© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
15.3.2007
 
Giai phẩm mùa Thu 1956 - Tập III
 1   2   3   4 
 
Nguyễn Mạnh Tường
Vừa khóc vừa cười

Trong một thiên anh hùng ca sáng tác vào khoảng thế kỷ thứ XI, thi sĩ tường thuật cuộc chiến đấu anh dũng của hai anh hùng Roland và Olivier, chống lại kẻ thù chung. Hai bạn chí thân giết được nhiều địch, nhưng hai người đều bị thương cả. Đặc biệt Olivier, máu chẩy nhiều, hoa cả mắt không nhận thấy gì nữa. Khi Roland lại gần để giúp bạn, Olivier tưởng nhầm là kẻ thù, bổ mấy nhát dao xuống, may không trúng đầu Roland. Anh này bèn dịu dàng lên tiếng: “Tôi là Roland đây mà. Sao anh đánh tôi?”. Olivier xin lỗi bạn: “Mắt tôi hoa, không nhận ra anh nữa.”

Khi châu Âu chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ tư sản, trong thế kỷ thứ XVI, Rabelais kể chuyện Badebec, vợ của Gargantua, vừa sinh con xong, thì từ trần: “Cái thắc mắc làm cho Gargantua rối trí là hắn không biết nên khóc vì vợ vừa chết, hay nên cười vì con vừa sinh”.

Đến cuối thế kỷ thứ XVIII, khi Cách mạng 1789 sắp bùng nổ, Figaro, một nhân vật của Beaumarchais, sau khi kiểm điểm tình hình của xã hội đã thủ tiêu hết mọi tự do, kêu lên: “Tôi vội vàng cười để tránh khỏi khóc oà.” Như thế không đúng. Phải khóc trên cái hiện thời để cười đón cái ngày mai. Dù sao, người trí thức là người vừa khóc vừa cười. Khóc vì các sai lầm phải chứng kiến trong hiện tại, cười vì vui với cái mới đang đến. Khóc vì đau khổ. Cười vì hy vọng. Khóc hôm nay để cười ngày mai. Trên quá trình từ cái khóc đến cái cười diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng của người trí thức.

Người nào chỉ biết hoặc khóc thôi, hoặc cười thôi, không phải là người trí thức.

Ta ân cần với người trí thức ưa khóc. Ta phải chiếu cố, nâng đỡ người ta. Người ấy đau khổ vì các thắc mắc căn bản và sâu sắc. Người ấy thành khẩn. Người ấy không phải là thù, người ấy là bạn. Ta phải kiên trì, cố gắng đưa cái khóc của ta biến thành cái cười.

Ta dè dặt, có khi ngần ngại, trước người trí thức ham cười. Ta hoan nghênh cái cười chân thật, xuất phát từ đáy lòng, nẩy nở trên các giọt lệ vừa khô. Nhưng ta khó chịu trước cái cười bình phong dùng để che đậy các thắc mắc bản thân mà mình không muốn thú với mình. Ta ghét cái cười dùng để mị trên, lừa dưới, câu các kẻ ngây thơ, biểu lộ một ý chí tôn sùng, hòng củng cố một địa vị, hay mưu cầu một bổng lộc. Quần chúng cần đề cao cảnh giác để khỏi mắc mưu cái cười ấy. Cấp lãnh đạo lại cần cảnh giác hơn nữa vì cái cười nịnh hót nuôi dưỡng bệnh chủ quan mà cấp lãnh đạo thường mắc.

Cái cười nguy hại này không nhất thiết biểu hiện bằng sự nhích môi. Nó có thể là linh hồn của một cử chỉ, nội dung của một thái độ. Có người cười bằng cái đầu nó gật, cái lưỡi nó tán thành ủng hộ. Trong bao nhiêu “tả khuynh”, tôi nghe thấy vang tiếng cười ấy.

Tôi sợ người trí thức im lặng. Tôi nghi ngờ người trí thức cười. Tôi thương người trí thức khóc. Tôi yêu người trí thức vừa khóc, vừa cười, khóc hôm nay để cười ngày mai, “khóc lên tiếng cười”.

TIN vẫn lợi hơn NGHI. Trong mười người ta tin, có thể có một kẻ thù lẻn vào. Nhưng ta vẫn còn chín người bạn. Và chín người bạn này sẽ giúp ta tìm ra kẻ thù ấy. Nếu ta nghi cả mười người, khi ta giơ tay, chẳng ai bắt tay ta. Ta không có một bạn nào cả.

Đồng ý rằng phải phân chia rõ rệt địch, ta. Nhưng ta phải xác định thái độ của ta đối với địch. Địch mưu hại ta và thực sự gây cho ta nhiều tổn thiệt. Nhưng ta chớ nên buộc cho nó trách nhiệm về các tai hoạ căn nguyên ở sự dốt nát, sai lầm, chủ quan của ta. Theo danh từ khác phổ biến: “như thế không lợi”. Không lợi vì ta đề cao địch, tỏ vẻ sợ địch. Không lợi nữa vì gán kết quả sai lầm của ta cho địch, ta không sửa chữa được gì, không rút được bài học của kinh nghiệm. Từ trước tới nay, ta chỉ đặt vấn đề: ai là địch, ai là ta? Tôi đề nghị đặt thêm vấn đề: do địch làm, do ta phạm. Điểm trên, đề cao cảnh giác và cho phép ta đề phòng, hoặc đối phó. Điểm dưới nêu cao tinh thần tự phê và giúp đỡ ta tự xây dựng.

Con thỏ sợ đến cả cái bóng của nó. Con sư tử bất chấp mọi thú vật. Ta không phải là sư tử cũng không muốn là sư tử. Nhưng nhất định ta không phải thỏ.

Kẻ thù số một của trí thức: bọn chụp mũ. Kẻ thù số một của cấp lãnh đạo: các cán bộ chuyên môn “cười”, và bọn vỗ ngực, và cả bọn chụp mũ nữa. Các cán bộ chuyên môn “cười”, dựa vào bọn vỗ ngực trong quần chúng, ru ngủ cấp lãnh đạo. Bọn chụp mũ nham hiểm hơn: họ gây thành kiến giữa lãnh đạo và quần chúng, họ vô tình hay hữu ý xuyên tạc các nguyện vọng chính đáng, các yêu cầu hợp tình, hợp lý, hợp pháp của quần chúng. Họ là Iago xúc xiểm Othello ghen vợ, ghét vợ, giết vợ. Bị bao vây chặt chẽ như vậy, tài nào cấp lãnh đạo hiểu biết được sự thật của quần chúng?

Có một số người thấy phong trào quần chúng đòi hỏi ở Đảng lãnh đạo, một chính sách cho trí thức (với các tự do dân chủ và mối quan hệ tốt giữa chính trị và chuyên môn) đã tỏ thái độ “khó chịu” và phản ứng mạnh. Họ nhắm mắt, lắc đầu, chép miệng, thở dài. Không thực sự cầu thị, chưa điều tra nghiên cứu, chẳng tìm hiểu sự thật, họ chỉ biết mang đao to, búa lớn ra doạ nạt, họ là Don Quichotte cầm giáo tiến lên đâm cối xay, họ quên lý luận Cách mạng họ đã học tập. Họ là nàng công chúa quên thời kỳ gặp Thạch Sanh trong hang.

“Tích tịch tình tang…” Tiếng đàn của Thạch Sanh có nhắc lại được kỷ niệm cũ không? “Hỡi tuyệt thế giai nhân mà tôi yêu với một mối tình vô hạn, nàng còn nhớ thuở đôi ta gặp nhau trong hang đá không? Đôi ta quyết tâm sống chết có nhau, với nhau. Vì vậy ta thắng kẻ thù, ta sống. Bây giờ thời kỳ gian lao đã qua, nàng trở về dinh cơ huy hoàng, lên xe xuống ngựa. Nàng nỡ lòng nào quên tình duyên cũ?”

Tôi muốn thân ái hỏi các bạn đang chép miệng thở dài: “Các bạn là những người Cách mạng. Thái độ của các bạn phản ứng, đối phó (tôi không nói đàn áp) trước một phong trào quần chúng đông đảo, đòi hỏi, trên lập trường Cách mạng, những quyền lợi chân chính, thái độ ấy, phân tích, truy nguyên nó, ta thấy gì? Tôi run sợ trước kết luận tôi phải tiến tới. Tôi ngừng bút. Tôi nhường lời cho tất cả người cộng sản trên thế giới, trong đó có các đảng viên Đảng Lao động Việt Nam, có các bạn, để các người ấy nhận định về thái độ nói trên, định danh cho nó, gọi nó bằng tên Cách mạng của nó. Để tránh khỏi mang tiếng chụp mũ cho các bạn, tôi dành quyền phán định cho “giới có thẩm quyền”.

Tôi chỉ xin nhắc lại rằng trong lịch sử Cách mạng Liên Xô và Trung Quốc, khi giai đoạn kiến quốc tiến vào bước quyết liệt, chính thể Cách mạng không thể nào lãnh nhãn được vấn đề trí thức. Cuộc tranh đấu của trí thức Việt Nam hiện thời xen vào khung khổ Cách mạng, phối hợp với phong trào tranh đấu của trí thức trên toàn thể thế giới. Coi nhẹ nó là một sai lầm. Giải quyết nó một cách hời hợt, nông cạn, với tinh thần của người nhớn cho kẹo trẻ con để nó khỏi khóc, là một sai lầm nghiêm trọng. Đối phó với nó, chống lại nó… tôi không tiếp tục vì tôi tin rằng không một chính thể Cách mạng nào lại hành động như vậy. Bằng chứng là báo Nhân dân trong số 30-9-56 vừa đăng bài của đồng chí Lục Định Nhất đọc ngày 16-5-1956, với sự chậm trễ có 4 tháng thôi. Từ Bắc Kinh tới Hà Nội, đường dài hơn năm nghìn cây số, tốc độ của sự thật như thế là nhanh rồi. Còn báo cáo của đồng chí Chu Ân Lai in từ ngày 30-1-1956, tôi không nhờ đăng báo Nhân dân ngày nào. Dù sao, các bạn thấy rõ là Đảng Lao động Việt Nam coi trọng vấn đề, như Trung Quốc từ đầu năm nay, như Liên Xô từ năm 1936. Đảng lại còn phát động tinh thần dân chủ trong quần chúng, trong các giới, các cơ quan, và sở dĩ làm như vậy là để thắt chặt liên lạc với quần chúng, đi sát với sự thật của quần chúng, trưng cầu ý nguyện của quần chúng để xây dựng chính sách, lãnh đạo có kết quả. Vậy tại sao các bạn lại chép miệng thở dài? lại xuyên tạc ý nghĩa trọng đại, lịch sử của một phong trào quần chúng, mà chính Đảng phát động? Thế các bạn tranh đấu cho ai, phục vụ cái gì? Chủ trương của Đảng phát huy dân chủ là một sáng kiến mà toàn dân hoan nghênh. Hạt đã gieo, bây giờ sắp đến lúc gặt hái. Cớ sao mà bạn lại muốn truất quyền của Đảng gặt hái cái mùa màng mà Đảng đã gieo hạt?

Nhưng tôi hiểu các bạn. Các bạn là những người tốt. Chẳng qua các bạn chỉ nặng về một số thành kiến mà thôi. Tuy nhiên, các bạn thực sự cầu thị: các bạn cho phép tôi tin như vậy. Phải không, các bạn?

4-10-56

(Trang 22-25)


*


Phùng Quán
Người dũng sĩ trên sông Xuân Bồ

Ngày 20-5-950, tiểu đoàn 6e Spahis, một tiểu đoàn ứng chiến bậc nhất của Pháp ở Đông Dương, có thành tích 15 năm bách chiến bách thắng ở khắp thuộc địa của Pháp đã bất thình lình tấn công vào làng Xuân Bồ thuộc tỉnh Quảng Bình hòng tiêu diệt chủ lực của ta. Bộ đội chủ lực của ta đã chiến đấu vô cùng anh dũng suốt một ngày để bảo vệ nhân dân. Hàng trăm chiến sĩ đã hy sinh vẻ vang. Trong đó có 1 chiến sĩ mà nhân dân Quảng bình ai cũng biết tên là đồng chí Lâm Uý. Lâm Uý đã được chính phủ truy tặng danh hiệu anh hùng quân đội nhân dân Việt nam và huân chương Quân công hạng nhì.

Trước trận chiến đấu đơn vị Lâm Uý đóng quân ở làng Uẩn Áo cách làng Xuân Bồ 1 con sông

Bên kia Uẩn Áo, tiểu đội Lâm Uý đang hì hục xúc thóc đổ ra sân phơi giúp dân. Lâm Uý khệ nệ bưng từng thúng thóc đầy có ngọn, đổ dài ra thành từng vồng. Những hạt thóc màu vàng tươi, bốc lên một mùi thơm quen thuộc làm cho Lâm Uý bỗng thấy hơi nhớ nhà. Anh nhớ đến mùa gặt hái ở quê mình. Cũng những buổi sáng nắng đẹp như sáng hôm nay, anh cùng với mẹ xúc thóc ra phơi trước cái sân nhỏ trước nhà. Lưng mẹ anh còng xuống mặc dù bưng không nặng lắm, áo nâu của mẹ bạc màu rách vá. Chốc chốc mẹ lại ngừng lên nhìn trời, mây xanh ngắt, mẹ nheo mắt cười: Tốt nắng quá! Mẹ mắng yêu con gà mái ghẹ đang bới thóc lung tung.

Lâm Uý nói với một anh đứng cạnh:

“Năm nay lúa chín sớm thật. Không biết ở nhà mẹ mình đã gặt được tý nào chưa? Thế nào bà cụ cũng nhắc: “thằng Uý không thấy về mà ăn cơm gạo mới.”

Bà mẹ chủ nhà, lấy cái nón rách đội lên đầu Lâm Uý rồi cười móm mém:

“Thế ở đây không là mẹ à? Các con ở đây mai gặt lúa nếp về, mẹ làm cốm cho mà ăn.”

Lâm Uý vui vẻ nói:

“Để con giã cốm cho, con giã cốm giỏi lắm.”

Một con gà mái lục tục dắt một đàn con mới nở lông vàng và mình tròn như hạt thóc được mùa, đến bươi bươi đồng lúa anh vừa mới đổ. Anh bắt chước tiếng mẹ mắng yêu con gà:

“Cho ăn nhưng cấm bươi. Mụ cô mi gà. Được mùa, con gà, con qué cũng sướng thân.”

Mọi người đang vui bỗng ngừng cả lại, bên kia làng Xuân Bồ súng nổ dữ quá. Lâm Uý bảo anh em bỏ thúng mủng, vào nhà thắt nịt đạn đeo súng.

Vừa lúc đó, anh trung đội trưởng vừa chạy vừa hô to ở ngoài ngõ:

“Các tiểu đội chuẩn bị chiến đấu.”

Súng càng nổ dồn dập, khói đại bác từ Xuân Bồ bay sang khét lẹt. Bà mẹ cuống lên, cầm cái chổi lại cầm cái thúng không biết làm cái gì. Bà nói gần như khóc:

“Mới gặt về được ba hạt thóc, chưa phơi hắn đã đến càn, lỡ hắn cướp hết thì bốc đất mà ăn hở trời.”

Lâm Uý thương quá, anh nắm chặt bàn tay đen xạm, gầy trơ xương của bà mẹ và nói:

“Mẹ đừng lo. Có chúng con đây, chúng không dám cướp thóc của mẹ đâu. Mẹ cứ để thóc đấy, xuống hầm núp đi kẻo chốc nữa máy bay nó đến rồi chạy không kịp, chúng con đánh xong giặc lại trở về phơi thóc cho mẹ.”

Một giọt nước mắt nóng hổi, rơi xuống bàn tay gân guốc còn dính đầy bụi lúa của Lâm Uý.

Liên lạc của ban chỉ huy Trung đoàn đóng bên Xuân Bồ đã đem mệnh lệnh sang đến nơi. Năm phút sau cả đại đội tập họp đầy đủ dọc theo con đường trong xóm. Tiếng đồng chí đại đội trưởng nhanh và gọn như một băng trung liên:

“Tiểu đoàn bạn đang đánh nhau với quân ứng chiến Spahis. Lệnh của Trung đoàn: tiểu đoàn chúng ta phải vượt sông sang phối hợp tiêu diệt địch. Đại đội chúng ta vượt trước. Tiến!”

Đại đội loáng một cái thành 2 hàng dọc chạy như bay ra bờ sông. Đại đội trưởng cởi quần dài vắt lên cổ, súng lục cầm tay, dẫn đầu đại đội. Vừa chạy vừa đúc thúc:

“Mau lên! mau lên! địch nó chạy hết cả bây giờ.”

Sông Xuân Bồ chan hoà nắng sớm đã hiện ra ngay trước mặt, hình như những giờ phút quan trọng này sông lại rộng hơn, sâu hơn, chảy xiết hơn mọi ngày. Trên bến đò chỉ có một chiếc đò. Mỗi chuyến chỉ chở được 10 người là nhiều. Người chèo đò là một cụ già, tóc bạc lơ thơ, cằm không râu. Ông cụ hay nói: đói quá râu không mọc được. Ông ở trần, mặc chiếc quần cộc dài đến đầu gối, lưng cháy đen, răn reo như quả bưởi héo.

Một chiếc máy bay bà già bay vè vè dọc bờ sông kiểm soát, ông cụ cúi thấp người xuống, núp vào bụi cây, chửi:

“Tổ cha con mẹ nạ giòng mi lại sắp chỉ điểm ca-nông đây.”

Đại đội hai chạy đến bờ sông thì đứng lại. Đồng chí đại đội trưởng nhìn giòng sông lo lắng:

“Qua bằng cách gì bây giờ? Bơi à? Sông rộng và sâu quá lại mang cả vũ khí chắc khó lòng bơi qua được.”

Ông cụ chèo đò chạy ra khỏi bụi cây và nói:

“Các anh không xuống đò còn đứng làm chi đó?”

Anh đại đội trưởng nói:

“Bố ạ, một chuyến chở được 10 người, bao nhiêu mới qua hết một tiểu đoàn? vả lại tàu bay đại bác nữa.”

Ông cụ nhảy phăng xuống đò, hăng hái nhanh nhẹn như thanh niên, cầm chèo và nói như ra lệnh:

“Tàu bay bắn trên trời, đò mình chèo dưới nước việc gì mà sợ. Các anh xuống đò ngay, qua gấp gấp không giặc nó giết hết đồng bào Xuân Bồ chừ.”

Đồng chí đại đội trưởng cho bộ đội xuống đò, số nào bơi giỏi thì để vũ khí lên đò mà bơi.

Tiểu đội của Lâm Uý xuống trước tiên, đò hơi chòng chành, ông cụ bảo:

“Ngồi thật vững vào, lật chìm đò là lỡ mất việc nước đấy”, con đò mới ra khỏi bến chừng con sào thì chiếc máy bay bà già quay lại, lượn vòng trên đầu nghiêng cánh. Lâm Uý bảo:

“Chuẩn bị tinh thần nghe, nó câu đại bác đấy.”

Một phút sau, một loạt đại bác vút qua đầu và đánh đáo xuống sông. Có viên nổ chỉ cách đò 10 thước, mặt nước co rúm lại, sóng dội vào đò, ông cụ hét:

“Kệ cha hắn. Đạn nỏ có mắt không dám chui vào đò của bộ đội đâu.”

Tiếp đó đạn nổ không phân biệt quả nào trước quả nào sau. Mặt sông sôi sùng sục như một nồi cơm đang sôi. Cá chết nổi từng đàn. Đò chòng chành như muốn lật nhưng ông cụ vẫn không hề run tay, chèo càng nhanh hơn. Đôi mắt mở to nhìn hút hút sang bên kia bờ. Có cảm tưởng đôi mắt ông cụ như một cặp móc sắt đang cắm vào bờ bên kia để kéo chiếc thuyền thật nhanh vào bến. Đò gần đến bờ, đạn bắn càng dữ dội.

Giọng ông cụ vẫn bô bô:

“Các anh yên chí, tôi còn đứng vững trên mũi thuyền này thì tôi quyết chở các anh sang hết! sang hết! đánh thắng một trận thật to cho cụ Hồ mừng.”

“Chúng con cũng quyết đánh thắng một trận thật to cho xứng là con của bố!”

Ông cụ cười hà hà quay ngắt đò lại chèo về, nhanh không chịu được! Ông nói nhưng không quay đầu lại.

“Đánh mạnh vô! Đánh mạnh vô! Nhớ bắt cho tôi mấy thằng Tây thật to để tôi dậy nó chèo đò đỡ đần cái thân già này một chút.”

Giữa cảnh bom đạn ngất trời, ông cụ bỗng thấy mình trở nên hăng hái bồng bột như thuở còn trai. Cứ như thế, ông cụ đã chở cả tiểu đoàn sang sông trong 2 tiếng đồng hồ [1] .


9 giờ 30 địch đánh vào làng đợt thứ ba. Lần này chúng đánh vô cùng quyết liệt, chết lớp này chúng xông lên lớp khác. Máy bay và đại bác đánh không sót chỗ nào. Cây cối gẫy lấp hết cả đường đi. Bọn địch lợi dụng những loạt đại bác, lăn xả vào cố chiếm một góc làng để làm bàn đạp tấn công.

Đại đội 2 sang sông xong, tiến như bay đến chỗ địch vừa chiếm được nêu khẩu hiệu: đạn tránh người.

Quân địch chưa đứng vững vào công sự thì đại đội II đến.

Đại đội trưởng chỉ huy đánh một mũi vào cạnh sườn địch. Quân địch chịu không nổi phải bật ra khỏi làng. Lâm Uý reo to:

“Truy kích mà tiêu diệt anh em ơi!”

Cả đại đội mà ra cánh đồng đuổi địch. Bọn địch phía sau thấy thế bắn bừa vào bọn địch rút lui. Bọn rút lui cùng đường phải nhào lại phía ta. Chạm trán nhau, nổ ra một trận đánh giáp lá cà, đâm chém nhau loạn xạ tối mắt. Đại bác và phi cơ địch lúc đó đành bó tay. Đại đội trưởng ra lệnh vừa đánh vừa lùi vào làng, củng cố lực lượng. Quân địch cũng rút giữa đồng chuẩn bị xung phong đợt khác. Tên quan một chỉ huy địch thấy sợ tổn thất trong trận giáp lá cà vừa rồi quá nặng nề phải kêu lên lo sợ:

“Gặp phải bọn chủ lực Việt Minh này rắn quá!”

Đại đội lúc đó thương vong cũng khá nhiều.

Đến 11 giờ 30 làng Xuân Bồ hoàn toàn im lặng không một tiếng súng, cái im lặng báo hiệu một cơn bão lớn. Nắng khủng khiếp. Tất cả mọi người đều cởi trần, mặc quần cộc dựa lưng vào giao thông hào để tìm hơi mát trong đất ẩm.

Lâm Uý kiểm điểm lại tiểu đội thương vong gần quá một nửa, mắt anh cau lại. Anh vốc từng vốc mồ hôi trên trán, dựa lưng vào một gốc mít bị đạn đại bác lật ngược, cởi áo chùi máu những vết thương xây xát khắp người, lẫn cả máu quân giặc, anh vò áo lại để lên bờ giao thông hào. Anh lầm bầm:

“Ở trần đánh càng đỡ vướng.”

Lâm Uý nhìn ra quang cảnh chung quanh, anh không ngờ khủng khiếp đến thế: Trước mắt anh chỉ còn cách hàng rào làng 50 thước, xác quân địch và xác chiến sĩ ta nằm chồng lên nhau, máu đọng lại thành từng vũng đen kịt. Một cây bưởi đang trổ hoa mảnh đạn băm nát như mặt thớt. Dưới gốc cây một em bé liên lạc đang ngồi ngoảnh mặt nhìn ra đồng, tay cầm một quả lựu đạn. Lâm Uý định gọi thì thấy em ngồi trên vũng máu và không hề động đậy. Trong giao thông hào bên trái, 3 chiến sĩ trong tiểu đội anh chết, ngồi dựa lưng vào thành đất trong tư thế trông rất thoải mái và bình thản, chiến tranh đã hiện ra đầy đủ với muôn vẻ tàn khốc của nó.

Nắng càng gay gắt. Tiếng ve kêu ra rã càng làm tăng thêm không khí yên lặng nặng nề của một buổi trưa tháng năm.

Đồng bào Xuân Bồ từ các hầm hố chui lên rủ nhau đi tìm nồi nấu nước cho bộ đội. Củi lấy ở các căn nhà bị đổ, chè bị đại bác bắn tiện, rơi la liệt khắp vườn, chỉ việc nhặt, rửa đi, cho vào nồi. Khói thuốc súng và khói bếp quyện vào nhau, lẩn quất quanh làng.

Ban chỉ huy họp cán bộ trung đội, phiên chế lại quân số chiến đấu cho hợp lý, cho các đồng chí bị thương ra phía sau. Những đồng chí bị thương nhẹ đều xin ở lại. Chính trị viên đại đội còn trẻ, có cặp mắt trông lúc nào cũng như đang cười đi đến chỗ giao thông hào của Lâm Uý. Chính trị viên ngâm thơ khá lắm, lúc nào đại đội liên hoan văn nghệ thế nào anh em cũng gào:

“Đề nghị anh cho ra một bài.”

Anh thấy Lâm Uý cởi trần liền tủm tỉm cười:

“Đồng chí Uý sắp đánh vật với ai đây?”

Lâm Uý xưa nay vẫn có tiếng là một tay vật cừ nhất đại đội. Lúc nào sắp vật chơi với anh em Lâm Uý cũng cởi áo vào nói: “Khoan, để ta cởi áo đã rách da thì da lại liền, rách áo không có vợ hiền vá cho.”

Lâm Uý cũng cười: chuyến này có lẽ cũng sắp phải vật nhau với Spahis rồi đây anh ạ, đạn gần hết rồi.

Anh chính trị viên nói:

“Lâm Uý có dám vật không?”

“Túng thì phải tính chứ, không dám cũng không được.”

“Vừa rồi đồng chí đánh kền lắm. Trận sắp đến cố chỉ huy tiểu đội giữ thật chặt mặt này. Tiểu đội đồng chí bây giờ là nòng cốt của đại đội đấy. Nếu cần, tiểu đội đồng chí phải dùng lưỡi lê, báng súng hay cả vật nhau nữa, giữ cho bằng được.”

Lâm Uý nói:

“Hứa với anh như thế. À anh có bài thơ gì hay ngâm bài động viên anh em đi.”

Chính trị viên vỗ vỗ tay ra hiệu, nói:

“Cả đại đội ai thích nghe ngâm thơ thì hãy lẳng lặng mà nghe.”

Tiếng ngâm thơ của chính trị viên khàn khàn vì ban nãy hét xung phong nhiều quá, nhưng nghe rất cảm động:

……………………
Anh giết bao nhiêu giặc
Mà mắt anh long lanh
Mời anh lên rừng xanh
Hỏi những cành lá biếc [2] .

Một anh lính ở cuối giao thông hào láu táu vọng lên:

“Đề nghị chính trị viên chữa lại:

Mời anh đến Xuân Bồ
Hỏi giao thông hào ruộng ạ”

Cả giao thông hào cười rộ. Không khí các tiểu đội vui hẳn lên. Các chị Phụ nữ Xuân Bồ mang nước đến cho các chiến sĩ, mỗi bát nước kèm theo một nụ cười khuyến khích. Nhiều chị cởi khăn tang trên đầu băng bó cho các đồng chí bị thương. Một chị còn trẻ, hai mắt sưng húp rót cho Lâm Uý một bát nước chè đầy tràn, Lâm Uý hỏi:

“Sao chị khóc nhiều thế?”

Chị bỗng xúc động, bát nước trên tay rung rung, sóng cả ra ngoài. Chị kể:

“Tôi mới sinh một cháu trai được 3 tháng, nó bụ bẫm, trắng như hòn bột. Sáng nay giặc bắn đại bác vào làng, rơi trúng nôi cháu treo giữa nhà. Cháu mất không còn mảnh thịt.”

Rồi không nén nổi đau đớn, chị úp mặt vào giao thông hào khóc, hai vai gầy rung rung. Lâm Uý uống cạn bát nước chè khét mùi thuốc súng vì lá chè chưa rửa sạch. Hai mắt anh mờ mờ nước mắt. Anh đỡ chị dậy và nói:

“Thôi, chị đừng khóc nữa. Tôi sắp trả thù cho cháu đây.”

Hai giờ chiều quân địch ngoài cánh đồng bắt đầu chuyển động. Đồng chí liên lạc Trung đoàn đầu quấn khăn tang trắng đẫm máu, chạy đến giao thông hào đại đội II.

Đồng chí chính trị viên đọc chỉ thị và lời động viên của trung đoàn:

“Hỡi tất cả các đồng chí! Ai còn đủ sức đứng lên thì hãy dũng cảm đứng thẳng lên. Cầm chắc súng và lưỡi lê, đánh thắng trận cuối cùng, bảo vệ cho bằng được Xuân Bồ và trả thù cho các đồng chí và đồng bào đã hy sinh”

Chính trị viên vừa đọc xong thì tất cả đại đội đều đứng lên hết, cả những đồng chí bị thương nhẹ. Hơn năm chục đôi mắt như năm chục lưỡi dao nhọn hoắc chĩa thẳng ra phía địch. Không ai nói một câu nào.

Quân địch bắt đầu đánh. Chúng dốc toàn bộ hoả lực vào đợt tấn công cuối cùng để tiêu diệt cho bằng được chủ lực của Việt minh mà chúng đoán gần bị tiêu diệt rồi. Một mũi mạnh nhất chĩa thẳng vào đại đội Lâm Uý. Chờ địch vào cách 30 thước, đại đội tung lựu đạn đánh ngã toán đầu. Toán thứ hai đạp xác toán đầu xông lên, đại liên, trung liên bắn phủ đầu. Khói thuốc súng cay xè như vã nước ớt vào mắt. Lâm Uý bình tĩnh chỉ huy tiểu đội chồng xác toán thứ 2 lên toán đầu. Lựu đạn gần hết, đạn địch vẫn bắn như mưa. Anh nhảy ra khỏi giao thông hào nhặt lựu đạn của địch và của anh em hy sinh rơi vãi chung quanh, lấy cả quả đã mở chốt an toàn trong tay em liên lạc ngồi dưới gốc cây bưởi. Tất cả được 30 quả, anh phân phát cho anh em đánh bật đợt xung phong thứ ba. Cuối cùng thì đạn và lựu đạn hết nhẵn. Lựu đạn địch ném vào như mưa, có quả chưa rút chốt an toàn. Lâm Uý bắt ném trả lại một lúc 10 quả, quả nào cũng xa 40 thước, nổ đích đáng giữa đầu, giữa lưng quân địch. Quân giặc vẫn điên cuồng lăn xả vào, tinh thần anh em đã hơi nao núng. Lâm Uý vẫn gan góc động viên mọi người:

“Không có lựu đạn thì dùng lưỡi lê báng súng mà diệt địch. Noi gương các chiến sĩ trên đồi Đồng Đưng.”

Quân địch đã vào đến mép làng, chuẩn bị đánh chiếm đoạn giao thông hào thứ nhất.

Đại đội trưởng ra lệnh:

“Chuẩn bị đánh giáp lá cà.”

Tất cả mọi người cầm chắc súng, cầm lưỡi lê sáng quắc sẵn sàng trong tư thế xung phong.

Tiếng quân địch hò hét như điên và tràn vào chiếm các giao thông hào mạnh như cơn nước lũ. Đồng chí chính trị viên đại đội cũng cầm súng cắm lưỡi lê và hô to:

“Tất cả các Đảng viên Cộng sản theo tôi tiến lên!”

Tất cả những người còn lại nhảy vọt ra khỏi giao thông hào, cản địch. Lâm Uý xông vào quân giặc dùng lưỡi lê đâm ngã một lúc 3 tên Spahis cao lớn. Mũi lưỡi lê quằn đi và tưởng như làm bằng thép đỏ.

Ta với quân địch quấn chặt lấy nhau, bụi bay mù trời. Súng trường súng máy đều mất hết hiệu quả. Chỉ còn lưỡi lê, tinh thần và quả đấm là giá trị. Cây cối, bờ rào gẫy răng rắc. Tiếng chửi, tiếng hét, tiếng lưỡi lê cắm vào ngực, tiếng báng súng khô khan choảng vào sọ dừa, lẫn lộn, nhào nhào, rùng rợn.

Ta và địch dồn nhau ra cạnh bờ sông. Trong đám hỗn loạn mịt mù bụi cát đó, Lâm Uý vẫn xông xáo như một con hổ, càng đánh càng hăng. Cả tiểu đội hy sinh gần hết, còn lại một mình anh với một lưỡi lê nhưng anh vẫn không hề nao núng:

“Chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, tìm đủ mọi cách để tiêu diệt địch”, ý nghĩ này đã biến thành một chân lý chiến đấu sắt đá, vĩnh viễn chiếu sáng trong tâm hồn Lâm Uý.

Một tên Spahis, dùng tất cả sức lực từ xa nhảy đến đâm một nhát lê vào lưng anh. Lâm Uý tạt ngang tránh khỏi. Thẳng giặc mất đà ngã sấp xuống vồng khoai. Anh chồm lên đâm nó một nhát xuyên từ lưng qua ngực, mũi lưỡi lê cắm sâu vào đất. Thằng giặc chết dán người vào luống khoai như bị đóng đanh. Lâm Uý chưa kịp rút lê thì thằng giặc thứ hai nhảy đến, anh bỏ lưỡi lê ra, ôm thằng giặc vật. Thằng giặc cao hơn anh một cái đầu. Anh vừa vật vừa bóp dái, lăn lộn làm nát cả một đám vừng bằng hai cái nia.

Vừa lúc đó một bọn giặc khác chạy đến cứu bạn nó. Nhưng chưa đến kịp thì anh đã cắn vào cổ nó, thằng giặc rú lên, giẫy dụa, và anh dùng hết sức lực còn lại, ôm chặt nó lăn xuống sông. Bờ sông dốc tuột, thằng giặc không thể nào cưỡng lại được, cả hai lăn tròn như quả bóng, chìm sâu xuống nước. Nước toé lên bờ, toả ra thành từng vòng tròn, rồi liền lại như cũ. Giòng sông Xuân Bồ xanh ngắt trong nắng chiều và lấp loáng một vài vệt máu.

Đến 4 giờ chiều, bộ đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn tiểu đoàn Spahis thứ sáu bằng lưỡi lê, quả đấm, răng và móng tay…

Làng Xuân Bồ đã thành một nghĩa địa lớn chôn sâu 15 năm tội ác của một đội quân từng làm hãnh diện đế quốc xâm lược Pháp.

Quân đội nhân dân Việt nam anh hùng đã trả được mối thù lớn lao cho các đồng chí và nhân dân các dân tộc nô lệ anh em.


3 hôm sau, nhân dân Xuân Bồ đã vớt được xác của Lâm Uý lên, nói là vớt được 2 xác thì đúng hơn vì khi xác anh nổi lên thì hai tay anh vẫn ôm ghì xác thằng giặc. Đồng bào ruột đau như cắt, phải bẻ gãy cánh tay anh mới tháo được xác thằng giặc ra. Một cụ già thấy sau túi quần anh cồn cộn, liền lục ra, thấy 1 cái túi vải con ở một góc có thêu con chim đang bay bằng chỉ xanh. Không rõ là chim gì nhưng đoán được người thêu tuy cẩn thận mà vụng về.

Mở túi thấy có 1 cuốn sổ tay, nước thấm ướt mèm nhưng chữ vẫn còn đọc được. Trong sổ tay có một tờ giới thiệu sinh hoạt Đảng của chi bộ Cộng sản đại đội II: Trong giấy đề:

Lâm Uý, Đảng viên Cộng Sản chính thức.

Còn cuốn sổ tay ghi chép công tác, kiểm điểm hàng ngày của tiểu đội.

Còn một trang ở giữa sổ tay ghi 4 câu hò:

Yêu nhau chẳng quản núi cao
Cách sông bắc một con sào mà qua
Núi cao chi lắm Nết ơi
Che khuất mặt trời chẳng thấy người yêu.

Đó là 4 câu ca dao hôm hành quân về đồng bằng, Lâm Uý nhớ người yêu, làm cho quên đường.

Tất cả mọi người im lặng cúi đầu mặc niệm người anh hùng dũng cảm tuyệt vời và say đắm tình yêu.

Giữa lúc đó bỗng một tiếng khóc bật to lên, đó là bà mẹ già chủ nhà tiểu đội Lâm Uý đóng quân hôm trước ở bên kia làng Uẩn áo. Mẹ lấy vạt áo lau nước mắt đang chảy chan hoà trên gò má nấc nở kể:

“Mới hôm kia anh còn bưng từng thúng lúa có đầy ngọn đổ ra sân phơi cho tôi, lúc đi đánh giặc anh còn cầm tay tôi mà nói: mẹ cứ để thóc ở sân, chúng con đi đánh giặc xong lại trở về phơi thóc cho mẹ, thế mà giờ đã…”

Tất cả mọi người không nén nổi nữa, oà lên khóc theo…

(Trích 1 đoạn trong truyện dài anh hùng Lâm Uý)

(Trang 26-32)


*




[1]Cụ già chèo đò này hiện nay còn sống, đã được chính phủ tặng huân chương kháng chiến.
[2]Thơ “Đêm liên hoan” của Hoàng Cầm, một thời kỳ chiến sĩ Bình Trị Thiên ai cũng thuộc
Nguồn: Giai phẩm mùa Thu tập III - Vá»›i sá»± cá»™ng tác của Đào Duy Anh, Bùi Quang Đoài, Mai Hạnh, Phan Khôi, Chu Ngọc, Phùng Quán, TrÆ°Æ¡ng Tá»­u, Nguyá»…n Mạnh Tường. Bìa của Sỹ Ngọc. In tại nhà in Minh Đức. Bản khắc của Tiến Mỹ. Minh Đức xuất bản. In tại nhà in Xuân Thu 89, Nguyá»…n Thái Học, Hà Ná»™i. In 3200 cuốn. Khổ 16x24. 68 trang. Hoàn thành ngày 30-10-1956. Số xuất bản 51. Số nhà in 330. Ná»™p lÆ°u chiểu ngày 5–11–1956. Bản Ä‘iện tá»­ do talawas thá»±c hiện.