anh em năm người, ba người thảo luận sôi nổi phản đối những sai lầm nghiêm trọng của lãnh đạo văn nghệ.

Một số cán bộ lãnh đạo sốt ruột lẩm bẩm: “Các anh phê bình lãnh đạo chúng tôi bè phái, thì chính các anh đang túm năm, tụm ba bè phái đấy, còn nói gì ai nữa?”.

Vậy anh em văn nghệ sĩ có bè phái không?

Những câu hỏi đó cần được trả lời minh bạch dứt khoát để chấm dứt càng sớm càng hay những suy diễn chủ quan, chụp mũ, hơi một tí là rêu rao “chia rẽ nội bộ”, làm “suy yếu tổ chức”, bới trong đời tư hoặc trong lý lịch của người ta những điểm thiếu sót thổi phồng lên biến việc đấu tranh tư tưởng, nghệ thuật thành việc đấu tranh chính trị. Thủ đoạn đó ảnh hưởng không tốt tới phong trào tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác của chúng ta.

Trước hết, phải nói ngay rằng chủ trương trăm hoa đua nở công nhận những nhóm và những trường phái văn nghệ. Không những công nhận mà còn cần nữa. Trong công tác tư tưởng và văn nghệ thế nào cũng có một số người đồng ý với nhau về một số điểm nhất định, muốn bênh vực, muốn phát triển, muốn truyền bá nó trong quần chúng. Những người bạn tư tưởng, bạn nghệ thuật ấy trong quá trình đấu tranh nghiên cứu sáng tác có họp thành nhóm thì tưởng cũng là chuyện tất nhiên chẳng có phương hại đến sự thống nhất của mặt trận tư tưởng và văn nghệ mà vội lo trời sụp. Trái lại có các nhóm, các trường phái, các dòng văn nghệ mới phát triển được mạnh mẽ, mau chóng. Không công nhận các nhóm, các trường phái nghệ thuật là không công nhận chủ trương trăm hoa đua nở, vi phạm nặng nề vào chủ nghĩa Mác, tạo một miếng đất tốt cho tất cả mọi sự độc đoán về văn nghệ sinh sôi nảy nở.

Chúng ta có thể nói dứt khoát với nhau: Các trường, các nhóm không phải là bè phái. Nhưnng cũng phải nói ngay rằng các trường, các nhóm có thể và cũng dễ dẫn đến bè phái.

Các trường các nhóm sẽ trở nên bè phái chừng nào họ quên mất lý tưởng nghệ thuật của họ, rời bỏ nguyên tắc đua nở hoà bình, đi sâu vào con đường cạnh tranh, kèn cựa.

Bè phái, nói một cách vắn tắt là nhắm mắt lại ca ngợi, đề cao những cái xấu của vây cánh mình và đả kích những cái tốt của các nhóm khác. Các nhóm đấu tranh với nhau, mâu thuẫn với nhau nhưng thống nhất với nhau trên một cơ sở chung: Vì nhân dân, vì đất nước, vì con người – nên mâu thuẫn mà thống nhất. Các nhóm đấu tranh tiêu diệt những cái xấu của nhau và kích thích những cái tốt phát triển. Quan hệ giữa các nhóm là một quan hệ bạn bè. Còn bè phái thì khác, quan hệ giữa các bè phải là một quan hệ đả kích, đàn áp hằn thù để tiến tới độc quyền. Bè phải thường dẫn đến những hành động vu khống nhiều khi độc ác.

Vì thế không nên lẫn lộn bè phái với các nhóm các trường, phái văn nghệ.

Anh em trong Giai phẩm mùa Xuân chỉ muốn đưa ra một số tìm tòi về nghệ thuật chống lại với một số quan điểm đang thống trị văn nghệ hồi đó, như thế không thể gọi là bè phái.

Anh em trong và sau đợt học tập vừa rồi có gặp người này, người khác trao đổi phê bình lãnh đạo, bàn bạc về những giải pháp cần thiết bảo đảm cho văn nghệ phát triển tự do; một số ý kiến quá khích hay động cơ không tốt với lãnh đạo, chính anh em cũng phản đối và uốn nắn, như thế sao lại gọi là bè phái?

Bây giờ nói về lãnh đạo

Ta cũng không nên vội vàng kết luận ngay. Chúng ta hãy trình bày một số việc cụ thể của lãnh đạo.

Vụ phê bình Việt Bắc

Tập thơ Việt Bắc cũng là một tập thơ như muôn ngàn tập thơ khác, dù có hay chăng nữa cũng chỉ là một tập thơ. Nhưng nó có cái đặc biệt. Đặc biệt không phải ở thơ mà ở tác giả. Giá tập thơ Việt Bắc là của người khác thì phê bình cũng chẳng sao đâu, nhưng Việt Bắc lại là của Tố Hữu. Một loạt bài của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê Đạt làm một số cán bộ lãnh đạo văn nghệ ngạc nhiên, tức giận thậm chí có người nói “Địch nó không mong gì hơn chúng ta chê thơ Tố Hữu”! Ta có quyền không đồng ý với những bài phê bình của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê Đạt, nhưng không đồng ý đến độ nói được câu quái gở trên thì thật là một hành động ngậm máu phun người. Nhưng làm thế đã hết đâu. Sau mấy bài phê bình Việt Bắc, báo Văn nghệ liên lục cho đăng một loạt bài ca ngợi (chỉ ca ngợi) bênh Tố Hữu. Và không cần tranh luận, cố đi đến một kết thúc thật gọn. Gọn đến mức trắng trợn. Vụ phê bình Việt Bắc kết thúc để không kết thúc gì cả.

Vụ Giai phẩm mùa Xuân

Vụ này nhiều người đã nói, ở đây chỉ xin trình bày một số nét chính. Tập Giai phẩm vừa ra, một số cán bộ văn nghệ đã công kích nó kịch liệt. Công kích bằng văn chương thì cũng đã là quá rồi, đằng này lại công kích bằng cả những hành động có tính chất hành chính thô bạo. Người ta cho rằng sở dĩ lãnh đạo làm như thế vì những người chủ chốt trong Giai phẩm đều là những người phản đối sự suy tôn thơ Tố Hữu và khuynh hướng sáng tác của họ chống lại với cái đường lối sáng tác công thức, một chiều của bè phái lãnh đạo nên bị bè phái ấy tìm hết cách tiêu diệt. Ý kiến đó đúng toàn bộ hay đúng một phần, cần phải suy nghĩ thêm. Chỉ biết Giai phẩm bị thu hồi, Trần Dần bị tống giam. Lê Đạt nghe đâu cũng bị giữ lại kiểm thảo. Bài phê bình của Hoài Thanh vu cho Trần Dần là phản động. Hoàng Trung Thông đi diễn thuyết buộc tội v.v…

Nguyễn Đình Thi đi xa về, mượn cớ đấu tranh tư tưởng nghệ thuật để mạt sát khôn khéo hơn. Nhưng ba bài báo văn hoa dài dòng không có một lời cải chính những điều vu cáo nói trên cũng không sao giấu được cái dụng ý phụ họa không tốt. Một lối kết thúc để không kết thúc gì cả.

Vụ Giai phẩm mùa Xuân sang mùa thu rồi mà vẫn còn nóng hổi, chờ đợi giải quyết lại.

Rồi đến vụ Giải thưởng Văn học 54-55

Vụ này cụ Phan Khôi đã có một vài ý kiến đăng trong Giai phẩm mùa Thu. Những ý kiến đó, đáng để chúng ta suy nghĩ nhiều vì cụ Phan là một người trong ban chung khảo, và cũng là người độc nhất chống lại các bè phái lãnh đạo trong vụ này.

Bản tham luận của một tổ trong buổi tổng kết đợt học tập vừa qua của giới văn nghệ đã nêu rõ: “Hoài Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng đại diện cho Ban Chấp hành Hội, đều có trách nhiệm lớn đối với phong trào. Thế mà tác phẩm còn non kém của ba ông lại được giải. Nếu không phải là ta tự bỏ phiếu cho ta thì cũng là bè cánh ta bỏ phiếu cho tác phẩm tồi của bè cánh ta (cũng nên chú ý đến Huy Cận có chân trong ban chấm giải, mà ai cũng biết Huy Cận và Xuân Diệu chỉ là một). Thật là bất chấp cả giới văn nghệ, khinh miệt quần chúng. Khi dư luận quần chúng đã công phẫn và cuốn Ngôi sao bị chỉ trích kịch liệt thì Hoài Thanh vẫn còn cho mình là có uy tín lớn, dám ngang nhiên đứng ra lên giọng kẻ cả mà bênh che cho Xuân Diệu.

Có thể nói: Đến bước ấy thì bè phái từ bí mật đã ra công khai rồi vậy”.

Bênh vực, bao che, tán tụng, phong chức cho nhau; đàn áp, vu cáo, nói xấu những người không tán thành mình, đó không là bè phái thì nên gọi nó cái gì?

Ai bè phái? Thật rõ như ban ngày. Cho nên ta cũng không lạ gì khi thấy một số cán bộ lãnh đạo vu cho người này người khác phản đối mình là bè phái.

Đó chính là suy bụng ta ra bụng người vậy.

Bản báo cáo của đồng chí Khơ-rút-xốp có đoạn nói trong cuộc đấu tranh chống tệ sùng bái cá nhân của Sta-lin, trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã hình thành một nhóm trung kiên theo đường lối Mác – Lê-nin, để chống lại Sta-lin. Như thế có gọi là bè phái được không?

(Kỳ sau: II. Nguyên nhân và tai hại của bệnh bè phái)


*


Trúc Lâm
Không phải truyện cười [9]

Cửa hàng bán giấy

Cửa hàng mậu dịch bán giấy ở phố Tràng Tiền mỗi ngày có hàng trăm, hàng nghìn người đến giao dịch, xe giấy, giao giấy chuyển giấy, mua, bán, trong một gian buồng hẹp, dài tun hút, không khí chỉ ra vào được bằng hai khung cửa ở hai đầu không rộng đầy 3 thước vuông.

Hàng trăm con người chen nhau mồ hôi nhễ nhại. Trong buồng giao giấy tối om om. Phải chờ đợi nhau, giấy mua hàng chồng từng đống, vẻn vẹn có hai chị bán hàng, giao hàng, đếm hàng quật quật không ngớt tay, cũng mồ hôi nhễ nhại không kém người mua hàng.

“Giá chỗ này mà có lấy một cái quạt máy…” Có người phàn nàn với một nhân viên ở cửa hàng. Người này cho biết đã đề nghị xin một quạt máy từ lâu, ngót tháng nay rồi nhưng chưa được tài chính duyệt và cấp trên còn xét.

Giá những cấp trên và những người duyệt các khoản chi tiêu tài chính rời bỏ căn phòng mát mẻ có quạt máy của mình, để cũng đến cửa hàng bán giấy ở phố Tràng Tiền, sắp hàng mua bán hoặc làm những nhân viên phục vụ… chắc chắn chiếc quạt kia xin buổi sáng… buổi chiều đã được xét… là rất cần phải nên có ngay…

Trọng lẽ không nên thất lễ

Ngày lễ Quốc khánh là một ngày đại lễ rất trọng thể của lịch sử dân tộc ta.

Trên lễ đài các lãnh tụ, các đại sứ, các đại diện ngoại giao đoàn, các đại biểu nhân dân ăn mặc nghiêm trang tề chỉnh biểu lộ lòng thành kính với ngày Quốc khánh và đối với nhân dân tuần hành diễu hành qua lễ đài.

Tuy nhiên, trên lễ đài vẫn còn đại diện cơ quan đoàn thể đã mặc áo cụt tay, áo cổ bẻ như là đi xem đá bóng, đi xem chiếu bóng.

Họ không phải thiếu quần áo lễ phục đâu.

Họ chỉ thiếu cái lễ độ với các lãnh tụ, đại diện ngoại giao đoàn và với nhân dân.

Giấy mời

Một cán bộ văn nghệ hỏi đồng chí phụ trách việc phân phối giấy mời xem các đoàn văn công các nước bạn biểu diễn.

“Nghe nói văn công Triều Tiên, Trung Quốc, Liên Xô biểu diễn hay lắm phải không ạ?”

“Thật là tuyệt diệu! Không chê vào đâu được! Ma-nhi-phích!”

“Sở dĩ họ thành công là do nguyên nhân gì ạ?”

“Nhiều nguyên nhân. Nhưng theo tôi điểm chính là họ công tác với một động cơ chính xác: vì nhân dân mà phục vụ.”

“Vì nhân dân mà phục vụ chủ yếu là công nông binh có phải không ạ?”

“Họ từ quần chúng mà ra lại trở về với quần chúng.”

Anh cán bộ văn nghệ nhổ sợi râu mép nhỏ nhẻ:

“Thưa đồng chí thế tại sao những tối biểu diễn thấy ít công nông binh tham dự?”

“À, ít công nông binh là vì nghệ thuật nước bạn cao, công nông binh hiểu biết ít về văn nghệ.”

“Thế tôi là văn nghệ sĩ hiểu biết nghệ thuật mà cũng không được mời tới tham dự?”

Đồng chí cán bộ phụ trách lúng túng ngập ngừng, sau trấn tĩnh trả lời:

“Dễ hiểu lắm. Vì đồng chí không phải là công nông binh.”


*


Quảng cáo cho Nhân văn số 2 [10]

Nhân văn số 2 sẽ đăng:

Xem mặt vợ (kịch ngắn của Hoàng Tích Linh) – Pha-đê-ép (của En-xa-Tờ-ri-ô-lê, Tử Phác dịch) - Phấn đấu cho trăm hoa đua nở (của Nguyễn Hữu Đang) - Trả lời một sinh viên Việt Nam ở Bắc Kinh (của Phan Khôi) - Những sai lầm trong lãnh đạo mỹ thuật (của Nguyễn Hữu Đang) – Nhân xem triển lãm “áp phích” Ba Lan (của Trần Duy)…

Bài gửi: Thư ký Toà soạn

Thư mua báo và tiền gửi: Quản trị



[1]Trang 2, mục “Chuyện có lý” của Tổ Ba Người, toàn bài in nghiêng
[2]Đóng khung, ờ dưới cùng, bên phải, trang 2
[3]Mục “Ôn cũ biết mới”, trang 2, đóng khung, in chen vào giữa bài “Con người Trần Dần”
[4]Chiếm toàn bộ trang 3
[5]Mục "Phê bình”, trang 5
[6]Trang 5, mục "Châm biếm", dưới cùng, bên trái, không đề tên tác giả, kèm hai tranh châm biếm
[7]Trang 5, mục "Chưa đẹp mắt", kèm một tranh châm biếm
[8]Trang 6
[9]Trang 6, kèm hai tranh châm biếm
[10]Trang 6, dưới cùng, bên phải
Nguồn: Nhân văn số 1, ngày 20.9.1956. Bản Ä‘iện tá»­ do talawas thá»±c hiện.