© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Ngôn ngữ
Loạt bài: Vấn đề chính tả
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18   19   20   21 
28.5.2003
Đoàn Xuân Kiên
Bàn về chuyện "đánh dấu thanh" trong tiếng Việt
 
Đọc mấy bài của Nguyên Nguyên trên talawas bàn về một số chuyện liên quan đến tiếng Việt chúng tôi thấy có nhiều chuyện muốn bàn thêm, nhưng xin hẹn một dịp khác. Nay nhân chuyện tác giả bàn về chuyện I ngắn I dài (là chuyện chúng tôi đã góp phần tham luận trước đây rồi nên xin miễn trở lại[1]), ông có tạt ngang qua chuyện dấu thanh của hai chữ thúythúi, hoặc là chữ thầy thâỳ. Xét ra thì lối viết chữ quốc ngữ có những quy ước khá rõ ràng về việc ghi dấu thanh, nên không thể có hiện tượng thúy thâỳ trong cách viết chữ quốc ngữ như bài viết nêu ra. Xin có mấy lời bàn góp về chuyện nhận diện và ghi dấu thanh tiếng Việt qua lối viết chữ quốc ngữ hiện nay.

Bài viết của Nguyên Nguyên cho biết một điều có thật là: trong cách viết "chữ quốc ngữ", có một vài khác biệt trong việc đánh dấu thanh. Những khác biệt này chủ yếu là ở lối bỏ dấu thanh trên các nguyên âm kép, tức là những tổ hợp có hơn một nguyên âm. Có khi dấu thanh bỏ trên nguyên âm thứ nhất, có khi lại đánh trên nguyên âm thứ nhì. Thí dụ: cùng viết một từ có âm / ua /, chúng ta viết quả nhưng lại viết tòa, hoặc là cùng để viết một từ có âm / ui /, ta viết thủy nhưng lại viết quí. "Bỏ dấu" như thế là thiếu nhất quán. Như vậy thì bỏ dấu thế nào mới "đúng", mới "hợp lí "?

Gần đây đã có một số tờ báo tiếng Việt đã công khai đặt vấn đề này ra, xem như một cách góp phần vào việc định chuẩn mực cho tiếng Việt. Chẳng hạn tập san Diễn Đàn (Paris) cho rằng phải bỏ dấu thanh trên các nguyên âm chính; do vậy dấu thanh phải bỏ trên Y trong cặp UY (thí dụ: thuỷ, thuý, chuỳ), trên A trong cặp OA (thí dụ: hoà, toạ, xoã), trên E trong cặp OE (thí dụ: xoè, hoẹ). Trong một đoạn nhỏ nêu ra chủ trương cuả tờ báo, nhóm chủ trương cho rằng trong chính tả tiếng Việt hiện nay thì lối viết UA có phần thiếu hợp lí, vì nó ghi hai tổ hợp âm khác nhau: QUA, CUA. Nhóm chủ trương tập san cho rằng hai tổ hợp nguyên âm khác nhau về tính cách: /ua/ và /uô/, do vậy đánh dấu thanh có khác nhau: chữ đầu bỏ dấu trên âm chính là A: quá, trong khi chữ sau đánh dấu trên U vì nó là âm chính: của, tủa. Lối giải thích của toà báo tỏ ra quý vị là người đã nhận ra có điều gì không ổn trong việc mô tả ngữ âm tiếng Việt, nhưng xem ra vẫn chưa thật nhất quán.


Thanh là thành phần cuả âm tiết tiếng Việt

Khi phát âm tiếng Việt, chúng ta phát âm từng đơn vị lời nói cắt rời nhau, gọi là âm tiết. Khi phát âm chậm một âm tiết, có thể nhận thấy khá rõ là mỗi âm tiết đều có thể kết hợp nhiều nhất là ba đơn vị phát âm: âm đầu + âm chính + âm cuối. Ba thành phần trên gồm những âm vị xuất hiện tương đối theo thứ tự trước sau, nên gọi là những âm vị tuyến tính.

Ngoài ra, mỗi âm tiết được định một bậc cao thấp, gọi là thanh điệu. Trong lời nói, mỗi âm tiết tiếng Việt đều mang một thanh. Thanh này xuất hiện lập tức khi âm tiết được phát ra, cho nên có thể nói rằng thanh là một thành phần bất khả phân cuả âm tiết. Thanh là thành phần âm vị phi tuyến tính cuả một âm tiết tiếng Việt. Thanh là một sắc thái cuả âm thanh các âm tiết, qua đó khi phát âm sẽ định bậc cao thấp khác nhau cuả mỗi đơn vị cuả chuỗi lời nói. Có sáu thanh làm tiêu chuẩn định bậc cao thấp khác nhau, thường gọi là ngang, hỏi, sắc, huyền, ngã, nặng.
Như vậy thì mỗi âm tiết tiếng Việt đầy đủ có tối đa bốn đơn vị cấu thành. Tối thiểu thì mỗi âm tiết cũng phải có hai thành phần: âm chính + thanh. Sơ đồ dưới đây có thể tóm tắt về kết cấu bốn thành phần cuả một âm tiết tiếng Việt:


Thanh } âm vị phi tuyến tính
âm đầuâm chínhâm cuối} âm vị tuyến tính

Hình 1: sơ đồ kết cấu âm tiết tiếng Việt (Đoàn 1999b)



Tính cách ngữ âm cuả thanh trong âm tiết

Trong phạm vi một âm tiết, thanh có hai tính cách như sau:
  1. Thanh có tính vang phụ thuộc vào tính cách cuả các nguyên âm trong âm tiết. Cùng ở bậc thanh cao nhất (thanh sắc), nhưng thanh sắc cuả nguyên âm /u/ khác với thanh sắc trong nguyên âm /ê/.


  2. Tính cách đặc trưng cuả mỗi thanh đạt mức rõ rệt nhất khi âm tiết đạt đến đỉnh cao cuả nó. Mỗi âm tiết có một đỉnh cao về mặt âm lượng, ấy là khi thành phần âm chính của âm tiết được phát ra trọn vẹn.


đỉnh âm tiết

Hình 2: đồ biểu một âm tiết tiếng Việt / mai /



Thể hiện thanh qua chữ viết

Nói đến thanh là chủ yếu nói về mặt phát âm. Khi thể hiện ra chữ viết thì nhiều ngôn ngữ không thể hiện thanh -nói riêng- và các yếu tố ngôn điệu -nói chung. Ngay tiếng Việt chúng ta cũng có hiện tượng như thế. Khi xưa ta viết chữ nôm, mỗi chữ là một khối vuông ghi lại một tiếng lẻ bằng những nét viết cuả chữ Hán. Kết cấu một chữ nôm không cho thấy kí hiệu nào để chỉ thanh cả. Đến khi chuyển sang dùng "chữ quốc ngữ" thì chúng ta dùng một hệ thống chữ viết ghi âm, nghiã là mỗi đơn vị phát âm -gọi là âm vị- được thể hiện ra chữ viết bằng một kí hiệu chữ viết gọi là đồ vị. Mỗi đồ vị gồm từ một hay nhiều chữ cái của bảng chữ cái Latin. Trước kia chúng ta thường quá để ý vào từng chữ cái nên nghĩ rằng chữ quốc ngữ có nhiều sai chệch giưã phát âm và chữ viết. Thật ra nếu xét ở cấp đồ vị thì mỗi âm vị tiếng Việt đều có một đồ vị tương ứng. (Phạm et al., 1998). Kí hiệu ghi thanh điệu cũng thế: mỗi âm tiết khi ghi lại bằng chữ viết đều mang một dấu thanh, gọi là 'đồ vị thanh'.

Tại sao lại phải dùng dấu thanh trong khi các ngôn ngữ khác trên thế giới không dùng kí hiệu chữ viết để thể hiện nó? Đúng là các ngôn ngữ dùng bảng chữ cái Latin không dùng thêm kí hiệu chỉ thanh, mà chỉ ghi lại các âm vị tuyến tính bằng các đồ vị là con chữ. Nhưng đó là một đặc tính loại hình của những ngôn ngữ đó. Loại hình ngôn ngữ có thanh điệu cũng có tình hình là có khi không có ghi thanh điệu: chữ viết khối vuông như chữ Hán và chữ Nôm không có kí hiệu chỉ thanh. Nhưng trường hợp chữ quốc ngữ có khác. Khi dùng bảng chữ cái Latin, các đồ vị con chữ chưa đủ để phân biệt ý nghiã một từ được viết ra, vì có đến sáu bậc thanh cao thấp phải phân biệt. Đã đành thanh chỉ là yếu tố ngữ âm không thuộc về thành phần âm vị tuyến tính, nhưng thanh tiếng Việt không hẳn chỉ là một yếu tố ngôn điệu mang tính cách hoa mĩ cho âm tiết, mà là một thành phần không thể thiếu được khi phát âm một âm tiết. Nói cách khác, âm tiết tiếng Việt chưa hoàn chỉnh khi chưa được định bậc thanh. Có lẽ các nhà sáng chế ra chữ viết theo bảng chữ cái Latin mà ta thường gọi quen là "chữ quốc ngữ" đã hiểu rất rõ tính cách bất khả phân cuả thanh đối với âm tiết tiếng Việt, cho nên các vị đã dùng đến những kí hiệu để chỉ thị các bậc thanh tương ứng.

Có thể thấy ngay là bảng gọi tên thanh tiếng Việt như thế có ý nghiã rằng cách gọi tên các thanh như ngày xưa chỉ là cách gọi "tượng thanh", nghiã là một thứ quy ước khác mà thôi. Bản chất thanh thứ năm chẳng hạn, là "thanh cao vút lên, ở một bực thanh nhạc cao nhất trong số sáu thanh tiếng Việt", cho nên có thể gọi nó là thanh sắc, hay thanh vút (như Nguyễn Bạt Tuỵ), hay là thanh 5 (theo cách gọi của các nhà nghiên cứu theo trường phái Nga) thì cũng chỉ là chuyện gọi tên. Vấn đề đặt ra là khi nhìn thấy một chữ mang thanh 5 đó thì phải nâng âm tiết lên đúng độ cao nhất trong sáu bậc thang thanh điệu tiếng Việt. Trở lại cách gọi truyền thống (ngang hỏi sắc huyền ngã nặng), chúng ta có thể nhận ra một điểm lợi lớn là lối gọi tên này gợi ngay ra bậc cao thấp cuả chính thanh vưà được gọi tên.

Nhưng vấn đề không chỉ là định danh, mà còn là trình bày thanh thế nào dưới dạng đồ vị. Ở đây, cách dùng con số không tỏ ra thích hợp nưã. Làm thế cũng chẳng khác gì hành vi cực đoan khác trước kia, khi một nhà báo Việt Nam - ông Nguyễn Văn Vĩnh- dùng con chữ để chỉ thị thanh điệu trong khi viết. Ông cho rằng như thế rất tiện dụng cho nhà máy in, vì chẳng cần đúc thêm những kí hiệu chỉ thanh như chữ quốc ngữ hiện hành. Thể nghiệm cuả ông nhanh chóng đi vào quên lãng, vì nó không có cơ sở nào cả.

Một vấn đề nưã: thanh điệu tiếng Việt là thành phần âm vị phi tuyến tính, nghiã là thành phần bao trùm cuả âm tiết, thì thanh có thể đặt trên bất cứ bộ phận nào cuả chữ viết; hà tất phải câu nệ mà bỏ dấu thanh vào một vị trí cố định?

Trước hết, cần xác minh là, về mặt ngữ âm, nói thanh là âm vị phi tuyến tính chỉ có nghiã là thanh không xuất hiện theo trật tự trước sau cuả các âm vị tuyến tính: âm đầu → âm chính → âm cuối. Nhưng thanh còn một tính cách quan trọng khác là có tính vang. Thanh thể hiện rõ nét nhất là ở thành phần âm chính cuả âm tiết do nguyên âm đảm nhận. Cho nên thể hiện cách viết các dấu thanh theo quy ước truyền thống từ thế kỉ XVII đến nay là một điều xác đáng. Các nhà sáng chế chữ quốc ngữ đã tiến đến ổn định vị trí cuả dấu thanh tiếng Việt là đặt trên nguyên âm -tức là thành phần âm chính cuả âm tiết khi phát âm. Điều này có thể chỉ là cảm nhận tinh tế ban đầu, nhưng đã tỏ ra rất xác đáng về mặt ngữ âm học.

Có điều rằng xưa nay việc ghi dấu thanh cho các từ có hơn một một nguyên âm thì thường thiếu tính cách nhất quán, dẫn đến những lối ghi khác nhau. Nguyên nhân không phải là từ bản thân tiếng Việt hay là từ hệ thống chữ quốc ngữ như có người nhận xét, mà chính là vì sự thiếu nhất quán trong việc mô tả hệ thống nguyên âm kép (dipthong) cuả tiếng Việt. Cho nên tìm hiểu hệ thống nguyên âm kép tiếng Việt sẽ giúp giải quyết đúng vấn đề "đánh dấu thanh" khi viết.


Nguyên âm kép cuả tiếng Việt

Trước nay các sách mô tả ngữ âm tiếng Việt đều chấp nhận giải thuyết cho rằng nguyên âm kép cuả tiếng Việt gồm có ba đơn vị như sau: iê (ia), ươ (ưa), uô. Các nhà ngữ âm đã biện luận rất nhiều về khả năng kết hợp cuả các nguyên âm kép //, /ươ/, // để thưà nhận chúng là những nguyên âm kép một âm vị (Lê 1948, Nguyễn 1949, Emeneau 1951, Đoàn 1977).

Tuy nhiên các tác giả trước đây không thống nhất ý kiến nhau về tính cách cuả các nguyên âm kép tiếng Việt, do vậy mà ý kiến cuả các vị cũng rất phân tán. Nói về tính cách của ba tổ hợp này, các tác giả thường đưa ra mấy điểm như sau: (a) về mặt ngữ âm, cả ba đơn vị nguyên âm vưà kể đều là một âm vị, hoặc có giá trị của một âm vị. Tính cách này được thừa nhận rộng rãi, cho dù các tác giả có thể khác ý kiến nhau về việc định danh chúng: đa số đều nhận các tổ hợp trên là nguyên âm kép, trừ Lê Văn Lý (1948) xem chúng là một nguyên âm chứ không phải nguyên âm kép theo quan niệm của ông; (b) cả ba nguyên âm này đầu có yếu tố nguyên âm đầu mạnh hơn yếu tố sau. Riêng tính cách này thì Lê Văn Lý lại không thưà nhận, vì ông nhận thấy yếu tố sau nhiễm thanh mạnh hơn. Emeneau cũng thừa nhận điều này khi ông mô tả các nhóm kết hợp kiểu như uây, uôi, oai…, vì ông cũng thấy là thanh nhiễm mạnh hơn ở nguyên âm thứ nhì. Như vậy thì khẳng định yếu tố thứ nhất của các tổ hợp iê (ia), ươ (ưa), uô là yếu tố mạnh là một khẳng quyết còn cần bàn lại, vì không sát với tính cách của chúng.

Những tính cách âm vị học cuả ba nguyên âm kép trên cũng tìm thấy ở sáu nguyên âm kép-trượt-tròn môi khác để làm thành một tập hợp chín nguyên âm kép thường viết ra dưới dạng như sau: iê (ia), ươ (ưa), uô (ua), uơ, uê, oe, oa (ua), uy, uyê (uya).
Khi loại bỏ sáu nguyên âm kép khác trượt từ âm tròn môi /u/ , /ô/ và /o/ ra khỏi hệ thống nguyên âm tiếng Việt, các tác giả đi trước phải dùng đến khái niệm "âm đệm" và "bán âm" / -u-/ và / -i- / để giải thích kết hợp này. Ảnh hưởng cuả cách nhìn nhận hiện tượng tròn môi như trong ngữ âm các tiếng Ấn Âu đã khiến việc mô tả nguyên âm kép tiếng Việt trở thành phức tạp, khi các tác giả đem khái niệm bán âm và âm đệm vào cấu trúc âm tiết tiếng Việt. Vả lại, thưà nhận là có hai bán âm /-i-/ và /-u-/, cách giải thích này cũng không cắt nghiã được hiện tượng không cân đối giưã các nguyên âm trượt từ bán âm / -i-/ và bán âm / -u-/.

Thật ra, tất cả các nguyên âm kép tiếng Việt chỉ là những nguyên âm trượt với nhau từ vị trí này sang vị trí khác, và khi trượt thì tăng dần cường độ: ba nguyên âm ở bậc cao nhất là /i/ - /ư/ - /u/ đều trượt sang các nguyên âm khác mà làm thành nguyên âm kép. Hiện nay, tất cả các tác giả ngữ âm tiếng Việt đều công nhận là ba tổ hợp // - /ươ/ - // là ba nguyên âm kép, và các yếu tố đầu là những nguyên âm thực thụ chứ không phải là bán âm. Yếu tố / i / và / u / trong / / và / / không phải là một bán âm thì không có lí do gì để bảo các yếu tố đó trong những tổ hợp nguyên âm kép trượt tăng dần khác là sự trượt từ một bán âm sang một nguyên âm.

Do vậy mà điều hợp lí hơn cả là thưà nhận rằng nguyên âm kép tiếng Việt là những tổ hợp nguyên âm trượt tăng dần. Những kiểm nghiệm qua cứ liệu thực nghiệm âm học gần đây nhất đã xác nhận hiện tượng trượt tăng dần cuả các tổ hợp nguyên âm tiếng Việt. Tìm hiểu hiện tượng trượt cuả các tổ hợp này sẽ thấy rằng chúng đều là những "nguyên âm kép trượt tăng dần" từ nguyên âm thứ nhất (I, U, Ư) sang nguyên âm thứ nhì. (Đoàn 1999a).

Trong hệ thống nguyên âm kép tiếng Việt, có một nguyên âm trượt qua ba vị trí cấu âm:/uiê/. Mặc dù vậy, ba nguyên âm này trượt với nhau vẫn chỉ tạo thành một đỉnh âm tiết ở vị trí nguyên âm / ê /, do vậy nguyên âm ba này vẫn chỉ có giá trị là một âm vị trong thành phần âm chính cuả âm tiết.

Các nguyên âm tiếng Việt có thể kết hợp với nhau để cho những nguyên âm kép trượt tăng dần. Dạng trượt tăng dần là nét đặc trưng cuả lối kết hợp nguyên âm kép tiếng Việt. Tính cách này trái ngược hẳn với tính cách trượt giảm dần của nguyên âm kép ti ếng Anh (Gimson 1980). Nguyên âm trượt tăng dần là các nguyên âm kép lập thành từ một trong hai trường hợp như sau:

(a) hoặc là một nguyên âm cùng bậc (hẹp, trung bình, rộng) nhưng đối lập nhau ở điểm phát âm (trước, giưã, sau) trượt về với nhau theo chiều: sau → giưã, sau → trước ;

(b) hoặc là hai nguyên âm khác bậc và điểm phát âm cùng trượt về với nhau theo chiều cao → thấp, nghiã là trượt từ vị trí mở hẹp sang rộng hơn.

Các nguyên âm kép trượt tăng dần cuả tiếng Việt đều có tính cách chung là âm tiết mang chúng có hai đỉnh, trong đó đỉnh thứ nhì [ ở chỗ nguyên âm thứ nhì ] cao


Hình 3: nguyên âm kép tiếng Việt có hai đỉnh cao về âm lượng (Phạm et al. 1998)



hơn và là đỉnh cao cuả âm tiết (Hình 3). Nguyên âm thứ nhì này sẽ là yếu tố cảm nhiễm thanh mạnh hơn trong bộ phận âm chính cuả âm tiết. Vì thế, đồ vị thanh được ghi trên các đồ vị ghi âm vị mạnh cuả âm tiết: tuý luý, kià, huề, quế, hoè, quẽ, khoẻ, ngoẻo, quở, muá, quấn, khoá, thưả...

Tóm lại, nguyên âm trượt tăng dần là một đặc trưng âm vị học cuả nguyên âm kép tiếng Việt. Đó là hai nguyên âm trượt sang bên nhau từ một trong hai vị trí khác nhau:
Nhận ra tính cách âm vị học cuả 9 tổ hơp nguyên âm kép tiếng Việt thì vấn đề thành phần âm chính cuả âm tiết tiếng Việt được giải quyết thoả đáng, và cấu trúc âm tiết tiếng Việt do vậy mà trở nên ổn định, với bốn thành phần. Không có thành phần gọi là âm đệm.
Trên đây là tính cách âm vị học nổi bật cuả các nguyên âm kép trượt tăng dần cuả tiếng Việt. Tất cả những nguyên âm kép tiếng Việt nói trên đều có những tính cách chung sau đây:


Nguyên tắc viết dấu thanh tiếng Việt

Trong các tính cách trên đây cuả nguyên âm kép tiếng Việt có một tính cách liên quan trực tiếp đến cách viết dấu thanh: ta biết rằng trong nguyên âm kép tiếng Việt, yếu tố nguyên âm thứ nhì luôn luôn mạnh hơn, làm thành đỉnh cao cuả âm tiết. Điều này dẫn đến quy tắc viết dấu thanh tiếng Việt, trong các tiếng có nguyên âm kép, như sau: dấu thanh luôn luôn đặt trên các nguyên âm đứng sau .Không có ngoại lệ.
Ứng dụng cụ thể quy tắc trên thì có những trường hợp nguyên âm kép như sau:


Một trường hợp có thể gây nhầm lẫn

Chính tả tiếng Việt có một số trường hợp cũng viết với hai đồ vị nguyên âm, nhưng thật ra bản chất cuả chúng khác hẳn những trường hợp nguyên âm kép-trượt-tăng-dần bàn đến ở phần trên. Đó là trường hợp các nguyên âm kết hợp với U, O, I, Y phiá sau chúng. Thí dụ: sáu, đảo, nhái, thấy

Những trường hợp này đều có một kết cấu giống nhau: âm chính + âm cuối. Trong kết cấu âm tiết cuả bốn từ sáu, đảo, nhái, thấy trên đây thì au, ao, ai, ây không phải là những nguyên âm kép, vì lẽ một nguyên âm kép luôn luôn chỉ là một đơn vị âm chính cuả âm tiết, và nó có thể kết hợp thêm với một âm cuối.

Ta biết rằng tiếng Việt có 8 âm vị sau đây đảm nhận thành phần âm cuối trong âm tiết: m, p, n, t, ng (nh), c (ch), o (u), i (y). Bốn tổ hợp au, ao, ai, ây không thể kết hợp thêm với một âm cuối nào trong số 8 âm cuối kể trên, vì lẽ chúng đã có âm cuối rồi. Chẳng hạn, không thể có kết hợp *au+n, *ao+n, *ai+n, *ay+n trong tiếng Việt.
Khi phát âm thì kết cấu này không trượt tăng dần như các nguyên âm kép. Ngược lại, chúng "trượt" giảm dần theo đúng quy cách khép âm tiết khi có thành phầm âm cuối. Những âm U, O, I, Y trong trường hợp này chính là những âm cuối để khép âm tiết lại. So sánh hai từ sau đây: thuỷthủi. Từ trên có âm chính là nguyên âm kép /uy/ trượt tăng dần từ /u/ sang /i/; từ thứ hai có nguyên âm đơn /u/ là âm chính và âm cuối /i/ khép âm tiết lại.

Trong kết cấu âm tiết kiểu âm chính + /u/, /o/, /i/, /y/ này, thành phần âm chính có thể gồm một nguyên âm đơn hay một nguyên âm kép. Kết hợp sẽ như sau:

Dù trong trường hợp nào thì dấu thanh cũng không đặt trên bốn âm cuối /u/, /o/, /i/, /y/, mà chỉ đặt trên nguyên âm đơn hay trên nguyên âm thứ nhì cuả tổ hợp nguyên âm kép đứng trước các âm cuối đó.


Tóm lại, dấu thanh tiếng Việt có nguyên tắc viết rất nhất quán khi viết ra bằng chữ quốc ngữ, và có thể tóm tắt như sau:
(1) Dấu thanh đặt trên thành phần âm chính cuả âm tiết khi viết;
(2) Thành phần âm chính cuả âm tiết có thể là:




Tài liệu:
Đoàn Thiện Thuật (1977), Ngữ Âm Tiếng Việt. Hà Nội: Nxb. ĐH & THCN.
Đoàn Xuân Kiên (1999a) "Xem lại một vấn đề ngữ âm tiếng Việt: nguyên âm" in Hợp Lưu, số 45 (th.2&3.1999), tr. 5-31.
Đoàn Xuân Kiên (1999b) "Xem lại một vấn đề ngữ âm tiếng Việt: cấu trúc âm tiết" in Hợp Lưu, số 48 (th.8&9.1999), tr. 22-54.
Emeneau, M.B. (1951) Studies in Vietnamese (Annamese) Grammar. Berkeley & Los Angeles: University of California Press.
Gimson, A.C. (1980), An Introduction to pronunciation of English. (3e ed.) London: Edward Arnold.
Lê Văn Lý (1948), Le Parler Vietnamien. Paris: Hương Anh.
Nguyễn Bạt Tuỵ (1949), Chữ Và Vần Việt Khoa Học. Sài Gòn: Ngôn Ngữ
Phạm Thị Tú Minh, Nguyễn Văn Thế & Đoàn Xuân Kiên (1998), Học Kĩ Đọc Đúng - Sách Hướng Dẫn I. (Bộ sách dạy học đọc bước đầu cho trẻ song ngữ). Tilburg: Zwijsen.
Tập san Diễn Đàn (Paris) số 55 (1.9.1996)


© 2003 talawas



[1] Đoàn Xuân Kiên, Thảo luận cùng anh Vũ Dũng, [ talawas, 24.07.2002 ]
Đoàn Xuân Kiên, Nói thêm về i và y, [talawas 01.07.2002 ]