© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
6.4.2007
Hoàng Cầm
Về Kinh Bắc (1959-1960)
 1   2   3 
 
Nhịp bốn - Rồi cùng đi tất cả

Những cuộc dọn nhà
tuần du trang sử rách


Trai đời Trần

Các con trai đi cả
Nợ nước xoá ơn vua

Một đứa cắn đứt dây buồm
thuyền giặc đang xô bờ Hàm Tử

Một đứa theo lốt chân hươu chạy
xục bóng thù gãy nát rừng Tuyên

Một đứa cưỡi cá voi quá đảo Cô Tô
lùng mạch sóng đoạt lương
nghìn hộc thóc

Một đứa ngâm thơ đàn gảy Vũ Hầu
Hổ báo cúp đuôi lè lưỡi máu
lê thê từng vệt đến Yên Kinh

Riêng một đứa gánh đôi bồ xiêm áo
tìm ẩn nẻo Chí Linh
gặp mũi tên lạc gió
chết trong xó núi
vợ không kịp chôn chồng
lại lõng thõng đôi bồ chạy giạt

Còn đứa cuối cùng mười bốn tuổi
gói rau xam rau má
ruộng nhà chấm muối
Côn Võ Tòng thẳng tới miệng beo gầm


Gái Hậu Lê

Dây lạc tiên vắt qua tường đổ
đuôi cằn nắng xế ngựa lưu ly

Sợi tóc ba nghìn dặm
Ôi giải xiêm đào ngày tuyển lựa hoàng phi

Một nắm cơm khô rạn túi gương tàu
dùng dắng bẻ đôi chiều nắng quái

Sét đánh phía kinh kỳ
biến mất Vọng Tiên lâu

Qua núi Tam Tầng nghe tiếng hát
cô gái điên
ôm xác chồng
lội đồng chiêm

Đàn quạ khoang mang vệt bóng trăng thừa
ném xuống cầu em cởi áo chiều xưaH

Hoàng phi bện dây đay chằng lụa thủng
Từng đêm vuốt bụng
nổi vết bào thai
Khóc âm y trước lúc ra đời


Đứa trẻ

Mẹ đắp vai con mảnh chăn rách
Bụi dứa dại đầu bờ rẽ lối
Thôi con về ở với cha

Con về
giấu giếm những bàn tay
nâng vú
so đũa
lau mắt
phơi dây áo thềm sân

Bố chặt cây sung cây khế
cắm mía mía không lên
nắng bừng lùm ớt chỉ thiên
ai trồng mà mọc

Đến một ngày nhà đông khách
khen con ngoan
(... con ngoan !)
Kiến mở cờ trên mẹt đường phên
Gấc đỏ mặt ngoài vườn
Gặt non nếp dự

Con trẻ tung tăng nhà đám
nấp chân cây rơm
dùi xe điếu
trợn mắt
thổi căng tròn bong bóng lợn

Cười nô ngoài ngõ
nhận chị nhận em
nhận thêm chú bác ông bà
những người đâu ta
(...đâu xa...)

Thoáng đã chiều hôm thảng thốt
Lạnh so vai
dựa cột
Cầm ủ ấm ấp hai con mắt
Hơi mẹ ơ hờ chỏm tóc tơ

Đêm được nằm mẹ gối đầu tay
Tiếng ai rả rích chuyện gì khuya
chợt tỉnh
... mắt dùi bóng tối

... À...ơi...
Câu ru mẹ mới
Có bàn tay vỗ tóc...
... ngủ đi con

Con tìm những thứ được rồi đây
Áo bông đón rét có
Áo lụa sang hè có
Mẹ mới may
Ướm áo tìm đâu

Gọi mẹ bao giờ mẹ cũng thưa
Giọng bưởi đường
Không thấy tiếng
Cha dấm dúi cho con
đồng xèng mua kẹo
đồng xu bánh dẻo

Tìm trong lá bánh thấy gì
Mắt mẹ ơ hờ thoảng bóng mi

Con nghịch cha không mắng
Mẹ gọi về chia miếng bánh đa
Ngày tha hồ đánh khăng đánh đáo
Tối về lăn lóc ngủ
nói mê
chim gì bay

Con tắm ao lội ngòi
tồng ngồng đi tìm hoa dại
không chết đuối không ai hay
Không lạc nhà
mẹ vẫn phần cơm đây

Có hôm cả nhà sắm sanh áo mới
đi cỗ giỗ bên sông
Có giỗ bên sông chừng mưa xa
phập phồng bong bóng
con ở lại coi nhà

Mẹ đã vuốt mép trầu giục giã
Hạ cổng chống rồi
Cánh sẻ chợt bay vù mái bếp
Ngồi giữa sân xua xua đàn kiến chỉ
kéo đông ngòm ăn giỗ mẹt khoai lang

Mẹ ơi
Mẹ ơi
Con không mong giời mưa
(mưa không thả được diều)
bây giờ mẹ ở đâu

Đêm khoanh tròn ngủ tay bưng đầu
Ngón cụt thói quen rờ ngực yếm
ghì mảnh sành thia lia


Người không về

Én bay đi không hướng tìm xuân
Lá ngọt hết rồi
cỏ chát cứ [1] phân vân
muốn nuôi người còn sợ đau dạ người

Rêu xoá vết chân bạn cũ
Chè tươi cáu miệng bát đàn

Về ngóng tiếng em thơ
bé dại đi rồi
sân lặng

Về ngóng cô nàng xưa cắn chắt
cười lia dăm hạt cốm
Giờ đã nằm sương giậu lả tầm xuân
Răng nghiến [2] chặt nắm cỏ gà phơ phất ngọn

Ngựa trạm hí ngoài dinh hiệp lộ

Gài lá thư nổi nênh cửa Thần Phù sập bão
gửi đến miệng em theo cánh én thuỷ triều
Gió lật trang thư lầm cát đỏ đường quê

Mình ơi
"Anh đi lúa chửa chia vè..."


Đi xa

Nắng gấm Ba Vì phủ khắp Lục Đầu giang
Mồ hôi đá Tam Thanh gói lụa sông Hồng
Mắt sư nữ chùa Thầy
thoắt mang màu xanh xứ Lạng
Tay búp măng người yểu điệu Thăng Long
nâng một dãy Cai Kinh chạy tắp đến Cao Bằng

Vạt áo chàm vòng bạc
sương muối đầu năm
Nùng Văn Vân gọi trâu Tây Hồ thức giấc
đi gõ mõ Hưng Yên
rủ Chử Đồng lên Đồng Đăng ngả gỗ

"Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa"...
Hỡi ơi Tô Thị
bế con về quê xưa

Rồi vào xuân mọi ngả
Núi xuân nghiêng đầu
Sông xuân vừa chợp mắt
đã gọi đò Tú Xương
canh tư canh năm
sang bên này tát nước ruộng Xuân Hương


Đi mãi

Đã đi cả
Những củ khoai mọc mậm góc nhà
Hạt vải gậm giường
phát du từ mùa tu hú trước

Những chùm tóc ngô nâu gác bếp
Khói vỗ về luống đợi lửa rang

Những hạt đậu xanh già nắng
óng mùa thơm
trút nhanh tuổi trẻ miệng vò

Những bồ thóc tám
đong từng đấu nắng ngập ngừng xay

Vợi hết mùa đông rụi lửa
Những khúc sắn lùi vàng đọng
màu da suối cạn Võ Nhai

Đã đi cả
Cơi trầu chạm ngõ
cau tứ thì long hạt thâm quầng
Vại cà váng mốc
bàn tay khua xạm nhẫn trao duyên

Nồi cám lợn kê vàng khê khét
Mắt bần thần tơ mơ dựng rạp

Cối giã treo dây chão nát
tay nhầm nắm phải bàn tay

Cối xay đay tiếng than dài
xoáy thân ốc vặn

Đã đi cả
Đường kiến chân rêu có nghe dế gọi
hẳn là con dế đầu si

Ong rưng rưng bay đứng nắng mai
hoa mướp rơi đầy cổng ngõ

Tổ chích choè cây mít
tiếng chân truyền kẽ lá phân vân

Triền miên đêm hè
diều sáo lửng lơ
tiếng nói xa xưa
cùng ai chẳng nói
Đã đi rồi

Những cuộc dọn nhà
tuần du trang sử rách

vương quên mái tóc
sợi tơ trời
óng ánh mạng sương thu



*


Nhịp năm - Còn em

Cỏ Bồng thi phải cheo leo mỏm đá

Cây Tam cúc

Cỗ bài tam cúc mép cong cong
Rút trộm rơm nhà đi trải ổ
Chị gọi đôi cây
trầu cay má đỏ
kết xe hồng đưa Chị đến quê Em

Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm
Em đừng lớn nữa Chị đừng đi
Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa
Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì

Đứa được
chinh chuyền xủng xoẻng
Đứa thua
đáo gỡ ngoài thềm
Em đi đêm tướng điều sĩ đỏ
đổi xe hồng đưa Chị đến quê Em

Năm sau giặc giã
Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ
thả tịnh vàng cưới Chị
võng mây trôi

Em đứng nhìn theo Em gọi đôi [3]


Lá Diêu bông

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ

Chị bảo
Đứa nào tìm được lá Diêu bông
từ nay ta gọi là chồng

Hai ngày Em tìm thấy lá
Chị chau mày
đâu phải lá Diêu bông

Mùa đông sau Em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông

Ngày cưới Chị
Em tìm thấy lá
Chị cười
xe chỉ ấm trôn kim

Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xoè tay phủ mặt Chị không nhìn

Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời...
...ới Diêu bông...!


Quả vườn ổi

Nằm trên bãi cát thư tâm
Sông nước sinh thuyền Em đẩy tới
Có gió có buồm có dòng có lái
Trách gì ai xô giạt đến bờ hoang

Em mười hai tuổi tìm theo Chị
Qua cầu bà Sấm bến cô Mưa
Đi...
Ngày tháng lụi tìm không thấy
Giải yếm lòng chai mải phất cờ

Cách nhau ba bước vào vườn ổi
Chị xoạc cành ngang
Em gốc cây
- Xin Chị một quả chín
- Quả chín quá tầm tay
- Xin Chị một quả ương
- Quả ương chim khoét thủng

Lẽo đẽo Em đi vườn mai sau
cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng


Cỏ Bồng thi

Chị đưa Em đến bến này
cheo leo mỏm đá

Trước vực
Sau khe
Thòng lọng tơ gì quấn gót
Tua khăn buông còn buộc búp hoa lan

Ù ù gió thổi
Em vọng ai đâu mà hoá đá

Không trói mà không đi
không canh gà
không thu không
Mắt không mở
đừng khép
Kìa dây muống dại kín Em rồi

Lắc đầu hoa tím rụng
ngó rừng xanh Em hỏi ngọn nguồn
Biết rồi
Thôi
nghe hoa tím hát

Ngày mười bảy tuổi
chót chơi đố cỏ Bồng thi
Cỏ Bồng thi phải cheo leo mỏm đá

Ù ù gió thổi
Không canh gà
Không thu không


Nước sông Thương

Em vắt quả cam vàng đầu ngọn sông Thương
Mắt tròn cối xay
có bao giờ ngủ trước sao Mai

Ngày Chị bảo Em quên
Tranh tố nữ long hồ gián nhấm
mất chân đi
má đội tổ tò vò
Cuốn chiếu xa rồi
thơ thẩn vách chiêm bao

Ngày Chị bảo Em quên
Con bạc má lại về cành chanh
thương Em hay giận Em chả biết

Ngày Chị bảo Em quên
Tắm sông Thương không mát
Lên ngọn Kỳ Cùng té nước trao duyên
không mát
Về đuôi mắt xưa treo suối Cam Lồ
không mát
Ngày Chị bảo Em quên
Em tơ tưởng sao bắt Em đừng nhớ

Tha cho Em
Tha Em
"Sông Thương nước chảy đôi dòng..."

Hết năm phương
Em nhìn năm hướng
Là mười phương
Chị biết CÒN EM


Tắm đêm

Em gánh gạo về dinh phú hộ
Nứt vai thành sẹo lá lan đao

Em chở nứa sang bờ duyên phận
Tay đóng bè chân xuôi thác ghềnh
Tuổi đã rách vá gì cho kịp
Da mỡ đông tuốt sẹo ngang thân

Tung toé dội gầu trăng nước giếng
mát lùa kẽ tóc
Còn bủn rủn sẹo ngang sẹo dọc
Vắt áo nghe thầm tiếng vải kêu

Dòng dây vục mãi đêm hồ tinh
Ấp vú mình trần con dế trũi

Cành tre trải áo nép thân hình
Phấn mùa trăng thoa mờ sẹo tuổi

Ai rình Em
Ai ngó Em
Chợt rùng mình níu đêm trần trụi
Gai đâm xiên mười ngón ân tình


Đếm sao

Mài cạnh mảnh gương mới vỡ
đến bao giờ tròn
Đừng cứa tay mình câu hát ơi

Một tiếng buông khoan giữa nhịp
vì chơi với điệu lúc tàn trăng
Ai ngờ để lòng Em muối đổ
Đông đoài đuổi mãi sao Hôm

Một thoáng gật đầu
Giữa trời gãy cánh
Nửa mắt nhìn chênh
Giếng cạn mùa mưa

Một ông sao sáng
Hai ông sáng sao
...........................

Đếm chưa xong Em chớ gật đầu

Câu hát theo người leo ngọn thác


Đếm nắng

Sơn ca chắt nắng
Chuỗi trân châu trút xuống mâm vàng

Tiếng gì dưới ấy
có phải tiếng vang

Tìm tiếng vang mình
Chui vào cửa hẹp
cửa khép

Trách gì ai sáo trúc gây mê
Trách gì ai cặm cụi vót tre
đan lồng vàng tía
ngỡ trời mây trăm sắc ước ao

Chị bỏ Em đi
Cánh nhẹ trên sông
Chiếc lá mơ rừng
hát lừng ngọn gió
khóc đỏ chiều quê

Nhớ về mắt Em
ới thương là thương

Động gót mưa xuân
cưới mặt trời hè
Ới thương là thương
Gà con nhớ mẹ
cỏ vàng rung chân
Ới thương là thương


Đếm giờ

May cho Em tấm áo sồi non
Làng không mở hội
Cất cho Em hương quế nước trầm
thẫm đường má răn

Chim vàng phải tên dưới bụng
giận mình bay quá cao
Bướm ngũ sắc rã rời tay trẻ xé
trách mình quá lộng nắng tàn xuân

Trốn tiếng Chị cười
Nấp mắt Em trông
Trèo ngọn núi Neo đá chởm tai mèo
mát chân rời rợi

Đừng ví thân Em hạt gạo tám xoan
Đừng vẽ hình Em hoa đào hoa lý
Đừng hát tình Em sóng vỗ mưa về
Đừng tạc mặt Em lệch mái thuỳ cung

Đợi sau khi Em qua đời
Sẻ đồng thành phượng núi

Cây đa đường xứ
lớn lên ai hay
Vẫn cơn gió cũ
bao nhiêu chiều vụn đá

Mắt nắng thay mùa mở lộc non


Theo đuổi

Em ơi thử đếm mấy giêng hai
Đêm hội Lim về
đê quai rảo bước
Đuổi tà lụa nhạt
ánh giăng đầm thấm đường sương

Ấy bởi thương Em
vườn khô bỏ ngỏ
gió vào ra bưởi trụi hồng thui
ấy bởi thương Em
mái nhà um cỏ
chim vào ra vách đứng cột ngồi

Em về đồng chiêm đất rạn chân chim
Em đi mưa ngâu nước ngập đồi chè
Hồ nghe đêm hội ới a
lại xót mắt Em mi trường khép bóng
Lòng tay êm mát rừng tơ xa
Lại xót tay Em đêm trường ru võng
Rừng chân mây chưa động sấm quê nhà

Chân Em dài đi không biết mỏi
Má hồng Em lại nổi
đồng mùa nước lụt mông mênh
Lưng thon thon cắm sào Em đợi
Đào giếng sâu rồi
đừng lấp vội ngày xanh

Lý lý ơi khát khô cháy giọng
Tình tình ơi chớ động mành thưa

Chìa vôi quệt gió hững hờ
Bờ ao sáo tắm bao giờ...
... hở Em



*


Nhịp sáu - Điểm trang

Những Hội hè Kinh Bắc

Những hội hè Kinh Bắc
có thi nhau giật giải pháo toàn hồng


Thi sợi bún

Thi sợi bún
khi quất
quấn năm vòng cột đình
không đứt

Giã bột mười đêm
Pháo nổ không nâng hai hàng mi mọng
Mai về vỡ vại long chầy
đứt quãng hoa niên

Mai về lại dựng giường dựng chiếu
lúc dựng giăng
Tóc quấn cột nhà
Con trăn đen thoi thóp

Ơi đêm Đông Hồ
nát nhầu thân tố nữ
Sợi bún ngà vá lại dung nhan


Thi ăn mía thổi cơm

Thi ăn mía thổi cơm
Bụng đâu chứa hết những bãi sông xanh ngắt
Lửa đâu xém cánh tay bột nặn
Cháy phù sa ngọt sắc Yên Viên

Cơm vừa chín tới
Má xuân hồng
lồng khói tím
lịm [4] sang thu

Bãi mía sông Cầu reo đáy bát
Ngửa mặt hứng mưa đồi cỏ ngát
Nguôi dần cơn sốt bỏng môi hoa


Thi đánh đu

Luồn tay ôm say
giấc bay lay đỉnh núi
Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành
Đùi chảy búp dài thon nhún vội
Bàng hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh


Thi hát đúm

Chiếc pháo xì loay hoay
thềm gạch vỡ Bát Tràng
Chuỗi pháo đùng thèm bay
bùng giấy đỏ liều thân
Lụa xé đôi tay
bến nhức gan tằm

Người bỏ chồng vào thi hát đúm [5]
chệnh choạng lối mưa
nón quai thao úp bụng

Người chồng bỏ cũng thi hát đúm
gót chân bùn ngõ tối
tuổi lội
lầy đường mới sống trâu [6]

Trăng khuya các bờ sông
Chụm sao mai soi hai mái đầu [7]


Thi dệt vải

Lòng Em phau phau
tìm đâu mấu sợi
Một tấm trường giang
đèn rọi võ vàng
Thoi chim khách đếm năm đi vút
Vải gột hồ hai má gột môi hoang


Thi thêu gấm

Từ thuở bé biết đâu
chim uyên chim thuý
Kim se dây mà rẽ thuý chia uyên

Một mái rạ vàng ấm Châu Long Dương Lễ
Ngơ ngẩn đường khâu áo lạnh Lưu Bình

Ai luồn kim giải áo dở dang mơ [8]
Chàng Lưu ứa nước mắt
bước ra thềm hong mưa


Hội chen Nga Hoàng

Chen Nga Hoàng
len chèn nguyệt tận
Phụt nửa đêm đèn nến lặn
Ba hồi trống giãi dầm dề
lim dim bao dong ba nghìn mắt Phật

Tóc tung tình bờ xôi ruộng mật
Quanh co toả bốn hướng đình
Từng ngôi sao mắt người lung linh
Ai gọi... im lìm
Í ới... sao chìm
Đôi đôi ú tim... tìm
Oà ập... cánh chim... e ấp

Hỗn mang mê vô cùng
Địa đàng say tới tấp
Không giờ không
Thăm thẳm nguyện cầu hơi em nồng

Nhẩn nha thôi
Ôi dùi nhẹ buông tênh... tang vờ câm
Ai nện xin thương ngầm
gõ hờ đôi ba tiếng cuối buồn vang âm
Vì tay ải tay ai
chưa nguôi tê mê thầm

Chợt bừng nghìn cây nến đỏ
như sững sờ nghìn tội
biết lội về đâu
cho qua cơn thịnh nộ sầu
cụ Tiên chỉ già tuổi tình cạn kiệt
tóc héo bưng đầu
lùi lũi tiếc thời xa
khua gậy cùn rập mấy thời sau
Tơ xanh ngây ngây đêm sông Cầu
Em anh giờ lẩn trốn bụi bờ đâu

Thì trói cả đôi
Xin trói cả đời
Cột lim ư gãy rồi
Giường nhung ừ sóng đôi

Sân đình
lại Thị Mầu í a tung tình
rung rinh
chờ [9]


Hội Gióng

Mùng Tám tháng Tư
Không về hội Gióng
cũng hư mất đời
(Ca dao)

Trăm đôi gái trai anh tú
Ngựa lồng bãi rộng
Gươm thần phun lửa đốt môi

Chú bé lên ba là tướng võ nhà Giời
Ai ngờ đã bốn nghìn năm manh mối
Xuân đến lụa the
Cầm gậy tre đi se duyên cô Tấm ông Hoàng
Vớt Trương Chi về gấm đỏ lầu Tây


Hội Long Khám

Hội Long Khám đêm sao chi chít
Bồ đề mở lá thả ni cô

Thiện nam vin khói đi quanh chùa
Mơ Từ Thức
gặp ngay quan huyện khác [10]

Mẫu đơn một nhành rơi
Ngọc lan mười búp chắp
Nến tắt sao không tắt
Giải Ngân hà giải chiếu nâng hoa

Hội vãn rồi quan huyện về nhà
Quan-huyện-khác lại làm Từ Thức

Ni cô ơi


Hội Vân Hà

Lợn ba trăm cân
kềnh xuân lún ngõ

Khói bếp lun phun mưa
Mép chàng trai lún phún đương thì

Tết Vân Hà làng mở hội thi
Núc ních từng đôi chật đường nghẽn lối

Cỗ ba tầng
Giò lụa nổi
Giò mỡ chìm
Nem bối rối
Lá sung bay rụng đầy nong

Vại bỗng ngất ngư cười cải mả
Bát bỗng lim dim
tìm mắt gái muộn chồng
Sân một sào xôn xao
sồi lụa thưởng [11]
Mười lợn thi đi chật cổng đình cong

Đêm phường chèo trống giục
vùi lấp nồi niêu [12]
Hồi tiếu cùng eng éc
Khúc giáo đầu bi tráng lợn nhà kêu
Ba ngày tiếng dao phay liếc nhanh thành vại
Ba đêm chim lợn toác sương gieo

Chai đại lăn kềnh giữa chiếu
Chai bố chéo khoeo
vật vã góc ban thờ

Chai con gậm giường rụt cổ
Tuý luý mềm soải tóc khóc ngu ngơ

Hội tàn men
quẩn quanh nghiêng ngửa
Giật yếm đào túm vội đôi bầu
Bỗng đốp chát mắt đom đóm nổ
Mịt mù hơi rượu miếu cô Mau.


Hội đền tám Vua triều Lý

Hội đền tám-Vua-triều-Lý
còn đau thớ gỗ phượng rồng
chen chúc khoảng trời thương nhớ
tạnh thời gian

Tám tượng ngồi mê tà khói mỏng
để thạch sùng vào bụng rỗng
chép miệng vàng son ngút khói tan

Đôi lính Chiêm Thành canh cửa Việt
Quê hương quê hương xa không về

Tù binh gửi máu vào tay chạm
Đứng cửa còn trông thấy đất Chàm
Bát đế ngoái nhìn trang sử ố
Nghìn năm sao chẳng tuyệt nòi tham [13]

Giá như tế lễ uy linh thế
Được tái sinh nhiều đấng minh quân
Hẳn Công Uẩn đã tâu Thượng đế
Treo trống hồn vua lắng tiếng dân [14]

Hỡi ơi Chiêu Thánh sao không nói
Người ta lo dựng nghiệp lâu dài
Ai lo việc cưới chồng công chúa mồ côi
Ví như không có Trần Thủ Độ
Mắt dại Vua Bà biết chọn ai
Quân cờ chí chát đêm Kinh Bắc
Mấy ngón tay tính nước vào ra
vân vê nhẵn nhụi cạnh ngà
tròn lăn cung cấm trẻ con chơi



[1]Bản của NXB Văn học năm 1994: "lá đắng lại phân vân"
[2]Bản VH 94: "Răng cắn chặt…"
[3]Dị bản: Còn có một câu kết khác (đã truyền tụng phổ biến): "Một chiếc xe đen đi chân trời". Tác giả phân vân. Xin tuỳ lòng bạn đọc.
[4]Bản Văn học 94: "Chợt sang thu"
[5]Bản VH 94: "Người bỏ chồng/ chệnh choạng đi lối mưa/ nón quai thao úp bụng"
[6]Bản VH 94: "Người chồng bỏ/ gót chân bùn ngõ tối/ tuổi lầy đường sống trâu"
[7]Bản VH 94: "Thường soi đôi mái đầu"
[8]Bản VH 94: "Dừng mũi kim giải áo buộc đêm mơ"
[9]Bản VH 94 ngắn hơn rất nhiều:
Chen Nga Hoàng hội chen nguyệt tận
Đúng nửa đêm đèn tắt
trong ba hồi trống dầm dề
Nhẩn nha thôi ôi tiếng cuối vang âm
Tay không rời tay người chưa nguôi tê mê thầm
Chợt bừng nghìn cây nến đỏ
Sững sờ nghìn tội nắm tay đau
Thì trói cả đôi
Xin trói cả đời
Cột lim gãy rồi
Giường nhung sóng đôi
[10]Bản VH 94: "thấy ngay quan huyện khác"
[11]Bản VH 94: "vàng lụa thưởng"
[12]Bản VH 94: "vùi lấp điệu nồi niêu"
[13]Bản VH 94: "Bát đế tù binh trong sử xanh/ Khép gió chân trời ngồi lặng tênh"
[14]Bản VH 94 không có bốn câu trên

Nguồn: Văn bản sá»­ dụng cho tập Hoàng Cầm-Tác phẩm-ThÆ¡ do NXB Há»™i Nhà văn và Trung tâm Văn hoá và Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản năm 2002. Những chá»— khảo dị trong phần chú thích của talawas dá»±a trên đối chiếu vá»›i bản Về Kinh Bắc của NXB Văn học 1994.