Nguyễn Mai Sơn – Nhà chùa quản lý người tu
14/10/2009 | 12:05 sáng | 19 Comments
Category: Chính trị - Xã hội, Tôn giáo
Thẻ: Chùa Phước Huệ > Vụ Bát Nhã
Ngay sau ngày phái đoàn của Đại sứ quán Mỹ đến làm việc về tình hình Bát Nhã với Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Lâm Đồng, tu viện Bát Nhã và chùa Phước Huệ ở thị xã Bảo Lộc, tôi và một số người bạn rủ nhau lên Bảo Lộc, nhằm hiểu rõ hơn về tình hình sinh hoạt của những tu sinh tu theo pháp môn Làng Mai sau khi bị trục xuất.
Xe chúng tôi theo con đường trải nhựa láng mượt dẫn tới khu du lịch Đamb’ri đến Tu viện Bát Nhã, nơi cách trung tâm thị xã Bảo Lộc chừng 15 cây số. Cảnh đẹp như tranh và không khí thật trong lành, đúng là một nơi lý tưởng để Tu viện Bát Nhã mở khoá tu bốn mùa dành cho những người đang muốn tạm dứt công việc bận rộn để tĩnh tu tại đây trong thời gian ngắn. Tôi được biết trước đây, khoá tu vào ngày thứ Bảy, Chủ nhật đầu mỗi tháng thu hút cả hàng ngàn người tham dự, nhiều trong số họ là thanh niên, sinh viên, doanh nhân.
Nghĩ đến đó, trong lòng càng mong đến nơi thật sớm để xem Bát Nhã bây giờ đã khác xưa như thế nào. Từ xa tôi đã có thể nhìn thấy Tu viện Bát Nhã cùng với những khu tăng xá ẩn hiện trong núi rừng. Nhà trẻ Hiểu và Thương hiện ra trước mắt chúng tôi nhưng không có một bóng người, cửa đóng im ắng. Được biết, năm 2006 có tới 25 nhà trẻ với 68 cô giáo trực tiếp chăm sóc cho hơn 1.000 trẻ, phần đông là con em của người dân thiểu số.

Tu viện Bát Nhã, chụp từ trong ra. Ảnh: Nguyễn Mai Sơn
Đúng 10 giờ 15 sáng, xe chúng tôi đến cổng Tu viện Bát Nhã. Cổng mở, không có bất cứ một sự cản trở nào từ phía những người trong chùa. Tôi nghĩ rằng, chắc mọi chuyện đã trở nên bình thường. Nhưng hôm nay là Chủ nhật (11/10) mà tu viện lại vô cùng vắng vẻ, gần như chẳng thấy bóng một Phật tử nào. Ngoài chiếc xe của chúng tôi là chiếc xe của Hãng phim Giải phóng thuộc Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch. Phía dưới nhà khách thấp thoáng vài người đàn ông. Chúng tôi bình tĩnh bước vào chánh điện trong con mắt dò xét của mấy người kia. Một chú tiểu thấy chúng tôi bước vào chánh điện thì vội vã đi ra. Đúng lúc ấy cơn mưa kéo tới làm cho cảnh vắng càng trở nên ảm đạm. Chúng tôi lễ Phật và đi ra phía trước ngắm quang cảnh trong mưa. Dù đã biết trước chuyện bất hạnh xảy ra với Tu viện Bát Nhã, nhưng chúng tôi không thể nào không trầm trồ trước cảnh đẹp nơi đây.
Nhìn một vài chiếc ghế đá kê không ngay ngắn, có cái đã gãy đổ, bên cạnh những tấm bảng xộc xệch, chữ rõ chữ mờ, trong lòng đã gợn buồn. Chiếc bàn nhỏ kê ở hành lang trước chánh điện để một mớ giấy cầu siêu, trong đó có hai miếng bìa gấp, ghi chữ “CẦU AN”, “CẦU SIÊU” đã cũ. Có lẽ đó là một vài dấu hiệu ban đầu chỉ ra những mâu thuẫn trong phương pháp tu giữa “chùa” và “tu viện”.

Sớ kỳ siêu, Tu viện Bát Nhã. Ảnh: Nguyễn Mai Sơn
Lúc đó tôi nhớ đến những lời phát biểu trên nhiều tờ báo của thầy Đức Nghi, viện chủ Tu viện Bát Nhã khi ca ngợi pháp môn Làng Mai là có kỷ luật thiền môn và tinh thần dấn thân phụng sự. Trở về với thực tại, tôi lắc đầu thở dài: “Tiếc quá!”. Rời Chánh điện, chúng tôi bước vội trong mưa để xuống phòng khách phía dưới. Thì ra mấy người đàn ông này là nhân viên của Hãng phim Giải phóng. Chúng tôi thấy một thầy tu còn rất trẻ, đang ngồi chiếc ghế ở giữa và chung quanh là những người tác nghiệp trong Hãng phim Giải phóng. Hình như họ đang dựng phim hay phỏng vấn gì gì đó. Chắc sắp tới sẽ có một “vở kịch” hay? Vị thầy đó nhìn thấy chúng tôi đi tới thì liền rời khỏi ghế bước ra trước sự ngơ ngác của những người đàn ông kia.
Sau đó một thầy tu khác đi ra với vẻ mặt rất căng thẳng, rất “an ninh”. Chúng tôi hỏi pháp danh nhưng không nói mà hỏi lại: “Mấy anh tới đây có việc gì?” – “Chúng tôi là khách tham quan và rất mong gặp Thượng toạ viện chủ.”
Vị thầy này nhìn thấy chúng tôi quay phim thì bèn nói “Ở đây không được quay phim chụp hình”. Sau đó, tôi nghe vị thầy này gọi tên thầy Đồng Hạnh, và hỏi tiếp chúng tôi: “Mấy vị tới đây có việc gì?” – “Chúng tôi đi tham quan.” – “Tham quan thì để một tháng sau quay lại nhé. Chùa bây giờ không cho khách tham quan.”
Tôi được biết thầy Đồng Hạnh là “phát ngôn” của Thượng toạ Đức Nghi, đồng thời là người hay chạy lo về mặt thủ tục giấy tờ với chính quyền.
Khoảng 15 phút sau, thầy Đồng Hạnh bước ra: “Có chuyện chi không?”
Vị thầy kia trả lời: “Dạ, Có mấy người muốn tham quan.” – “Người tham quan thì ông tiếp đi, có vậy mà cũng gọi tôi. Mà nếu không tiếp thì đuổi đi.”
Tôi chưa từng nghe câu đuổi khách nào của nhà sư lịch sự đến vậy. Sau câu nói của thầy Đồng Hạnh, vị thầy kia nhanh chóng ép chúng tôi phải rời khỏi tu viện, nếu không sẽ tịch thu máy quay. Trước khi đến đây, chúng tôi nghe nói phải cẩn thận đối với xe cộ và lường trước việc sẽ bị đánh. Thấy một số người đàn ông đang dựng phim trong phòng khách tiến ra, cản không cho chúng tôi tiếp tục quay phim. Có người chỉ vào một trong ba người chúng tôi nói: “Cái thằng kia là lái xe.” Thấy có vẻ không ổn, chúng tôi quay ra xe và đi thẳng ra thị xã Bảo Lộc. Nghe nói, hễ những người mà họ đã “quen mặt” mà lảng vảng đến đó thì không tránh khỏi bị đánh. Lúc ấy, tôi nghĩ đến bài viết của ông Nguyễn Đắc Xuân, ông chắc phải quen mặt lắm, nên mới phải thực hiện “tẩu kế” bằng cách giả vờ ôm bụng rồi chuồn. Chúng tôi phần nào may mắn hơn, có lẽ do sức ép thông tin của dư luận đã làm cho những “thuộc tính giang hồ” của một số người đang trấn giữ nơi đây giảm đi phần nào.
Để tránh sự dòm ngó của phía an ninh, trên đường ra thị xã Bảo Lộc, chúng tôi ghé vào một quán cà-fê cách chùa Phước Huệ chừng 100m, vừa uống cà-fê chúng tôi vừa tranh thủ lưu những đoạn phim ngắn ngủi vào máy tính xách tay, phòng khi có chuyện bất trắc.

Chùa Phước Huệ. Ảnh: Nguyễn Mai Sơn
Uống xong ly cà-fê, chúng tôi vào chùa Phước Huệ, đánh xe gần sát quán cơm chay trong chùa. Có người nhắc chúng tôi không nên quay phim để tránh phiền hà. Không khí nhìn ai cũng ra “tội phạm” bao trùm, nên bất cứ ai ra vào cũng có thể trở thành đối tượng của sự nghi ngờ.

Tu sinh đang ăn cơm trưa trong chùa Phước Huệ. Ảnh: Nguyễn Mai Sơn
Vừa khi nhìn thấy tu sinh, lòng tôi chợt bình yên trở lại. Họ đang ăn cơm trong chánh niệm. Cả trai đường gần 200 con người ngồi ăn mà không có một tiếng động. Thấy người lạ đi vào, một số ngước nhìn chúng tôi, trong ánh mắt ấy chúng tôi cảm nhận có sự phân vân, ái ngại.
Số phận của họ quá bấp bênh. Nhìn họ mà thấy thương quá đỗi. Họ chỉ muốn được tu, muốn nhiều người cùng được tu, cùng nhận được sự an lạc và những tiến bộ trong đời sống tinh thần. Có lẽ sự nhục nhã khi danh dự nhân phẩm bị chà đạp không có thấm tháp gì với họ, bởi họ vẫn bình yên trong năng lượng từ bi, bất bạo động của tăng thân. Nhưng trong tôi bỗng tràn ngập sự chua xót, rằng tại sao họ không thể có quyền mang đến cho đời một hình ảnh đẹp, một niềm tin đẹp, một kỷ niệm sơ tâm đầy trong sáng: thương người như thể thương thân. Tôi nghĩ, nếu chùa Phước Huệ không cưu mang họ chắc họ sẽ nhanh chóng sụp đổ, mất định hướng, vì trước mắt họ là cả một hệ thống sẵn sàng dùng bạo lực để đàn áp.
Chúng tôi may mắn khi nhanh chóng được gặp Thượng tọa Thích Thái Thuận, dù không báo trước. Cảm giác tiếp xúc ban đầu của tôi cho thấy Thượng tọa là một người dễ gần, giàu tình thương đối với các tu sinh, không màng đến sự liên luỵ. Thượng tọa giống như người ông của những đứa cháu nhỏ khi bố mẹ chúng xa nhà lâu ngày. Tu sinh đều gọi Thượng tọa là Ôn theo cách xưng hô của Phật tử Huế dành cho các vị ở hàng Thượng tọa trở nên. Nhờ một người bạn được Ôn quý mến đi cùng, nên Ôn rất vui khi đón tiếp anh em chúng tôi. Ôn cũng không quên nhắc nhở, người của “họ” đang theo dõi khắp chung quanh.
Trong dự tính, chúng tôi sẽ đi lên Đà Lạt nhưng thấy không khí “yên tĩnh trước bão” chung quanh, không ai bảo ai, chúng tôi nhận ra rằng, thăm và hỏi chuyện Ôn xong, chúng tôi sẽ về ngay.
Chúng tôi hỏi thăm sức khỏe của Ôn. Ôn kể lại chi tiết việc phái đoàn Ban Trị sự bị tấn công bằng đá và phân như thế nào. Bản thân Ôn bị hành hung nặng nhất phải đi vào nằm viện. Ôn nhớ có một kẻ lạ mặt cầm cục đá to đánh mạnh vào mạng sườn, lúc đó một số kẻ bảo đóng cổng vào mà đánh và đứng cười. Ôn đã phải cố gắng ôm sườn lách người qua khe cổng thoát ra xe của Ban Trị sự, rồi mọi người nhanh chóng đưa Ôn đến bệnh viện.
Vừa nghe Ôn nói, tôi vừa để ý qua tủ kính những người “khách lạ” đi qua đi lại. Cuộc nói chuyện thỉnh thoảng bị gián đoạn bởi người chào hỏi. Có mấy em sinh viên ở Sài Gòn nghe nói đến tình hình của tu sinh cũng ghé xuống thăm và chúc quý thầy mạnh khỏe. Rồi có một người phụ nữ khoảng 60 tuổi vào cúng dường Ôn. Ôn nói từ ngày họ bao vây chùa, bắc loa tuyên truyền, Phật tử ngại đến chùa, nhất là những Phật tử người dân tộc thì muốn xa lánh chùa luôn. Thị xã Bảo Lộc giống như đang (ngầm) bị phong tỏa vậy.
Chúng tôi không ngại ghé chùa Phước Huệ cũng chỉ để trải nghiệm thực tế và kiểm chứng lại một số thông tin xem có khách quan không. Ôn dẫn chúng tôi đi thăm dãy nhà ở của tăng sinh và ni sinh. Trong những căn phòng rộng, thiền đường, chúng tôi không thấy giường nệm gì cả, chỉ thấy mỗi người trải một cái chiếu với một cái chăn đơn, sắp lớp thẳng hàng; người thì nằm ngủ trưa, người thì ngồi đọc sách, người thì ngồi viết nhưng không thấy toát ra vẻ gì là họ đang lo lắng. Có lẽ do nhìn thấy chúng tôi đi cùng Ôn nên họ bớt phân vân hơn lúc chúng tôi mới bước vào chùa. Ôn nói “Những đứa trẻ này (tu sinh) còn ngây thơ lắm. Nhưng chúng bảo nhau rất tốt. Tu hành quy củ và rất có kỷ luật tuân thủ thời khoá. Cũng biết nương vào sinh hoạt của chúng chùa Phước Huệ, không có xáo trộn gì, chỉ có chỗ ở là chật chội”.
Bất cứ căn phòng trống nào của chùa cũng dành hết cho tu sinh. Ôn bảo, nhiều vật dụng, quần áo của tu sinh bị trộm cắp trong lúc bị trục xuất, một số tu sinh đã bị bệnh, nhưng chúng cũng biết cách tự chăm sóc cho nhau.
Gần đến giờ thức chúng, tu sinh thức dậy, họ đi lại rất nhẹ nhàng, nói rất khẽ, thậm chí họ nói với nhau bằng ngôn ngữ của cử chỉ. Có một nữ tu sinh đề nghị Ôn, hôm nay là Chủ nhật, các tu sinh rất muốn Ôn dẫn đầu cùng thiền hành với họ. Ôn chỉ mỉm cười.
Ôn đưa chúng tôi đi thăm nhà bếp, Ôn chỉ vào những rổ rau củ nói: “Phật tử họ thương quý thầy lắm, rau củ là do họ mang đến. Tu sinh họ cắt cử nhau cùng xuống nấu ăn với Phật tử. Họ tu đàng hoàng nên quần chúng Phật tử họ thương, họ ủng hộ hết mình. Đó cũng là đúng thôi”. Chúng tôi như được an tâm phần nào khi biết rằng người Phật tử Lâm Đồng không bao giờ rời xa quý tăng ni.
Ôn cho biết những tu sinh ở chùa, phải đến một nửa chưa từng được gặp Ôn Nhất Hạnh. Nhưng họ khao khát được tu theo pháp môn Làng Mai vì thực tế cảnh sinh hoạt của tu sinh ở Bát Nhã đã có sức lôi cuốn đối với họ. Họ đã nhận được sự an lạc khi tu hành trong một cộng đồng tràn đầy tình thương yêu như vậy.
Nói đến chuyện chính quyền vận động tu sinh trở về nhà, về quê, Ôn không tán đồng với cách làm ấy. Khi nói với chính quyền, Ôn so sánh với pháp môn tu thiền của Ôn Thanh Từ (Trúc Lâm): “Từ xưa, Ôn Thanh Từ có tham gia sinh hoạt Giáo hội đâu. Ôn có hệ thống tu riêng, nhưng vì cái đức của Ôn mà Giáo hội đưa ôn vào hàng Chứng minh. Chính quyền các anh cũng nên coi hệ thống tu tập của họ như của Ôn Thanh Từ. Có gì đâu mà các anh quan trọng. Còn vấn đề giữa Ôn Nhất Hạnh và nhà nước là chuyện của hai bên, không liên quan đến số họ cả. Những người tu theo pháp môn của Ôn Thanh Từ, có ai vận động họ trở về nhà hay về quê đâu. Người ta lựa chọn tu theo pháp môn nào là quyền của họ, cấm họ là vi phạm pháp luật.”
Ôn cho chúng tôi biết thêm: “Hiện nay chùa Phước Huệ chỉ còn khoảng 193 tu sinh Làng Mai tạm trú, chính quyền yêu cầu người nơi nào trả về tỉnh đó. Nhưng tôi nói chuyện người tu ở đâu là quyền của họ, buộc họ sao được. Ban trị sự của các tỉnh thì họ cũng không nhận đâu, còn đưa về nhà thì gọi gì là ‘xuất gia’ nữa. Tu sinh họ thỉnh nguyện, họ mong cho các cấp cho họ được tu hợp pháp. Nhưng khó, vì chính quyền họ muốn đuổi hẳn ra khỏi Lâm Đồng mà. Tôi đã đề nghị, Giáo hội nên sắp xếp một nơi ở Lâm Đồng để họ tu, do Giáo hội quản lý và liên hệ về các mặt thủ tục, đừng tách họ ra. Còn tôi chỉ cưu mang lúc hoạn nạn thôi.”
Trước đây, qua các bài phỏng vấn trên báo chí, tôi cũng từng ngưỡng mộ việc làm của thầy Đức Nghi. Chuyện xảy ra phức tạp như ngày hôm nay là một điều vô cùng đáng tiếc. Thầy Đức Nghi chắc chắn phải gánh một phần trách nhiệm khi hình ảnh tôn nghiêm của Giáo hội bị phương hại. Nhưng Ôn nói: “Sự việc ra nông nỗi, mà họ có hối cải đâu. Mấy vị đệ tử của Thượng tọa Đức Nghi còn nói ‘Đã đâm lao thì phải theo lao’. Tôi bảo rằng, ông thầy tu thì làm gì có lao mà đâm với theo. Tình đồng đạo với nhau giữa lúc mưa bão như vậy, nhất là trong cái tình hình họ kêu gọi dân chúng không được ra đường thì tôi phải cưu mang họ. Công an vào làm việc với tôi. Tôi nói bây giờ các ông cố trục xuất họ ra ngoài đường, họ có mệnh hệ gì các ông phải chịu trách nhiệm. Họ nói thôi thì bây giờ Thượng toạ có tình thương nên tạm thời cho họ ở đêm nay, nội trong ngày mai họ phải rời khỏi chùa. Tôi nói tình thương là cái chung của con người, các ông bảo tôi thương sao các ông lại không thương họ.”
Qua lời Ôn, chúng tôi được biết, trước đó các đoàn xe từ trên Sài Gòn, Đà Lạt xuống đều bị chặn hết, chùa bị cô lập, Phật tử Bảo Lộc không có được tới chùa. Ai ra vô cũng bị đi kè bên, nếu cần thì bị mời ra khỏi chùa ngay tức khắc. Ngày 28/9, chính quyền và các cơ quan ban ngành xuống chùa Phước Huệ nói rằng nội trong ngày phải trục xuất. Lúc đó Ôn nói: “Trục xuất là quyền của mấy anh, còn tôi chỉ bảo vệ con người, trong mưa bão họ không có nơi ăn chốn ở, đói rách thì tôi cưu mang, bảo vệ. Qua điện thoại, có người hỏi ông Bùi Hữu Dược, Vụ trưởng Vụ Phật giáo, Ban Tôn giáo Chính phủ rằng tu sinh họ có vi phạm chính trị không? Ông Dược nói: ‘Không.’ Vậy đã không thì sao phải trục xuất họ? Quản lý người là chuyện an ninh, còn chuyện nhà chùa là quản lý người tu, ai không tu thì tôi cho ra khỏi chùa, ai tu phá thì tôi cũng cho ra khỏi chùa.”
Sau khi được Ôn cho đi thăm một vòng chung quanh chùa. Chúng tôi chuyển quà của người thân ở thành phố cho một vị tu sinh. Trước lúc chúng tôi chuẩn bị ra xe, Ôn còn đến ngồi cùng và lưu lại số điện thoại.
Trấn áp, đánh đập, chửi rủa, quăng liệng kinh sách, tượng Phật không chỉ là sự xúc phạm nhân phẩm mà còn là hành vi khiêu khích bất lương, nhằm kích động sự oán hờn của tu sinh, nếu họ có bất cứ sự phản ứng sơ suất nào thì sẽ là cái cớ cho những làn sóng bạo hành tiếp theo được hợp thức hóa ở mức độ cao hơn: “trấn áp nổi loạn”. Nhưng chính quyền đã thất bại trước sự bất bạo động vững chãi, trước câu niệm Phật và dòng nước mắt trong veo đầy tính thiện của những tu sinh có tuổi đời từ 15 đến 35.
Tôi nghe nói tăng ni trẻ tỉnh Lâm Đồng sẵn sàng tự thiêu để bảo vệ công lý. Lúc đó tôi nhớ đến lời dạy của Hòa thượng Trí Quang: “Can đảm để tự vệ chỉ mới là can đảm mà thôi. Can đảm bất bạo động để thánh hóa cái chết của mình và làm cho tín ngưỡng của mình tồn tại một cách thánh thiện vì cái chết ấy, mới là đức tính vô úy.”
Rời chùa Phước Huệ lúc 2 giờ 30 phút chiều, quay nhìn chùa lần cuối, tôi thấy lòng ấm áp hơn, bởi nơi đây cánh cửa luôn mở ra hai chữ “Tình Người”.
© 2009 Nguyễn Mai Sơn
© 2009 talawas blog
Hoa Kỳ lên án Việt Nam bắt bớ và khủng bố các nhà hoạt động dân chủ và tăng sĩ Phật giáo
(US condemns Vietnam’s treatment of activists)
AP
15 tháng 10 năm 2009
Hà Nội, Việt Nam – Chính phủ Hoa Kỳ mới đây đã mạnh mẽ chỉ trích việc mà Nhà nước Cộng Sản Việt Nam vừa kết án 9 Nhà hoạt động Dân chủ, bắt bớ những người cầm bút thuộc giới nhà báo, nhà văn cũng như đã đàn áp, trục xuất những Tăng sĩ Phật giáo ra khỏi tu viện, nơi họ đang tu tập theo pháp môn của vị Thiền Sư danh tiếng.
Xem tiếp;
http://phusaonline.free.fr/PhatHoc/TinTuc/PNBN_3/40_Hoaky.htm
Cám ơn bạn TrymViet đã giới thiệu những đường link trong YouTube trình bày sự thật về “đám quân Phật tử ô hợp bao vây và tấn công chùa Bát Nhã”. Tôi đề nghị các bạn dịch ra tiếng Pháp và Anh ngữ để phổ biến khắp năm châu xem bà Nguyễn Phương Nga, phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao VN nói năng ra sao.
Tôi đã nói rồi, trong bối cảnh truyền thông đại chúng và hiện đại qua Internet và Bloggers khắp nơi, chính quyền VN đừng mơ tưởng có thể dấu diếm che đậy được sự thật. Thời đại này khác xa thời Pháp Nạn 1963, quần chúng bây giờ được trang bị nhiều kỹ thuật hiện đại, từ mini camera, máy chụp hình digital, cho đến điện thoại di động có camera, cây kim khâu nhỏ dấu kín trong bọc rồi thế nào cũng bị lòi ra. Theo dõi chi tiết vụ nhà văn Trần Khải Thanh Thuỷ bị hành hung thì biết rõ ngay bộ mặt tráo trở của nhà cầm quyền. Những ai cố tình đứng sau lưng ném đá dấu tay rồi thì sẽ bị lột mặt nạ thôi.
[…] © 2009 Nguyễn Mai Sơn Nguồn: talawas blog […]
Xin giới thiệu bài phỏng vấn sau đây trên blog Sen Việt.
Thứ năm, ngày 15 tháng mười năm 2009
KHÔNG LOẠI TRỪ KHẢ NĂNG XẢY RA THAM NHŨNG TRONG VỤ BÁT NHÃ
Sen Việt: Vụ việc và diễn biến của tu viện Bát Nhã, Phước Huệ trong những ngày vừa qua đã nhận được rất nhiều quan tâm của Nhóm Sen Việt. Trong một sinh hoạt thường kỳ, Nhóm Sen Việt với các thành viên không đầy đủ đã có buổi trò chuyện với thầy Thích Thanh Thắng, cố vấn của Nhóm Sen Việt, người đã gửi Thư ngỏ gửi đến các vị lãnh đạo Nhà nước và ký vào Thỉnh nguyện thư của giới trí thức, văn nghệ sĩ Việt Nam ngay sau khi vụ việc việc Bát Nhã xảy ra. Sen Việt xin gửi tới quý độc giả những chia sẻ cá nhân của thầy Thích Thanh Thắng về vụ việc này.
Xem tiếp:
http://huongsenviet.blogspot.com/2009/10/khong-loai-tru-kha-nang-xay-ra-tham.html
Các bác có thể tham khảo thêm video ở đây:
http://www.youtube.com/watch?v=Paw4Uu34O-c
http://www.youtube.com/watch?v=FSqSjUVNgR8
http://www.youtube.com/watch?v=FVvrCij9YpY
Những thước phim này sẽ đi vào lịch sử.
Nam mô a di đà phật,
Thưa anh NMSơn,
Tôi rất thông cảm và đoán được sự dè dặt và lo sợ của nhà cầm quyền vì họ không hoặc chưa hiểu rõ Pháp môn tu Đạo của HT Thanh Từ và HT Nhất Hạnh (là không có gì nguy hiểm cho “an ninh” quốc gia). Tuy nhiên từ đó mà đưa đến bạo hành trong vụ đàn áp Bát Nhã vừa qua (mà nhà báo Nguyễn Thanh Xuân của Tuổi Trẻ Online chỉ gọi đó là một cuộc xô xát nhỏ!) thì quả là đáng tiếc và đáng trách. Điều này cho thấy nền pháp trị ở VN còn quá tài tử và lỏng lẻo. Như vậy thì làm sao mà nhà nước mong có nhiều người về đầu tư kinh doanh buôn bán hoặc giúp nước. Năm 2006 lúc cho phép Thầy Đức Nghi và Pháp môn Làng Mai được “làm việc” tại Bát Nhã thì mọi việc đều hợp pháp. Chính Thầy Đức Nghi đã làm lễ xuống tóc cho hàng trăm tăng ni sinh. Sau đó canh không lành cơm không ngọt thì sự trở mặt có vẻ dễ như trở bàn tay, Thầy ĐN chỉ việc chấm dứt hộ khẩu của quý vị là xong, chỉ trong chớp mắt, từ trắng đổi thành đen, việc tu học theo Pháp môn Làng Mai từ nay không còn hợp pháp nữa. Thầy ĐN và nhà cầm quyền địa phương có thể gọi là thắng cái trận nhỏ trong việc tráo trở này (tiếng Tây gọi là gagner une bataille) nhưng họ không thắng được tình thương và công tâm của thế giới và của tất cả những người con VN khắp nơi trên thế giới còn tha thiết và quan tâm đến vận mệnh xứ sở. Thầy ĐN và nhà cầm quyền Công an Tỉnh Lâm Đồng sẽ không thắng được tiếng nói công lý của toàn thế giới. Và anh chỉ làm được một cú thôi, trên phương diện dài hạn, anh sẽ mất mát, người ta sẽ chừa anh ra. Phải chăng vận nước vẫn còn điêu linh, nằm trong tay những người xảo quyệt chỉ lo bảo vệ quyền lợi và tài vật họ đang có. Nhưng tài vật và quyền lợi này cũng như chủ nghĩa họ đang bảo vệ rồi cũng theo luật vô thường mà đổi thay, họ không giữ mãi được, trong khi Pháp môn học làm người tử tế có lòng Từ Bi của Nhà Phật nó đã có từ ngày nước VN dựng nước và nó đã làm dân tộc VN vững mạnh trong thời Lý Trần, đánh đuổi được quân xâm lược từ phương Bắc và nó có thể đóng góp một cách khả quan vào việc an bình xã hội VN hiện nay cũng như làm cho xã hội này ít tha hoá hơn.
Một ngày nào đó sẽ đến lượt con cháu của các ông Chủ Tịch hoặc ông Thủ Tướng lâm vào cảnh ăn chơi trụy lạc hoặc khó khăn trong cuộc sống, lúc đó họ sẽ phải đi tìm một giải pháp (dù là tâm linh) thì có thể cũng quá trễ. Họ sẽ trả giá rất đắt với những gì họ đang làm. Do they really care?
Cảm ơn tác giả cung cấp thêm thông tin về tình hình này! Thật là bi đát cho những tu sinh này và Ôn Thái Thuận quả là rộng lòng từ bi khi ông có thể cưu mang các tu sinh trong cơn “đại họan nạn”. Và không biết sợ trước cường quyền. Thật đáng khâm phục!
Sự đòan kết trong phật giáo của VN rất yếu. Hầu như không thấy sự lên tiếng nào từ những nới khác trừ một số nơi ở Lâm Đồng và TP HCM. Như nói hơn 80% dân số VN theo đạo Phật là căn cứ vào đâu?
Có điều tôi vẫn chưa thỏa mãn là tại sao phải trục xuất họ? Ngay cả trong cái công văn của GHPGVN cũng muốn phân lọai và cho hồi gia những tu sinh kia? Như vậy thì làm sao mà nói được là nước VN có tư do tôn giáo và tính ngưỡng được? Một điều nữa là khi có hữu sự thì những người có trách nhiệm hầu như bận họp và mở nhiều cuộc họp và vẫn không có cách giải quyết!
may sao tường trình vụ Bát Nhã
ngoài từ nhà nước và tăng thân
còn có những tiếp cận sự thật
được kể ra bởi các chứng nhân
Xin cám ơn bác Nguyễn Mai Sơn.
Một chuyến đi can đảm, tường thuật chân thật, chuyện kể có nhiều điều cảm động về tình trạng các tăng ni sinh, về TT Thích Đức Thuận. Ở VN mấy chục năm qua, trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, vẫn có nhiều bậc tu hành chân chính thấy ở Phật giáo, Công giáo, hay tôn giáo khác tôi được đọc biết. TT Đức Thuận từng bị đánh phải vào bệnh viện, bị tờ rơi hăm dọa mất chùa (ảnh chụp tờ rơi đăng trên Phusa.net), vậy mà vẫn không nao núng, vẫn tiếp tục hành động vì đạo Phật, vì tình thương, chưa nói vì lẽ phải. Chỉ hơi tiếc về các ảnh chụp không rõ, tôi đoán chắc vì dùng máy thu hình (camcorder) để chụp, nên độ phân giải thấp. Cũng có thể vì không thể chụp tự nhiên, đường hoàng, để chọn đuợc góc độ, ánh sáng tốt. Bài viết của ông Nguyễn Mai Sơn cho thấy những thông tin mấy hôm trước về tình hình ở các chùa Bát Nhã, Phước Huệ đều đúng sự thật.
@Nguyễn Mai Sơn,
Trước hết là xin cảm ơn ông đã mau chóng giải đáp phần nào cho vấn nạn của tôi, sau là cũng qua đó cung cấp thêm ít nhiều dữ kiện về hiện tình Phật Giáo trong nước, thành thử câu hỏi của tôi cũng là có chút phước duyên vậy.
Kính chúc ông vạn an thường lạc và có lẽ cũng là thực hiện hạnh bố thí xin ông cùng các bạn hữu cho chúng tôi có được cơ hội đọc thêm những bài viết giá trị như bài viết trên đây.
Thích Nhất Hạnh và Thích Thanh Từ là 2 cố tri từ ít nhất là 50 năm nay. Tình cố cựu này được Nhất Hạnh nhắc tới trong cuốn Nẻo về của ý khi kể là thầy Thanh Từ cũng có một cốc tại Phương Bối, Bảo Lộc của Nhất Hạnh vào những năm 50 (Lý trong Nẻo về của ý về sau là nhà báo Lý Đại Nguyên, báo Sóng thần; Nẻo về của ý là chuyện thật với người thật, việc thật). Thích Thanh Từ cũng là thiền giả duy nhất được Nhất Hạnh nhắc tới, trao đổi suy nghĩ trong cuốn Tương lai thiền học Việt Nam, xuất bản vào đầu thập niên 80; ngoài tương lai thiền học, qùa tặng là qủa mít non của Thanh Từ gửi từ VN qua Pháp cho Nhất Hạnh cũng được ân cần nhắc đến trong tập sách rất mỏng này. Thanh Từ đã tới thăm Làng Mai tại Pháp, và Nhất Hạnh cũng đã thăm Thanh Từ khi về Việt Nam. Có thể nói là TT và NH có quan hệ thân tình và thiền vị.
Có lẽ Thích Nhất Hạnh và Thích Thanh Từ là 2 thiền sư có thực chất và có ảnh hưởng nhất tại Việt Nam hiện nay, cả hai đều tích cực quảng bá lối tu của mình, dùng nhiều phương tiện truyền thông mới (từ đầu thập niên 80) để giảng dạy như băng, đĩa. Cả hai đều có ảnh hưởng ít, nhiều tới những nhân vật quan trọng của Đảng, hoặc thân quyến của họ như Võ Nguyên Giáp (Nhất Hạnh), hoặc con gái của ông Trường Chinh (Thanh Từ) từ hồi ông TC còn sinh tiền, đang giữ điạ vị quan trọng.
Phong cách và hướng đi của Nhất Hạnh và Thanh Từ có vẻ rất khác nhau.
Nhất Hạnh nghệ sĩ, trí thức, uyên bác, quốc tế, viết rất nhiều sách, đã dạy tại Columbia, College de France, dấn thân, có “tham vọng” (xin hiểu theo nghĩa phương Tây là có mục đích lớn, có chương trình hành động cụ thể), có vô số hoạt động xã hội (giúp trẻ đói, người già cô qủa, dạy học, hỗ trợ tăng sinh, giúp đỡ văn, nghệ sĩ, trí thức…) tại Việt Nam từ 30 năm nay (là điều tôi biết chắc chắn vì có ít nhiều tham gia, trước 1981 tôi không rõ), có hùng tâm, có viễn kiến, bề ngoài có vẻ trầm trọng, khó gần gũi (cũng một phần do một số đệ tử của ông có khuynh hướng tán tụng, “thánh hoá” ông qúa đáng). Do tư chất rất cách mạng, từ những năm 50, Nhất Hạnh đã nêu ra nhu cầu hiện đại hóa đạo Phật, đạo Phật đi vào cuộc đời. Nhất Hạnh đã không có quan hệ tốt với chức sắc Phật giáo Nam VN (vì vậy NH mới lên Phương Bối, Bảo Lộc lập một chốn yên tĩnh, tu tập và lập một thư viện cả vạn cuốn sách) mà suy nghĩ vốn dính với sự èo uột của Phật giáo sau cao điểm Lý Trần, sau cú va chạm với văn minh phương Tây và sự thiếu nâng đỡ của 80 năm Pháp thuộc. (GHPGVN hiện nay muốn gửi học trò của NH về các chùa điạ phương để tu theo kiểu mà Nhất Hạnh đã từ chối từ 50 năm trước, là một biện pháp bắt cóc bỏ dĩa, điều này chỉ có thể nghĩ ra bởi những quan chức không biết gì về những pháp môn khác nhau của Phật giáo).
Thầy Thanh Từ phong cách xuề xòa, thiên về xuất thế, không màng chuyện thị phi, lời giảng bình dân, dễ cảm, gần đại chúng, “tham vọng” của ông là kế thừa, phát triển sự vững mạnh của Phật giáo Việt Nam từ thời Lý, Trần.
Trong một tác phẩm, Nhất Hạnh nhắc tới giá trị của đạo đức vô hành, sự cần thiết của sự bình tĩnh, vô vi khi mọi người náo động. Điều này có thể dùng để giải thích cho việc thầy Thanh Từ giữ im lặng hoặc chưa lên tiếng.
Đọc Nhất Hạnh ít nhiều phải suy nghĩ, nghe Thanh Từ nhẹ nhõm, thoải mái hơn. Một sư cô đệ tử của cả 2 thầy Nhất Hạnh, Thanh Từ nói với tôi là hạnh nguyện của 2 vị này khác nhau, một người chọn con đường bồ tát, dấn thân vào cuộc đời, một tu để thành Phật.
Có một điều ngộ nghĩnh về những thắc mắc, điểm danh ai đã lên tiếng, đã làm gì trong vụ Bát Nhã hay trong những vụ tương tự như ở toà Khâm sứ… nhưng bản thân những người điểm danh này lại ít thấy xuất hiện trên những lời kêu gọi, thỉnh nguyện.
Thưa ông Phùng Tường Vân,
1. Thực ra thì không phải Giáo hội Phật giáo Việt Nam im hơi lặng tiếng mà là do tiếng nói mỏng, không đủ sức thuyết phục. Tôi vừa đọc được nhận định của Trung ương Giáo hội trên Giacngoonline http://giacngo.vn/thoisu/2009/10/10/57400B/ . Trước đó, tôi cũng có hỏi một số vị thầy ở TP.HCM thì được biết, ngoài Hà Nội, cụ Thanh Tứ gì đó cũng đã có chỉ đạo với giới lãnh đạo Giáo hội phía Nam, nên có thể vì “cái ghế” [cái ghế này do nhà nước sắp đặt, không phản ánh đức tài, uy tín và nguyện vọng của người Phật tử] của mình mà tiếng nói trở nên lấp lửng. Nói mạnh thì mất ghế, không nói thì mất danh dự, uy tín đối với tăng, ni, Phật tử. Tôi cũng vừa được biết, vì bài viết trên của Giác Ngộ mà Thư ký tòa soạn báo GN bị dọa sẽ cách chức.
2. Đối với Hòa thượng Thích Thanh Từ, dòng thiền Trúc Lâm mà Hòa thượng đang cho phát triển rộng thực chất không phải là dòng thiền được truyền thì thời Trần Nhân Tông mà nó chỉ mang tên Trúc Lâm thôi. Hiện nay dòng thiền này mới phát triển, chứ khoảng 10 năm trước thì nó chỉ dừng lại ở phía Nam thôi. Hòa thượng Thích Thanh Từ không tham gia vào Giáo hội, nên ngay từ đầu cũng có nhiều “an ninh” được cài vào Trúc Lâm, xuất gia hẳn hoi, nhằm theo dõi mọi động thái của dòng thiền này, đặc biệt Hòa thượng Thích Thanh Từ được “chăm sóc” rất kỹ.
Hiện người Phật tử vẫn truyền nhau những giai thoại rằng, những người thuộc bên “an ninh” tu và làm thị giả cho Hòa thượng, Hòa thượng nhờ trí của người tu mà biết hết. Hòa thượng đã cảm hóa họ, khiến cho ban đầu chỉ là giả tu còn sau thì “tu thiệt”. Tình trạng này các Giáo hội tôn giáo khác ở Việt Nam cũng gặp phải. Điều này đã trở nên hiển nhiên trong hoàn cảnh Việt Nam với một lực lượng an ninh tôn giáo đồ sộ như vậy. Có lẽ do quá trình tu Hòa thượng không phát biểu bất cứ một chính kiến gì nên họ thấy không “nguy hiểm” vì vậy mà được phát triển như hôm nay.
Nhưng sự thịnh suy của một dòng thiền là không tránh khỏi nếu vị lãnh đạo dòng tu mất đi và người khác thay thế (bị lôi cuốn vào vòng xoáy quyền lực). Cá nhân tôi nghĩ, những phát biểu của thiền sư Nhất Hạnh phù hợp với sinh hoạt chính trị xã hội, tôn giáo ở phương Tây, nhưng ở Việt Nam thì chưa có người nghe nổi những “góp ý” này. Đó cũng là một trong những nguyên nhân của sự liên lụy. Người ta vẫn nói không sợ vạn nhất chỉ sợ nhất vạn. Một mồi lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả khu rừng.
Bài ký sự vô cùng cảm động và chân thành cám ơn tác giả Nguyễn Mai Sơn đã đem đến thông tin rất cần thiết vào thời điểm.
@Nguyễn Mai Sơn
“Khổ nỗi Giáo Hội Phật Giáo VN tại VN hầu như còn im hơi lặng tiếng…”(TN)
Nếu nó là cái Giáo Hội mà người ta quen gọi là “Giáo Hội Quốc Doanh” thì không có điều gì phải bàn, tuy nhiên những Pháp Môn khác tỉ như giòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử của Ngài Thích Thanh Từ vốn vẫn được biết đến như là một cố gắng làm sống lại tinh thần Phật Giáo thời Lý,Trần…và cũng có một tổ chức mạng lưới tu viện rộng lớn trong nước mà hình như vẫn không thấy có động thái gì trước biến cố lớn này, rất mong được ông Nguyễn Mai Sơn cho lời giải đáp, được không ạ?
Tôi thật rất cảm kích khi đọc bài này và tôi rất cảm ơn những tai mắt địa phương như những bài của anh Nguyễn Mai Sơn đã vừa dùng lời vừa dùng hình ảnh cho chúng tôi “thấy” được chút nào tình hình của Bát Nhã và Phước Huệ. Thầy Thích Thái Thuận đúng là sứ giả của Bồ Tát Quan Thế Âm.
Những ngày sắp tới sẽ cho chúng ta biết được nhà cầm quyền VN sẽ xử sự vụ Bát Nhã như thế nào. Theo tôi cả thế giới sẽ nhìn vào việc xét xử nghiêm minh và công bằng sắp tới để xác nhận là có hay không có đàn áp từ phía nhà cầm quyền hay đây chỉ là một sự lộng quyền của Công An và nhà hữu trách địa phương.
Thật là uổng nếu các tăng ni không được phép tu học vì trong tình trạng hiện thời của nước VN, đạo Phật có thể đóng góp một cách đáng kể cho công việc thực hiện an ninh và công bình xã hội. Đây chính là lúc mà đạo Phật phải đem tình thương và trí tuệ ra để mạnh dạn nói lên tiếng nói của mình trước một cuộc đàn áp dùng bạo lực. Khổ nỗi Giáo Hội Phật Giáo VN tại VN hầu như vẫn còn im hơi lặng tiếng trước sự thể bi đát đó. Thật là một hoàn cảnh đáng buồn cho thân phận quê hương Việt Nam.