Di họa của việc sử dụng sai mục đích “An Nam đồ” đối với việc nghiên cứu Hoàng Sa – Trường Sa
22/03/2009 | 3:24 sáng | 7 Comments
Category: Quan hệ Việt – Trung, Vấn đề Biển Đông
Thẻ: Hoàng Sa-Trường Sa > Lịch sử

Nguồn: Tuổi Trẻ cuối tuần
Có một “cuộc hội ngộ đòi chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa” của nhiều giới liên quan, do một cơ quan Nhà nước lần đầu tiên công khai tổ chức là một tín hiệu đáng mừng, dù muộn. Trên cơ sở bài viết của tác giả Xuân Thi đăng trên Sài Gòn tiếp thị ngày 18-3-2009, chúng tôi thấy có nhiều điểm sai trật cần phải góp ý, vấn đề liên quan đến tường thuật và trích ý kiến của tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện: “Phát hiện mới nhất của tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, viện nghiên cứu Hán Nôm là một ví dụ điển hình. Ông cùng một số nhà nghiên cứu đã mất bốn năm để tiếp cận được ba trang tư liệu An Nam đồ đang nằm ở Bắc Kinh và một phần tại Đài Bắc (Đài Loan). ‘Tấm bản đồ có niên đại năm 1608 này do ông Đại Trung, phó tổng binh trấn thủ châu Quỳnh Nga hay đảo Hải Nam ngày nay soạn ra có tham khảo hệ thống bản đồ của Tiền Đại Khâm, một nhà địa chính học nổi tiếng đời Thanh. Trong này có ba trang ghi tên cửa biển Đại Trường Sa của nước ta như một minh chứng rõ ràng về sự thừa nhận của nhà Minh với chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa’, ông Diện giải thích” (trang 34)[[1]]. Trong đoạn văn này có những điểm sai cần phải bàn như sau:
A. Sai về nhân danh, địa danh:
- Tác giả An Nam đồ tên Đặng Chung (鄧 鍾), đã viết sai thành Đại Trung.
- Châu Quỳnh Nhai (瓊 崖), tên hợp xưng của châu Quỳnh ở phía Bắc và châu Nhai ở phía Nam đảo Hải Nam, đã viết sai thành châu Quỳnh Nga.
- Học giả Tiền Đại Hân (錢 大 昕), đã viết sai thành Tiền Đại Khâm.
B. Xác định sai ngành học/địa hạt nghiên cứu:
Tiền Đại Hân (1728-1804) không phải là nhà “địa chính học” mà là một học giả kinh học, sử học, đỗ tiến sĩ năm 1751, làm việc ở Viện Hàn lâm, sau làm Học chính tỉnh Quảng Đông. Tiền Đại Hân đọc rộng và có thực học, khảo cứu tận gốc nhiều lĩnh vực như: nghĩa lý kinh sử, ngôn ngữ, khảo cổ, lịch pháp Trung-Tây, toán học, lịch sử địa lý, điển chương chế độ… ưu thế ở lĩnh vực sử học và phép khảo chứng, hiệu khám[[2]].
Lịch sử học thuật đời Thanh [và cho đến nay] ở Trung Quốc chưa có ngành “Địa chính học”, có thể tiến sĩ Diện muốn nói họ Tiền là nhà “Địa chính trị học/Political geography”, mà Trung Quốc gọi là “Địa duyên chính trị học” hoặc gọi “Địa lý chính trị học” (theo Từ Hải). Tuy nhiên, thuật ngữ Political geography chỉ mới được đề xuất năm 1917 bởi Johan Rudolf Kjellen và học giới Trung Quốc thì đến năm 1924 mới hiểu sơ bộ lý thuyết của ngành học này qua sách Thái Bình Dương địa duyên chính trị học của Karl Haushofer.
C. Sai về trục thời gian:
Đặng Chung, như tiến sĩ Diện phát biểu, là người soạn/vẽ An Nam đồ năm 1608 (đời Minh), không hiểu sao lại “có tham khảo hệ thống bản đồ của Tiền Đại Khâm, một nhà địa chính học nổi tiếng đời Thanh” (sic), chẳng khác nào ta nói: Phan Huy Chú soạn Lịch triều hiến chương loại chí có tham khảo một số sách của tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện vậy!?
D. Sai về tọa độ địa lý:
Dùng địa đồ cổ Việt Nam để chứng minh Hoàng Sa – Trường Sa không thuộc chủ quyền của Việt Nam trong lịch sử là một trong nhiều “mũi tiến công” của học giới Trung Quốc. Ngoài bức An Nam đồ – mà tiến sĩ Diện và đồng sự đã tốn nhiều năm để tiếp cận – theo chúng tôi biết, còn có 9 bức địa đồ An Nam/Việt Nam khác[[3]] được soạn/vẽ trong thời Minh-Thanh, việc này đã được phía Trung Quốc công bố ngày 20-9-1979 trên tập san Trung Quốc Khoa học viện đồ thư quán (Thư viện Viện Khoa học Trung Quốc) qua bài viết của Quách Vĩnh Phương với tiêu đề “Việt Nam sử tịch ký tải đích Hoàng Sa – Trường Sa quyết phi ngã Tây Sa – Nam Sa quần đảo” (Hoàng Sa – Trường Sa biên chép trong sử tịch Việt Nam không phải là quần đảo Tây Sa – Nam Sa của nước ta). [Việc này, chúng tôi đã tường thuật khá chi tiết trên tạp chí Nghiên cứu và phát triển (Thừa Thiên – Huế) số 5 tháng 10-2008, trang 92-93 và 101-103].
Họ Quách cho rằng, 10 bức địa đồ cổ Việt Nam này tiêu danh Đại Trường Sa, hoặc Đại Trường Sa, Tiểu Trường Sa ở vị trí các cửa biển hoặc bãi cát ven bờ từ Quảng Trị đến Thuận Hóa. Họ Quách phối hợp các mô tả trong nhiều bộ sử thư và địa phương chí Việt Nam như Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục, Ô châu cận lục, Phủ biên tạp lục [[4]]… để củng cố lý luận và đi đến kết luận đại ý rằng “quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa mà học giới Việt Nam ngày nay đề cập ứng với Đại Trường Sa và Tiểu Trường Sa mà các địa đồ cổ và sử tịch Việt Nam đã miêu tả, tức là chỉ các nơi ven bờ biển từ Quảng Trị đến Thuận Hóa”. Ngay trong đoạn văn mô tả của tiến sĩ Diện, chúng ta vẫn thấy từ “cửa biển” đứng trước địa danh Đại Trường Sa, và kiểm tra lại các bộ sử mà họ Quách đã nêu, quả thực, các địa danh Đại Trường Sa và Tiểu Trường Sa là những bãi cát ven bờ (xem lại chú thích số [4]).
Vấn đề đang nêu cần phải được xem xét và biệt biện cẩn thận, nên nhìn sự trùng hợp địa danh này gắn ở bối cảnh lịch sử. Trước mắt, cần phải có hướng nhận định rằng:
+ Một là: các địa đồ An Nam do người Trung Hoa thời Minh-Thanh soạn/vẽ chỉ mang tính ước lệ vì không trên cơ sở thực địa, không đáng tin cậy và tránh việc nhìn nhận hoặc đánh giá cao các địa đồ ấy;
+ Hai là: có sự trùng hợp các địa danh gần bờ biển với các hải đảo vì không thể loại trừ trường hợp người Việt Nam xưa lấy tên đã có trước từ đất liền đề đặt/gọi cho các quần đảo;
+ Ba là: về nguồn gốc, các địa danh Đại Trường sa, Tiểu Trường Sa để chỉ các dãi cát ven bờ đã xuất hiện trong sử thư Việt Nam từ thế kỷ 16, vẫn tồn tại trong nhiều sách được viết ở thề kỷ 19. Tuy nhiên, các địa danh được ghi nhận khác biệt so với địa danh 2 quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa cũng được ghi nhận trong sử thư Việt Nam.
E. Vài gợi ý:
Việt Nam đã có rất nhiều sử liệu (triều Nguyễn) chắc chắn về chủ quyền 2 quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa, không cần thiết hoặc phải rất cẩn trọng trong việc thâu thập các cứ liệu mới, nhất là các cứ liệu mà học giới Trung Quốc đã/đang sử dụng và lý luận theo chiều hướng có lợi cho họ.
Nói cách khác, chỉ khi nào trông thấy địa đồ Việt Nam do người Trung Hoa xưa thực hiện mà trong đó có vẽ 2 quần đảo cụ thể, cách xa bờ, và tiêu danh Hoàng Sa – Trường Sa thì mới nên dựa vào để nghiên cứu, phân tích và đi đến kết luận. Nhận định hồ đồ của tiến sĩ Diện và đồng sự của ông ở Viện Hán-Nôm lặp lại sai lầm của ông Nguyễn Phúc Giác Hải hơn một năm trước đây trên báo Tiền phong (số ra ngày 10-1-2008[[5]]). Việc ông Giác Hải, chúng tôi đã phản ánh trên tạp chí Nghiên cứu và phát triển (số 5, tháng 10-2008, trang 103). Một lần nữa, chúng tôi lưu ý các vị rằng, việc thừa nhận giá trị bức An Nam đồ hoặc các bức đồng dạng và sử dụng chúng như một phần chứng lý chủ quyền lịch sử Hoàng Sa – Trường Sa sẽ di họa khôn lường vì đã đi vào đúng hướng lý luận của học giới Trung Quốc.
Về việc sưu tầm tài liệu, nếu như kho sách cổ Trung Quốc của Thư viện Xã hội thuộc Ủy ban KHXH Việt Nam thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn còn nằm đâu đó ở các viện nghiên cứu thuộc Viện KHXH hiện nay (và được bảo quản cẩn thận) thì chúng ta còn có 4.640 tựa sách gồm 30.023 cuốn, cùng nhiều địa đồ và tranh ảnh các loại khác. Trong số đó có bức An Nam đồ in trong sách An Nam đồ thuyết của Đặng Chung hoặc nhiều bức khác được sao lại từ bức của Đặng Chung (niên đại trong khoảng Minh, Vạn Lịch 1573-1679) hoặc An Nam quốc đồ (1562) của Trịnh Nhược Tăng và nhiều bức đồng đại. Chúng nằm lẫn trong các sách thuộc bộ Trung ngoại địa dư đồ thuyết tập thành (ký hiệu P.121), đây là công trình sưu tập nhiều sách địa dư, địa đồ tập và địa đồ lẻ tẻ in thành bộ, do Đồng Khang Lư chủ trương, Thượng Hải Tích Sơn thư cục xuất bản năm 1894[[6]]. Tiến sĩ Diện và đồng sự có thể chỉ mất khoảng 1 tháng là sẽ có được nhiều bức để nghiên cứu một cách có hệ thống, và mặc dù, chúng không có giá trị pháp lý cho Nhà nước Việt Nam về vấn đề chứng cứ lịch sử Hoàng Sa – Trường Sa, nhưng sẽ cần cho học giới ở nhiều lĩnh vực khác.
Tóm lại, 5 điều sai lầm trong một đoạn văn khoảng 150 chữ nhằm diễn tả một cái nhìn phiến diện qua việc kê cứu cẩu thả và kết luận vội vàng, tác giả bài báo và tiến sĩ Diện nên chia nhau đính chính.
Các bài viết của học giới Trung Quốc trong việc phản bác các lý luận của học giới Việt Nam cho thấy họ rất chuẩn trong việc trích lục, dẫn nguồn, cũng như nhân danh, địa danh xưa nay ở Việt Nam đều được viết khá chính xác. Những yếu tố cơ bản được thể hiện một cách khoa học đã làm cho các luận văn của học giới Trung Quốc dễ khiến người đọc sa vào lưới ngụy biện của họ.
Nếu có một “cuộc chiến” giữa học giới Việt Nam và Trung Quốc về sử học quanh việc chủ quyền hai quần đảo, những bất cập vừa nêu cho thấy sự không cân sức là điều đáng phải lưu ý[[7]].
© 2009 Phạm Hoàng Quân
© 2009 talawas blog
[[1]] Xem toàn văn bài viết của Xuân Thi tại: http://www.sgtt.com.vn/Detail3.aspx?ColumnId=3&NewsId=48448&fld=HTMG\2009\0317\48448
[[2]] Trong thời gian giữ chức Hàn Lâm viện biên tu, Tiền Đại Hân phụng chỉ chỉnh lý các sách: Nhiệt Hà chí, Tục văn hiến thông khảo, Tục thông chí, Thanh nhất thống chí, Âm vận thuật vi. Sau thời gian làm Học chính Quảng Đông, về hưu (1775), soạn các sách: Nhị thập nhị sử khảo dị (xét về sự sai trật của 22 bộ sử), Đường thạch kinh khảo dị (xét về sự sai trật của các bản kinh khắc đá thời Đường), Kinh điển văn tự khảo dị (xét về sự sai trật chữ nghĩa trong các sách kinh điển), Nguyên sử thị tộc biểu (kê cứu về các dòng họ trong bộ sử nhà Nguyên), Nguyên sử nghệ văn chí (nghiên cứu về phần Nghệ văn chí trong bộ sử nhà Nguyên), Chư sử thập di (gom góp thông tin [để bổ túc] các bộ sử), Thông giám chú biện chứng (khảo xét về các chú thích trong bộ Tư trị thông giám), Tiềm nghiên đường văn tập…
[[3]] Những địa đồ thời Minh-Thanh thường được học giới Trung Quốc dẫn dụng, gồm:
– Việt Nam dư địa đồ thuyết, Quang Tự cửu niên, Thịnh Khánh Phất soạn, Quang Tự thập cửu niên, Lữ Điều Dương trùng đính, quyển 1, Quảng Ngãi tỉnh.
– Việt Nam địa đồ, Quang Tự nguyên niên, không rõ xuất xứ.
– Việt Nam tập lược, Quang Tự tam niên (1877), Từ Diên Húc soạn, Hùng Thức vẽ, quyển thủ dẫn “Việt Nam toàn đồ”.
– “An Nam đồ” trong sách Võ bị chí.
– Việt Nam quốc dư địa đồ, Lưu trữ tại Cố cung Bác vật viện, không rõ xuất xứ.
– An Nam đồ thuyết, Minh, Trịnh Nhược Tăng, quyển thủ “An Nam quốc đồ”.
– Minh An Nam đồ, Niên hiệu Vạn Lịch (1573-1619), Quảng Đông, Quỳnh Nhai Phó Tổng binh Đặng Chung hội chế. (Một cách gọi khác của An Nam đồ đang đề cập trong bài viết này).
– Địa đồ tổng yếu, Minh, Ngô Học Nghiễm, mục Tứ Di, bức 11 “An Nam đồ”.
– Hoàng Minh Chức Phương lưỡng kinh thập tam tỉnh địa đồ, Trần Tổ Thọ (Thụ), quyển hạ “An Nam địa đồ”.
– Dư địa yếu lãm, Minh, quyển thủ “An Nam đồ”.
[[4]] Các đoạn văn có đề cập địa danh Đại Trường Sa và Tiểu Trường Sa trong các sách mà Quách Vĩnh Phương đã trích dẫn để lập luận:
a. Việt sử lược (quyển 2)
Năm Kỷ Dậu, niện hiệu Thần Vũ năm đầu (1069).
Ngày Ất Sửu (23-3), vua sai bọn Đại Liêu ban Hoàng Kiện đánh cửa biển Nhật Lệ, thắng được.
Ngày Kỷ Tị (27-3), qua Đại Trường Sa.
Ngày Canh Ngọ (28-3), đến cửa biển Tư Dung (Tư Hiền, Nam Thuận Hóa). [trang 96-97].
Bản dịch Trần Quốc Vượng
Lời chú thích của Trần Quốc Vượng:
Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn: Từ cửa Nhật Lệ đến cửa Minh Linh (cửa Tùng) có bãi Đại Tràng Sa; từ cửa Việt (Quảng Trị) đến cửa Tư Dung có bãi Tiểu Tràng Sa. Đó là những đồi cát trắng ở dọc bãi biển. [trang 132].
(Việt sử lược, NXB Thuận Hóa, 2005)
b. Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, quyển 2)
Năm Giáp Thân [Lý Thái Tông – Phật Mã], Minh Đạo năm thứ 3 [1044], Tống, Khánh Lịch năm thứ 4.
“Ngày Quý Mão [mùa Xuân, tháng Giêng] vua thân đi đánh Chiêm Thành,… Ngày Giáp Thìn, quân đi từ kinh sư, ngày Ất Tị, đến cửa biển Đại Ác. Ngày hôm sau nhờ thuận gió, trong một ngày qua hai bãi Đại Tiểu Trường Sa. Đến cửa biển Tư Dung, có con cá trắng nhảy vào thuyền…”. [trang 222].
Bản dịch của Cao Huy Giu
Chú thích của Đào Duy Anh:
Đại Tiểu Trường Sa: Bãi cát từ cửa Nhật Lệ đến cửa Tùng là Đại Trường Sa, bãi cát từ cửa Việt đến cửa Tư Hiền là Tiểu Trường Sa. [trang 342].
(Đại Việt sử ký toàn thư, NXB KHXH,
Hà Nội, 1967, tái bản 1972, tập 1)
Bổ chú (của PHQ):
Bản dịch Việt văn của Ngô Đức Thọ đối với đoạn văn này [in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), NXB KHXH, Hà Nội, 1998, tập 1] chỉ khác tên cửa biển Tư Khách (bản dịch Cao Huy Giu là Tư Dung); chú thích của Ngô Đức Thọ về Đại Tiểu Trường Sa giống nguyên văn chú thích của Đào Duy Anh.
c. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 3)
“Giáp Thân, năm Thiên Cảm Thánh Vũ thứ 1 (1044). (Tống, năm Khánh Lịch thứ 4 )
Tháng Giêng, mùa Xuân. Nhà vua tự làm tướng đi đánh và thắng được nước Chiêm Thành…. Một ngày thuận gió, vượt qua bãi Đại Trường Sa và Tiểu Trường Sa, thẳng đến cửa biển Ô Long”.
Lời chú (trong nguyên tác)
+ Cửa biển Ô Long: ở phía Đông Nam huyện Phú Vinh, thuộc Thừa Thiên. Nhà Lý gọi là Ô Long; nhà Trần gọi là Tư Dung; nhà Mạc đổi là Tư Khách; nhà Lê gọi là Tư Dung, tức cửa biển Tư Hiền bây giờ [nhà Nguyễn].
+ Đại Tiểu Trường Sa: sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn chép rằng: Theo ven biển từ phía Nam của Nhật Lệ đến cửa Minh Linh gọi là Đại Trường Sa; từ phía Nam cửa Việt Hải đến của Tư Dung gọi là Tiểu Trường Sa.
Bản dịch của Hoa Bằng, Phạm Trọng Điềm, Trần Văn Giáp
(Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Quốc sử quán triều Nguyễn,
Viện sử học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007, tập 1, trang 307-309)
d. Ô châu cận lục (quyển 1)
“Cửa Hải Nguyễn.
Cửa ở huyện Kim Trà. Từ các nguồn Kim Trà, Đan Điền đổ đến. Trước từ cửa Việt Khách đến cửa Tú Khách gọi là Đại Trường Sa.
Sang năm đầu niên hiệu Khai Đại nhà Hồ, sông Yên Lục vỡ, có lịnh cho quân Kinh đi bồi đắp, song cứ mùa tháng 8, tháng 9 vẫn bị nạn nước lụt. Qua niên hiệu Cảnh Thống (đời Lê Hiến Tông) sông lại vỡ to, nên gọi là Tiểu Trường Sa.
(Ô châu cận lục, Dương Văn An nhuận sắc, tập thành,
Bùi Lương phiên dịch, NXB Văn hóa Á châu, Sài Gòn, 1961, trang 19)
[[5]] Xem lại trên website của báo Tiền phong tại: http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=107811&ChannelID=2
[[6]] Một kênh khác để tiếp cập sách An Nam đồ thuyết theo thông tin sau đây: An Nam đồ thuyết (1 quyển) Đặng Chung, người đời Minh soạn, Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 26 (1937), Thượng Hải Thương vụ ấn thư quán ảnh ấn bản (in chụp). Bản này dựa theo bản của Tạ Quốc Trinh tập lục từ bản sao của Thuật Cổ Đường dòng họ Tiền và được in trong Thiện bản tùng thư, Quốc lập Bắc Bình đồ thư quán.
[[7]] Khi bài này viết xong vào tối 18-3-2009, chúng tôi được đọc thêm bài viết của tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện trên báo Lao động ngày 19-3-2009 [xem tại: http://www.laodong.com.vn/Home/Hai-ban-do-quy-khang-dinh-chu-quyen-Viet-Nam-o-Truong-Sa-va-Hoang-Sa/20093/130720.laodong], tuy nhiên, những sai lầm quan trọng vẫn giống như những sai lầm trong bài viết của Xuân Thi mà chúng tôi vừa phân tích ở trên đây.
Bình luận
7 Comments (bài “Di họa của việc sử dụng sai mục đích “An Nam đồ” đối với việc nghiên cứu Hoàng Sa – Trường Sa”)
TIẾP THEO
“- Liên quan tới bức địa đồ nhắc đến trong bài, anh Quân đã viết trong một bài phản bác ông Nguyễn Phúc Giác Hải từ năm 2005 rồi, các học giả nhà mình chả theo dõi gì cả. Cho thấy giới nghiên cứu Việt Nam quá rời rạc, không liên kết gì với nhau trong vấn đề này (âu cũng phần lớn là lỗi Nhà nước).
– Báo chí thì a dua, thấy 1 báo đưa tin được là tất cả ào ào xô vào, không chịu tự tìm tòi, nghiền ngẫm.
Tóm lại, hội thảo trên cho thấy tính liên kết và đoàn kết của chúng ta còn quá kém. Như thế mà hùng dũng tuyên bố “địch” nhau với Tàu, e thua bét từ khi chưa ra trận!”
Xin chuyển tiếp 1 ý kiến có phần “trái chiều” về cuộc hội thảo vừa qua:
“Tôi không hài lòng với BTC ở nhiều điểm:
– Vừa… ái vừa dòm, không ra công khai chẳng ra bí mật. Thành phần tham dự lỗ mỗ, không rõ ràng, nhiều trường hợp trên cơ sở xin – cho (nhất là về phía các ký giả).
– Nội dung lan man, tản mạn, bàn về đủ thứ từ cổ sử tới địa chính trị, tới quan hệ quốc tế, công pháp quốc tế.
– Không có thông báo chính thức và không có sự chuẩn bị trước gì cả (lẽ ra mọi người tham dự phải có trong tay bản tham luận từ trước hội thảo, đến hội thảo là để thảo luận thôi)
– BTC có bàn về HS TS mà không hề mời nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân, thì hoặc là kém, hoặc là hẹp hòi kỳ thị (bản thân TS Nguyễn Nhã khi được mời hội thảo, người đầu tiên ông nhắc đến là anh Quân, ông gọi anh Quân hỏi có tham luận gì không, ảnh mới biết là có hội thảo!)”
CÒN TIẾP
@ MrDo: Sau khi hội thảo được tổ chức, thấy các báo ở Việt Nam nói rất nhiều về nó. Nhưng điều lạ (?) là trước khi nó diễn ra, không hề thấy có sự thông báo, hoặc chí ít, vài dòng đưa tin của báo chí. Khiến người đọc “trần tục” như tôi có thể nghĩ rằng, nó được tổ chức rất… bí mật, chỉ những ai (học giả, nhà nghiên cứu, đại diện báo chí) thuộc một “đẳng cấp” nhất định nào đó mới được tham gia. Và như thế, trên cương vị một nhà nghiên cứu độc lập, không thuộc một tổ chức hay cơ quan nào của Đảng, đoàn, nhà nước, ông Phạm Hoàng Quân khó lòng được mời tham gia một cuộc hội thảo như thế.
Chừng nào tình trạng hội thảo (và nghiên cứu) chỉ nằm trong tay một nhóm “đặc quyền”, chừng ấy chưa thể nói đến tính học thuật chân chính ở mức độ cao và độc lập, vì những lý do dễ hiểu…
Bài viết rất chặt chẽ và công phu. Có điều tôi thắc mắc là ông Phạm Hoàng Quân có tham gia cuộc hội thảo vừa rồi không. Những ý kiến như thế này được đưa ra trong các hội thảo chính thức như thế thì sẽ rất có giá trị.
Gần đây báo mạng Tuần Việt Nam đã có bài viết, “Thận trọng khi biên soạn sách về Hoàng Sa – Trường Sa” được đăng vào ngày 03/03/2009, trong bài viết đã chỉ ra những những thiếu sót và bất cẩn của tác giả Nguyễn Q. Thắng, tác giả cuốn sách, “Hoàng Sa Trường Sa – lãnh thổ Việt Nam nhìn từ công pháp quốc tế”. Ông Phạm Hoàng Quân cũng đã có bài viết nói về những sai sót của cuốn sách đó được đăng trên Talawas vào 23/09/2008. Nay thêm những phát hiện bất cập trong việc sử dụng tài liệu “An Nam Đồ” để chứng minh chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa cho thấy học giới Việt Nam cần phải cẩn thẩn hơn khi sử dụng những tài liệu, nhất là những tài liệu cổ để chứng minh cho việc chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa, nếu không chính chúng ta bị lọt vào cái bẫy ngụy biện của học giới Trung Quốc đưa ra.
Xin cám ơn tác giả Phạm Hoàng Quân đã đính chính bài tường thuật của tác giả Xuân Thi trên SGTT, khi thuật lại những phát biểu của tôi tại Hội thảo. Tại Hội thảo, theo đề nghị của TS Nguyễn Nhã và nhiều học giả khác, tôi đã thông báo về phát hiện và kết quả khảo sát của GS Ngô Đức Thọ xung quanh bản đồ An Nam đồ.
Theo tôi được biết, tác giả Phạm Hoàng Quân khi viết bài này chưa đọc bài của tôi trên Lao Động (19.3.2009) và cũng chưa đọc bài khảo cứu của Gs Ngô Đức Thọ về bản đồ An Nam đồ (vẽ năm 1608).
Về việc nghiên cứu và sử dụng An Nam đồ, GS Ngô Đức Thọ hiện đang viết bài trả lời tác giả Phạm Hoàng Quân. Mời quý độc giả đón đọc.
Bài viết rất nghiêm túc. Thiết tưởng các nhà nghiên cứu khoa học xã hội Việt Nam trong nước nên lấy đó làm bài học để có những tìm tòi nghiêm chỉnh, hệ thống và thực sự khoa học nhằm sát cánh với giới khoa học Việt kiều đóng góp hiệu quả vào những vấn đề sát sườn hiện nay của đất nước.