Lê Tuấn Huy – Bát Nhã và sự tự do hành đạo
06/10/2009 | 3:27 chiều | 50 Comments
Category: Chính trị - Xã hội, Tôn giáo
Thẻ: Vụ Bát Nhã
Việc Thiền sư Thích Nhất Hạnh lần đầu tiên lên tiếng về sự việc Bát Nhã, bằng bút danh học thuật, cho thấy sự vụ nay khó tránh khỏi sự mở rộng của nó. Rồi đây, lịch sử Phật giáo Việt Nam sẽ khó mà không ghi thành văn sự kiện ngày 27/09/2009 cùng hai thư “kêu cứu” của Nguyễn Lang – người viết sử “đạo Bụt” trên xứ sở hình chữ S.
Trên bề mặt, phía chính quyền dường như vô can trước các diễn biến bạo hành, vì những người có trách nhiệm xem đây là chuyện nội bộ tại Bát Nhã, và họ chỉ làm công việc an ninh trật tự. Lý lẽ có thể thế này: nếu thầy Thích Đức Nghi nhận tiền từ Làng Mai để tạo dựng cơ sở mới của Bát Nhã mà nay lại đuổi người để giành trọn, thì đó là một tranh chấp dân sự, và đương sự hai bên có thể khởi kiện để được giải quyết; còn phía chính quyền – mà cụ thể là lực lượng công an, cảnh sát – chỉ làm đúng chức trách, là áp dụng các biện pháp nghiệp vụ để chấm dứt tình trạng cư trú bất hợp pháp tại địa phương đối với những người không được chủ hộ cho phép tạm trú.
Thế nhưng, trên thực tế, dù có biện hộ “hợp lý” như thế nào bằng câu chữ pháp lý, thì hình ảnh của những lần bạo hành tại Bát Nhã, được xác thực bằng chính tường thuật của các tu sĩ, tu sinh tại đây, khiến người ta không khỏi bị sốc và có nhận định khác đi.
Chuỗi sự việc xảy ra tại Bát Nhã, mà đỉnh điểm là ngày 27/09 đó, là biểu hiện cao độ của sự thoái hóa đạo đức, đến mức mà ở một đất nước có truyền thống sùng kính và hiếu lễ đối với nhà Phật, lại xảy ra chuyện chưa từng có, là dùng đến sự bạo hành thô tục nhất để cưỡng bách cả một làng tăng, tống họ ra khỏi chốn tu đạo, ngay trong một ngày dầm dề mưa gió, khi cơn bão dữ đang đến. Nó cũng là biểu hiện của sự thoái hóa chính trị, đến mức mà một trong những chức năng nền tảng của nhà nước, là cung ứng sự bảo an đối ngoại và đối nội cho dân chúng cứ ngày một “mai một” đi, để rồi đến lúc chính nó lại xâm hại đến thành phần được xem như hướng thiện nhất trong xã hội, là giới tu hành. Và bên cạnh đó, nó cũng bộc lộ một số vấn đề về sự tự do hành đạo.
Phải thừa nhận rằng dù vẫn cần nhiều thay đổi tích cực hơn, trong những năm gần đây, tự do tôn giáo ở Việt Nam đã có tiến bộ, cả trong nhận thức lẫn thực tế, mà việc tăng đoàn Làng Mai về nước và tăng thân Bát Nhã tu tập theo pháp môn này là một biểu hiện đáng quý. Vậy mà giờ đây, với cái cớ là các tăng sĩ và tăng sinh này không còn được bảo lãnh cư trú, giới thẩm quyền (nào đó) quyết trục họ ra đường, thì liệu có chính trực?
Cần thấy rằng quy định tạm trú tạm vắng làm nền cho việc tống xuất tăng thân Bát Nhã là cái gắn liền với hộ khẩu, vốn đã là một định chế vi hiến, vì thực chất nó lật ngược lại quyền tự do cư trú. Đã lâu, trước cả khi Thượng Hải bỏ hộ khẩu, giới cải cách Việt Nam đã đề xuất chính điều này nhưng không kết quả. Dù công dân và giới chức vẫn phải tuân theo sự vi hiến này chừng nào nó còn chưa bị bãi bỏ, nhưng một khi đã nhận ra tính sai phạm đó mà vẫn cố tình dùng nó như công cụ chí mạng để thực hiện những hành động trái đạo lý, thì không thể lấy gì để biện minh.
Thực chất, tăng đoàn hay tăng thân cũng chỉ là một tập hợp công dân đang thực hành đạo giáo, có tổ chức và có hệ thống, tập trung hay không tập trung. Nhưng, chính cái vế “đang thực hành…” đã đem lại cho tập hợp này và từng thành viên của nó một chỗ đứng riêng so với công dân thế tục. Và điều đó cũng có nghĩa là cần có lối hành xử riêng, thích hợp với giáo quy của họ một khi quy phạm đó không xâm hại đến lợi ích của công dân và xã hội, chứ không thể nhất nhất áp tuyệt đối các quy định thế tục lên trên họ.
Ai cũng rõ, một trong những đặc trưng của tăng sĩ và tăng sinh Phật giáo là đời sống xuất gia và tu tập. Từ bao đời nay, đặc trưng này không hề xâm hại đến lợi ích của công dân và đời sống thế tục. Nay cũng thế. Nên, dù xuất phát từ bất kỳ chính sách nào, với bất cứ động cơ và lý do gì mà hành xử với họ trái với đặc trưng đó, đều là sự áp đặt độc đoán và hạn chế khắc nghiệt đối với việc hành đạo.
Việc buộc tăng thân ra khỏi Bát Nhã và nay tạo áp lực để họ phải rời khỏi Phước Huệ, về lại địa phương có hộ khẩu hoặc tự viện thường trú ban đầu thực chất chính là việc cưỡng bức hồi gia và dứt pháp. Đối với tăng sinh, điều này quá rõ. Về phần tăng sĩ, dù có được “đưa” về chùa cũ để tiếp tục tu hành, nhưng một khi phải rời bỏ pháp môn mà họ có duyên, đó chẳng khác là mấy với việc thoái pháp.
Vài so sánh bình dị thôi cũng đã thấy sự vô lý đến kỳ lạ ở việc tăng thân Bát Nhã phải thoái tu. Tại sao sinh viên có thể lựa chọn cho mình ngành học mà tu sinh lại không thể tự chọn cho mình pháp môn? Tại sao người học chữ có thể tùy chọn một trung tâm học vấn (theo nghĩa một địa phương có nhiều cơ sở giáo dục tốt) để đến và học hành, mà người học đạo lại không thể tự chọn một trung tâm Phật học để đến và tu tập? Tại sao người lao động có thể đến một địa phương khác để hành nghề mà người tu hành lại không thể đến địa phương khác để hành đạo? v.v…
Như vậy, dù tăng sinh hay tăng sĩ Bát Nhã có được “tạo điều kiện” tại bản quán hay bản tự, thì cả ý nguyện tục thế lẫn ý nguyện đạo pháp của họ cũng đã bị áp đặt một cách cố định, và là sự hạn chế phi lí và phi pháp đối với quyền tự do hành đạo.
Nếu có những tính toán nay được nâng lên thành quyết sách, rằng chỉ để Làng Mai phát triển ở ngoài nước nhằm “marketing” cho Việt nam và tô điểm cho chính sách tôn giáo của chính quyền, chứ không để họ tiếp tục phát triển trong nước vì có thể “đe dọa an ninh quốc gia”, thì e rằng sẽ phản tác dụng. Chủ trương hai mặt đó không những làm xấu đi hình ảnh của Việt Nam trước thế giới và Phật tử năm châu, trước cộng đồng người Việt hải ngoại, mà còn tạo nên một mầm mống phản kháng ngay chính trong lòng của Giáo hội Phật giáo mà chính quyền hỗ trợ.
© 2009 Lê Tuấn Huy
© 2009 talawas blog
Thưa bác Quang Tuấn!
Tôi cũng tự tay kiểm chứng. Và tôi thấy bên (tạm gọi) TKTT cũng chẳng có gì là khả tín hơn bên CA. Tôi xin dẫn chứng qua chính bài phỏng vấn TKTT của RFA:
1. Ngay lời dẫn: “Cuộc phỏng vấn được thực hiện ngay tại đồn công an Trung Phụng-Khâm Thiên nơi họ vẫn bị câu lưu từ tối hôm qua đến nay” đã gây nghi ngờ. Thứ nhất, đây không phải là cuộc phỏng vấn “được thực hiện ngay tại đồn công an”, mà đây là cuộc phỏng vấn được thực hiện qua Điện thoại. Mà qua điện thoại thì chỉ “nghe nói” chứ toàn “giấu mặt”.
2. Bà TKTT dùng lời lẽ đầy thù hận (chửi) khi sự việc còn chưa sáng tỏ: “… luôn luôn có một con CHÓ SĂN nó theo em. Hôm nay em ra Hải Phòng, NÓ cũng theo em tận đến Hưng Yên. Thế là nó báo với công an Hải Phòng. Đến khi em đến nơi, thì là NÓ vào tận xe nó kéo em xuống…”
Vậy những người khách quan có thể tin vào những lời lẽ của bà TKTT không?
Khi hai bên đang có mâu thuẫn, mà bên CA lại để cho bên TKTT thoải mái trả lời phỏng vấn của một trang tin nước ngoài như vậy thì những người khách quan có thể tin vào cái sự “không có tật không phải giật mình” của bên CA.
3. Chồng bà TKTT thì bảo bị hành hung lúc 8 giờ, bà TKTT thì bảo lúc 8 giờ rưỡi. Như vậy là bất nhất.
v.v…
Còn chuyện về bức hình mà nhiều người cho là “ngụy tạo” thì tôi cũng đã dùng các thủ thuật IT có thể để xác minh lại, nhưng kết quả thì vẫn hợp lý chứ không lạ tới mức tạo cảm giác rằng có sự ngụy tạo ở đây.
Nói như bác Vũ Quang Khải là ngờ nghệch. Vì hai lẽ: Thứ nhất, tôi nói về Phật tử nhưng xuất phát từ lời dạy của chính nhà Phật; còn bác thì nói về Cộng Sản nhưng lại xuất phát từ lời của tôi. Thứ hai, Cộng Sản không bao giờ tụ tập mà trái lại, Cộng Sản bám rễ vào quần chúng, gần dân.
Còn suốt 79 năm nay đã có rất rất nhiều thế lực hô hào chống Cộng như bác rồi, triển vọng chẳng thấy đâu. Cứ như thế thì 79 năm nữa vẫn vậy thôi.
Anh Dũng nói: “Cái mấu chốt nó ở chỗ này. Những nguồn tin xác tín đối với người bên ngoài là không có, mà toàn tin hỏa mù, bên này cáo buộc bên kia.”
Theo tin về vụ CA chụp mũ bà Trầ Khải Thanh Thủy (http://www.talawas.org/?p=11412), mà tôi đã tự tay kiểm chứng, thì bên Công An là bên kém tin cậy hơn hết. Họ hoàn toàn không có sự khả tín.
Anh Dũng nói tu sinh “không tụ tập được ở Bát Nhã chẳng gây nguy hại gì cho tu sinh làng Mai cả.”
Tôi nói: “Đảng CSVN không tụ tập được ở bất kỳ nơi nào trên trái đất này thì cũng chẳng gây nguy hại gì cho nhân dân VN cả. Thậm chí nếu Đảng CSVN biến mất thì còn tốt cho nhân dân VN hơn gấp vạn lần.”
Thưa bác Dương Danh Huy ( DDH ) !
“Nói như bác nói trên thì cũng có thể nói rằng theo lời dạy của Jesus, Paul thì cho tín đồ thiên chúa giáo vào đấu trường tụ tập với sư tử cũng chẳng nguy hại gì cho TCG.”
Tôi không biết bên Thiên Chúa giáo họ dạy những gì. Nhưng nếu đúng như bác nói thì cũng chẳng có gì là ghê gớm: siêu thoát, tử vì đạo, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, được về với Chúa,…cơ mà.
“Nếu có bạo lực và đe doạ bạo lực mà cảnh sát không làm gì thì rõ ràng là có vấn đề”
Cái mấu chốt nó ở chỗ này. Những nguồn tin xác tín đối với người bên ngoài là không có, mà toàn tin hỏa mù, bên này cáo buộc bên kia. Nếu chất lượng tin mà như chất lượng bài viết trên đây của ông Lê Tuấn Huy thì quả thật tai hại.
“Đoạn “they must observe the regulations of the Viet Nam Buddhist Sangha” có vẻ hơi mâu thuẫn với tuyên bố của chính quyền địa phương là không can thiệp vào nội bộ Phật giáo.”
Tôi thấy chẳng có gì là mâu thuẫn cả. Với tư cách là phật tử, sống theo đạo thì là việc NỘI BỘ; với tư cách là công dân, sống trong đời thì là việc liên quan tới chính quyền. Cũng như chính quyền không can thiệp vào chuyện tình cảm vợ chồng, nhưng nếu đã dẫn tới ly dị thì phải ra tòa án.