Trần Kiêm Đoàn – Đôi điều với ma giữa ban ngày
18/11/2009 | 1:10 chiều | 25 Comments
Category: Báo chí - Truyền thông, Chiến tranh Việt Nam, Tôn giáo
Thẻ: Người Việt tại Mỹ > văn hoá tranh luận
Sau khi bài “Đôi điều với Liên Thành về Biến động miền Trung” được công bố rộng rãi trên diễn đàn báo chí, ông Liên Thành đã mời tôi trực tiếp đối chất với ông trên diễn đàn ra sách của ông tại Sacramento ngày 8-11-2009. Tôi cũng đã đáp lễ trả lời từ chối vì xét thấy chưa cần thiết.
Tiếp theo chỉ một ngày sau đó là chiến dịch i-meo tấn công và chụp mũ cá nhân tôi nổi lên ồ ạt và liên tục. Tất cả gồm một mớ i-meo vá víu lại thành một bài tạp lục đủ thể loại như kể chuyện, bình văn, ý kiến, vu vạ, bịa đặt… nhằm mạ lỵ đời tư, chụp mũ cộng sản. Tệ hại hơn nữa là sự ngụy tạo người quen, người thân, người đồng hương, người làng và thậm chí, ngụy tạo luôn cả thư “thú tội” của tôi bằng một lối viết dung tục hạ đẳng, nhằm gây mâu thuẫn chính trị và tôn giáo về cá nhân tôi.
Người cầm bút Việt Nam thường được ví như những nhà văn đứng giữa hai lằn đạn (writers caught in the crossfire). Nếu không nắm bắt được đâu là nguồn thông tin cần tham khảo học hỏi, và đâu là nguồn dư luận như ma quỷ hiện giữa ban ngày cần thản nhiên và vứt bỏ, thì có lẽ nên chọn một thú tiêu dao nào khác đầy sương khói và mơ mộng hơn là viết chuyện đời thường.
Khi viết tới những dòng nầy, tôi liên tưởng tới một luận điểm trong thư mời tranh luận của ông Liên Thành gởi cho tôi. Đó là điểm ông xác định thái độ khinh bỉ và ghê tởm đối với những con chuột chui rúc, đục khoét, tung vãi những nguồn thông tin láo khoét và xuẩn động: Không dám ra mặt ngoài ánh sáng để nói với nhau ba mặt một lời mà ươn hèn đặt điều trong bóng tối.
Giới lừa bịp đã coi thường và đánh giá công luận quá thấp vì nhầm lẫn thời điểm truyền thông đại chúng chính xác và nhanh như chớp mắt hôm nay với thời kỳ rỉ tai, đồn miệng, phóng uế ngoài ngõ… thời Ba Giai Tú Xuất còn đi quanh chọc cười thiên hạ.
Ma giữa ban ngày
Đọc những email mà tôi vừa gọi là “chùm thư hổ lốn” nói trên, tôi thấy vừa quen quen, vừa là lạ. Quen vì bắt gặp toàn người thật, việc thật. Nhưng lạ vì sự biến ảo tài tình nói không thành có. Những nhân vật đều là những người thật bằng xương, bằng thịt mà lại là ma; những sự việc hoang tưởng lại hóa ra như thật.
Hiện tượng ma hiện giữa ban ngày không phải là chuyện đồng bóng phù thủy thời xa xưa mà đang xảy ra lồ lộ ngay trên xứ Huê Kỳ ở thế kỷ 21. Số là chuyện như vầy:
Ở làng Hương Cần, quả thật, có Nguyễn Văn Lũy là huynh trưởng Gia đình Phật tử, có Nguyễn Ánh là xã đội trưởng, có người làng tên Nguyễn Phi là em bà con với Nguyễn Văn Lũy, có Cao Văn Nhớ ở xóm Giữa, có Trần Kiêm Đoàn là người làng Liễu Cốc Hạ sát nách Hương Cần. Và, sau 1975, có lắm việc lao động tập thể như việc thanh niên đi vác Gi sắt để làm sân khấu văn nghệ tuyên truyền. Thôi thì cứ tạm tưởng tượng như là có một sân khấu văn nghệ như thế. Việc vác vật liệu xây dựng sân khấu là người thật việc thật, nên khai thác chuyện nầy là tạo được sự chú ý và tin tưởng của người ngoài đối với người trong cuộc. Sân khấu mở màn. Tất cả người và việc hiện ra sống động mà ai cũng hình dung được. Trong khung cảnh đó, chỉ cần tưởng tượng để ngụy tạo ra một Trần Kiêm Đoàn hay một thầy tu, một nhân vật Ất Giáp Bính Đinh nào đó… mang dép râu, đội nón cối, lên sân khấu “chửi Mỹ Ngụy” thì thật là vừa vặn cho tâm lý tò mò theo bén gót Tôn Ngộ Không vào động Hoa Sơn tìm yêu quái. Tuy là sản phẩm của tưởng tượng, nhưng có sức thuyết phục cao vì đánh động vào nhu cầu tò mò của người đọc. Kẻ bị ngụy tạo hay quần chúng hoài nghi không cách nào chứng minh được. À, nhớ ra rồi! Tôi cảm thấy tiểu xảo nầy quen quen vì hầu như nội dung của tập sách Biến động miền Trung đã được xây dựng trên thủ pháp của người và ma trong mê hồn trận “tình báo” thông tin như thế. Tuyệt vời! Chính bà xã tôi, người đã sống bên cạnh tôi hơn 40 năm mà cũng phải thốt lên: “Thiệt tài tình quá! Nếu em không phải là vợ anh thì em cũng cho những điều bịa đặt về anh là thật, hay ít lắm thì cũng hoang mang nghi ngờ không biết anh có hành động như thế hay không. Chỉ tội cho người không có làm mà bị hàm oan hoặc đã chết, hoặc không muốn nói hay không thể tự mình nói lên tiếng nói bạch hóa cho sự chụp mũ bất lương đó. Nếu có ai đó mà bị buộc tội xâm phạm tình dục theo lối thông tin tình báo nầy thì chỉ có cái mền, cái gối có mắt có tai và biết nói năng thì may ra mới lên tiếng minh oan được cho kẻ hàm oan bị ném hỏa mù.”
Trong chùm thư hổ lốn – nhưng cực kỳ ma mãnh và tinh xảo theo lối “thông tin tình báo” – vừa nói ở trên, những kẻ ngụy tạo thông tin đã tạo ra hai “nhân chứng sống” được dàn dựng lên như người thật, nhưng chỉ là bóng ma hiện giữa ban ngày đã ném hỏa mù làm dư luận bên ngoài chẳng biết đâu là chân, đâu là giả. Trường hợp hai nhân vật Nguyễn Phi và Cao Văn Nhớ trong chiến dịch… công đồn đả viện Trần Kiêm Đoàn tôi cũng nằm trong ma thuật nầy.
Đúng là có anh Nguyễn Phi, em họ của anh Nguyễn Văn Lũy, liên đoàn trưởng Gia đình Phật tử Hương Cần đồng thời với tôi là liên đoàn trưởng GĐPT Liễu Hạ (1962-1967) cùng thuộc hệ thống liên GĐPT Hương Cần. Anh Nguyễn Phi là một sĩ quan quân lực VNCH đã bị đi tù sau 1975, được qua Mỹ theo diện H.O và hiện đang định cư tại thành phố San Jose, tiểu bang California, Hoa Kỳ.
Đúng là có anh Cao Văn Nhớ, người làng Liễu Cốc Hạ ở cách nhà tôi một xóm. Anh Cao Văn Nhớ, hiện đang còn ở tại làng Liễu Cốc Hạ và đang làm nhân viên trật tự tại quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.
Cả hai anh đều ở độ tuổi lục tuần. Sau khi liên lạc và kiểm chứng trực tiếp, cả hai anh đều cho biết là họ chỉ lo sống làm ăn thầm lặng, hoàn toàn không để ý đến chuyện thị phi bên ngoài. Cả hai người đều xác nhận rằng, chưa bao giờ nói với ai hay viết một điều gì về Trần Kiêm Đoàn, về tôn giáo chính trị gì cả.
Nói tóm lại là cơ quan “tình báo thông tin” khuông phò Biến động miền Trung đã ngụy tạo đủ các loại thư email: Thư chụp mũ Việt cộng, thư dựng chuyện bôi xấu đời tư, thư mạ lỵ tục tằn, thư chia rẽ tôn giáo, thư gây hoài nghi cho gia đình bà con dòng tộc… của tôi. Những con ma xó ấy còn ngụy tạo luôn cả thư “tự thú đủ thứ tội” của Trần Kiêm Đoàn gởi Nguyễn Phi và thân hữu!
Với sự phán xét thông thường của công luận thì “một điều bất tín, vạn sự không tin”, nên đến đây có thể phủi tay ném tất cả những mớ thư nặc danh và mạo danh chụp mũ ấy vào sọt rác. Đồng thời, có đủ chứng lý để tố cáo trước pháp luật phường tội phạm mạo danh, bịa chuyện mạ lỵ và hãm hại người vô tội sau khi thẩm tra IP để truy nguyên nguồn gởi. Tuy nhiên, tôi vẫn thấy có trách nhiệm phải đi ra khỏi cái vòng lẩn quẩn “ma hiện giữa ban ngày” đó, vì những điều tôi viết là để mong tránh được viễn ảnh phân hóa cộng đồng, ngăn ngừa khả năng chia rẽ tôn giáo và gây hoang mang dư luận chứ không phải viết để thỏa mãn nhu cầu viết lách tiêu khiển cho cá nhân mình.
Nhóm tạo huyền thoại “ma giữa ban ngày” đã manh động biến người thật thành bóng ma để “làm chứng” cho hoạt động ma nhằm tấn công một Trần Kiêm Đoàn là người thật. Dùng người ma và việc ma gán tội lên đầu người thật mà không cách gì để chứng minh “giải tội” được là tội ác ghê rợn nhất của tập đoàn Stalin đã sử dụng để kết tội, đày ải và giết chết hàng triệu người ở Tây Bá Lợi Á; lẽ nào lại tái hiện ban ngày ban mặt hôm nay?!
Nhưng đây là thế kỷ 21, là ngã tư của thế giới, là thời kỳ khoa học kỹ thuật hiện đại phục vụ con người được thấy và tìm thấy sự thật.
Những sự thật sau đây thuộc về đại chúng vì bất cứ ai thắc mắc cũng có thể tìm thấy và đối chứng dễ dàng. Về số điện thoại của các nhân vật liên hệ, xin vui lòng chỉ sử dụng trong trường hợp cần đối chứng.
Sau đây là phần trả lời ngắn gọn về những Thắc mắc đã nêu ra:
1. Thắc mắc: Thân phụ của tôi là liệt sĩ cộng sản? – Sai!
Ông cụ là lính thợ thời Pháp thuộc ở đồn Tòa Khâm. Sau ngày Nhật đảo chánh năm 1945, ông về quê, ngã bệnh và mất năm 1948, chẳng dính dấp tơ hào nào về chuyện chính trị cả.
2. Thắc mắc: Tôi dính líu với phong trào học sinh sinh viên tranh đấu Huế? – Sai!
Tại Việt Nam trước 1975, tôi là huynh trưởng của Gia đình Phật tử Liễu Hạ (thuộc làng Liễu Cốc Hạ). Tôi không đi lính vì có hai ông anh tại ngũ và có mẹ già nên tạm được hoãn dịch gia cảnh để đi học.
Tự xem mình là một Phật tử độc lập, tôi không ở trong một môn phái hay giáo hội nào của Phật giáo cả. Tôi theo con đường của Phật dạy là lấy pháp giới làm phương tiện nhưng phải tự mình thắp đuốc lên mà đi. Tôi là đệ tử của Ôn Châu Lâm tức là Hòa thượng Thích Viên Quang (1893-1976), được ngài đặt cho pháp danh Nguyên Thọ. Tôi học ở Thầy về ngôn giáo thì ít mà thân giáo thì nhiều. Sau nầy, tôi đã lấy hình ảnh Thầy Châu Lâm để xây dựng cho nhân vật Thầy Tiều trong tác phẩm Tu bụi.
Tôi tham gia phong trào tranh đấu Phật giáo năm 1963 đòi tự do và bình đẳng tôn giáo. Nhưng khi cờ Phật giáo đã tung bay trở lại bình đẳng với các tôn giáo bạn, khi lần đầu tiên có nha tuyên úy Phật giáo cho các chiến sĩ VNCH theo đạo Phật nằm xuống song song với nha tuyên úy Công giáo ở miền Nam, tôi hoàn toàn trở lại với việc sách đèn và không còn tham gia vào hoạt động phong trào nào khác.
3. Thắc mắc: Sau 1975 tôi được CSVN trọng dụng? – Sai!
Tháng 9-1975, tôi làm phó ban điều hành trường Nguyễn Tri Phương, Huế, phụ trách chia thời khóa biểu và sinh hoạt thanh niên nhà trường vì là “thanh niên trắng” (không đi lính, dưới 30 tuổi). Hai tháng sau, ông Lê Huy Linh từ Bắc vào thay thế phụ trách thanh niên, tôi chỉ còn làm giáo vụ. Trưởng ban điều hành trường là ông Dương Văn Lộc, trung úy VNCH biệt phái; phó ban là ông Nguyễn Văn Tám cũng là thiếu úy VNCH biệt phái. Tháng 7-1977, tôi bị đuổi dạy vì trước 1975 làm việc cho Peter Downs, trong lúc tất cả giáo chức miền Nam vẫn còn được ở lại dạy học.
4. Thắc mắc: Sau 1975 tôi đội nón cối và mang xắc cốt về làng lên sân khấu chửi Mỹ Ngụy? – Sai!
Tôi làm việc ở trường học thành phố Huế, mắc mớ gì lại lên sân khấu nói chuyện chính trị ở làng. Nguyễn Phi đi lính ở miền Nam và đi tù ở miền Nam ngay sau 1975, năm năm sau mới được thả. Tôi bị đuổi dạy năm 1977, nghĩa là nếu giả thử có “lên sân khấu làng” nói năng điều gì đó như Nguyễn Phi (ma) đề cập, thì chỉ xảy ra trong vòng 2 năm khi chưa mất quyền công dân mà thôi. Nếu thế thì Nguyễn Phi làm sao lại vừa đi vác Gi sắt làm sân khấu cho xã đội trưởng Nguyễn Văn Ánh ở Hương Cần, lại vừa ở tù tận trong Nam (xin kiểm chứng với ông Nguyễn Văn Lũy, hiện vẫn còn ở tại làng Hương Cần, người anh mà Nguyễn Phi nói đến trong thư.)
5. Thắc mắc: Tôi bị thường xuyên nhận diện là đi xe Honda màu đỏ, nhà ở Tây Lộc? – Sai!
Tôi chỉ có một xe Honda xanh từ 1966 đến 1982 bỏ ở làng Hải Nhuận để vượt biên. Tôi chưa bao giờ có nhà hay cư trú ở Tây Lộc cả.
6. Thắc mắc: Ông Trần Kiêm Mai, “bác” họ tôi đang ở Fullerton mắng tôi là “láo khoét” và ông Trần Kiêm Trợ, “chú” tôi ở Sacramento từ tôi vì tôi là VC? – Sai!
Ông Trần Kiêm Mai là anh tôi chứ không phải bác. Anh em chúng tôi thương nhau như bát nước đầy; anh TKM nhiệt tình tán thưởng tất cả sách vở và bài viết của tôi từ trước đến sau. Trần Kiêm Trợ là cháu của tôi chứ không phải là chú. Chú cháu chúng tôi thân thương và kính nể nhau cả thành phố Sacramento đều biết.
7. Thắc mắc: Tôi gả con gái cho cán bộ báo chí cộng sản và kỳ thị tôn giáo? -Sai!
Con rể tôi là Nguyễn Hùng, một thanh niên Công giáo có thân phụ là trưởng Cần lao Nhân vị Quảng Trị thời tổng thống Ngô Đình Diệm. Hùng sống với chú ruột là linh mục NVN suốt thời mới lớn; hiện đang làm việc cho chính phủ tiểu bang California (muốn kiểm chứng xin mời đến nhà thờ Các Thánh Tử Đạo tại Sacramento vào mỗi sáng Chủ nhật để gặp Hùng, người phụ trách các lớp Việt ngữ cho nhà thờ). Khuynh hướng chủ đạo về tôn giáo của tôi rất cởi mở và thông thoáng. Tôi quan niệm đạo là con đường để dẫn đến chân lý chứ không phải là pháo đài để tấn công nhau giành độc quyền đi tìm chân lý. Bởi vậy, hai trong ba chàng con rể của tôi là người Công giáo. Lễ cưới cử hành tại chùa và nhà thờ rất hài hoà và trang trọng với sự tham dự của bà con thuộc cả hai tôn giáo.
8. Thắc mắc: Muốn đối chứng với “Nguyễn Phi” thì gặp BS Hồ Đắc Phương, cháu rể của tôi ở Sài Gòn? – Sai!
Hồ Đắc Phương chẳng biết ai tên là Nguyễn Phi cả. Nguyễn Phi thật ở San Jose đã không nhịn cười được khi nghe tin nầy. Anh lấy làm lạ hỏi vì sao muốn đối chứng với ông Nguyễn Phi giả nào đó lại phải đi gặp bác sĩ chuyên trị bệnh thần kinh Nguyễn Đắc Phương ở Sài gòn là thế nào; muốn chữa bệnh điên chăng?
9. Thắc mắc: Bài thơ “Về Nguồn” ca tụng sự trở về Việt Nam của Phạm Duy? – Sai!
Bài thơ “Về nguồn” làm theo lối cổ phong hát nói, thường hai câu kết luận là ý xương sống toàn bài. Đây là hai câu kết luận: “Qua hết tuần trăng, bóng tối lại về.” Không lẽ “bóng tối lại về” là sự ca tụng chế độ CS, ca tụng sự trở về của PD sao? Tội nghiệp cho thơ tôi thì ít mà tội nghiệp cho sự khập khiễng hồn thơ của những “ma quỷ chống cộng tào tháo” lại nhiều!
10. Thắc mắc: Tôi về đọc tham luận tại Việt Nam và Vesak, tham dự hội nghị Việt Kiều? – Sai!
Tôi chưa bao giờ đọc tham luận một mình hay hợp tác với ai ở Việt Nam cả. Tôi cũng chẳng để ý hay quan tâm đến hội nghị Việt Kiều hay sinh hoạt gì tương tự ở Việt Nam hay bất cứ ở đâu.
11. Thắc mắc: Tôi có khuynh hướng thân cộng? – Sai!
Năm 1986, tôi được anh chị em sinh viên đại học CSUS (California State University of Sacramento) bầu làm chủ tịch Hội Sinh viên Việt Nam (VSA). Nhu cầu xác định khuynh hướng chính trị tưởng như mơ hồ nhưng lại thể hiện rất mạnh mẽ khi đối diện với thực tế. Việc đầu tiên của VSA, theo luật lệ của nhà trường, là phải có một giáo sư cố vấn cho Ban chấp hành. Từ các năm học trước, giáo sư cố vấn là một giáo sư Việt Nam trong trường. Tôi cùng các anh em trong ban chấp hành đến tiếp xúc với vị giáo sư người Việt đó để mời làm cố vấn. Giáo sư đồng ý nhưng với điều kiện là trong các buổi sinh hoạt, VSA không được chào cờ và hát quốc ca (thật ra, đây là nếp sinh hoạt chung của sinh viên Mỹ chứ chẳng phải là thái độ chính trị gì cả). Tôi từ chối với lập luận rằng, hồn nước của kẻ tha hương chỉ còn chút biểu tượng là lá cờ. Chúng tôi ở miền Nam chọn cờ vàng ba sọc đỏ làm biểu tượng. Tôi quyết định không mời vị giáo sư nầy nữa và đi tìm một giáo sư người Mỹ là Dr. Richard Cobb, trưởng khoa Business của trường CSUS làm cố vấn vì ông không phản đối việc VSA chào cờ và hát quốc ca mỗi lần sinh hoạt.
Những năm 1987 và 1988 tại Mỹ mà nổi bật nhất là ở California, một phong trào nổi lên đòi thay đổi cờ vàng 3 sọc đỏ và chọn bài “Việt Nam-Việt Nam” của Phạm Duy làm quốc ca thay cho bài “Tiếng gọi sinh viên” của Lưu Hữu Phước. Tôi đã mạnh mẽ phản đối khuynh hướng nầy. Bài chính luận đầu tiên của tôi trên đất Mỹ về đề tài nầy là bài “Quốc Ca: Tín hiệu hay pháp lệnh” góp ý rằng, mặc dầu khối người Việt tỵ nạn cộng sản tuy không còn lãnh thổ và chính quyền, nhưng vẫn còn những con người quốc gia không cộng sản hiện diện, chúng ta phải duy trì cờ vàng ba sọc đỏ và quốc ca “Này công dân ơi” làm tín hiệu và biểu tượng cho quân dân miền Nam đang lưu vong ở xứ người. Bài viết nầy lần đầu đăng trên Giai phẩm Bách Việt số 2 tháng 4, 1988 của hội Bách Việt, và sau đó được phổ biến rộng rãi trên các báo chí Việt ngữ hải ngoại. Những người trong ban chấp hành Hội Bách Việt thời kỳ 1987, 1988 như bác sĩ Hoàng Gia Hùng, ông Vũ Đình Bôn, ông Huỳnh Hóa, ông Vũ Xuân Đào, ông Lê Thành Việt, ông Đặng Long Quân, ông Nguyễn Lam Sơn… hiện đang có mặt tại thành phố Sacramento. Trong cao trào vận động chính quyền các nước tự do vinh danh cờ quốc gia, tôi là người thứ 3 ký tên trong Thỉnh nguyện thư tại Sacramento gởi chính quyền Hoa Kỳ. Vì đây là bản văn công khai nên bất cứ ai cũng có thể ghé văn phòng lưu trữ văn thư của tiểu bang Cali để yêu cầu sao lục và đối chứng danh sách nầy.
12. Thắc mắc: Chủ trương in ấn và phát hành sách báo không được xác định rõ ràng? – Sai!
Suốt gần 30 năm sống và làm việc tại Mỹ, tôi đã có gần cả chục đầu sách, gần cả trăm bài viết và các cuộc thuyết trình trước cử tọa người Việt cũng như người nước ngoài về các vấn đề liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến Việt Nam. Trọng tâm là về các đề tài văn hóa, giáo dục, văn học, nhân chủng, chính trị, tôn giáo… Đa số các cuốn sách hay bài viết đã đăng trên báo chí Việt ngữ và Anh ngữ hay còn được giữ dưới dạng hồ sơ lưu trữ. Trong các tài liệu nầy, tôi chỉ có 3 điều chính để nói: (1) Vinh danh và giới thiệu văn hóa dân tộc Việt Nam, (2) chống độc tài, áp đặt và ngược đãi bất cứ từ đâu đến và mang bất cứ nhãn hiệu nào, (3) kêu gọi sự hiểu biết nghiêm túc để hóa giải nguyên nhân và hậu quả những xung đột về tư tưởng cũng như hành động.
Về kỹ thuật và phương tiện truyền thông đại chúng, tôi quan niệm rằng, sản phẩm trí tuệ khi đã được viết ra và công bố dưới bất cứ hình thức nào đều trở thành tài liệu công cộng. Bởi vậy, tất cả những sách báo đã in ấn của tôi đều ở dạng “tùy nghi sử dụng, tác giả không giữ bản quyền – No copyright reserved”. Đồng thời, tác giả là người chịu trách nhiệm về nội dung bài viết của mình chứ không phải nhãn hiệu của phương tiện truyền thông.
Khi những bóng ma đã cố tình sử dụng hết những chiêu thức tưởng tượng để phóng ra những đòn phép bôi lem người ngay thì sẽ sản xuất ra vô số “thắc mắc”, 12 điều trưng dẫn trên đây chưa thấm vào đâu. Tôi tin vào đạo lý của con người “thiện ác đáo đầu chung hữu báo” nên rất thanh thản và an lạc trước mọi sự khen chê, thản nhiên về những đòn phép gian tà đang và sẽ xảy ra trong môi trường truyền thông đại chúng. Tạm thời, tôi chỉ mong dư luận nếu muốn biết những khía cạnh liên quan đến quan điểm và khuynh hướng chính trị, tôn giáo, xã hội, học vấn, việc làm… của tôi thì xin vui lòng ghé vào trang thông tin điện tử của tôi ở địa chỉ: www.Trankiemdoan.net
Kết luận
Thế hệ già đang đi qua, thế hệ trẻ đang tới. Nếu thế hệ đàn anh không tự giúp mình và giúp nhau ngoi lên được khỏi cái vòng lẩn quẩn của tâm lý cực đoan, không định hướng, chụp mũ, chống báng, chối bỏ nhau, thế hệ đàn em sẽ trở thành người xa lạ với lý tưởng quốc gia dân tộc mà chúng ta đang ra sức đấu tranh. Người Việt mà nhất là tuổi trẻ ở nước ngoài càng lâu càng có khuynh hướng trở thành “con cháu ngoại” của đất nước và cộng đồng dân tộc tại địa phương mình ở. Có tương kính và tương thân thì tham gia sinh hoạt với “người mình”. Ngược lại, thì sinh hoạt với người xứ khác chẳng thiếu gì trong xã hội Mỹ. Sự tha hóa hay giữ được giống nòi nơi đất khách là trách nhiệm của cộng đồng và thế hệ đàn anh.
Duy thức học Phật giáo trong quá trình phân tích cuộc đấu tranh thiện ác trong tâm thức của mỗi con người đã nói rằng, xung đột nên hóa giải, định kiến nên buông bỏ, hoài nghi nên giải trừ thì tâm ác sẽ tiêu tan, tâm lành mới hiển lộ; cũng như chỉ có ánh sáng mới xua tan bóng tối. Ước mong những con ma sớm trở lại làm người – mẫu người lương thiện.
Sacramento, tháng 11, 2009
© 2009 Trần Kiêm Đoàn
© 2009 talawas blog
@ Nam Phan
1/ Nếu mấy ông Đại Việt đó không vui thì họ phải ráng mà chịu. Muốn tìm hiểu lịch sử mà lại e ngại làm cho kẻ khác mất vui thì tốt nhất không nên tìm hiểu.
2/ Năm 2013: Như đã nói ngay sau khi xuất hiện trên DĐ talawas, tôi đã phải tự học tiếng Việt tại hải ngoại. Vì vậy, tốc độ viết rất thấp. Do đó nên tôi phải đặt mình vào cái thế phóng lao thì phải theo lao để thúc đẩy mình viết nhanh hơn. Vì nếu đến ngày 1 tháng 11 năm 2013 mà không có chữ nào trên giấy để trình báo với Cách Mạng thì tôi chỉ có nước độn thổ trốn ra khỏi DĐ này.
Điều chắc chắn là cái mà Nam Phan gọi là “quả bom nổ chậm 2013″ nhất định sẽ không ghê gớm bằng chất nổ của Đại úy James Scott.
3/ Sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm đã dạy cho tôi bài học không nên quá tham lam.
Trong phản hồi ngày 21/11/09 lúc 7:50 sáng, ông Trần Lâm viết: “Có lẽ các nhà nghiên cứu sử Việt sẽ phải tìm hiểu mối liên hệ nhân quả có thể có giữa chính sách nói trên (tiêu diệt thành phần đối lập chống cộng) cuả chế độ Diệm và sự rối loạn tại miền Nam sau khi nó sụp đổ…”
1) Nói như ông Trần Lâm thì các đồng chí của các ông Phan Huy Quát, Nguyễn Tôn Hoàn, Hà Thúc Ký và ông Bùi Diễm không vui tí nào!
2) Đây là dịp ngàn năm có một để người viết sử Việt, Trần Lâm tung “quả bom nổ chậm 2013” làm rung chuyển thế giới. Cũng xin gợi ý với ông Lâm là nếu chỉ giới hạn ở thời điểm sau 1963 thì ngắn lắm, tội chưa to. Vì “nhân dân”, ông nên kéo dài cái “quả” ra cho đến bây giờ, nếu cần kéo luôn cho đến mai sau, nếu chẳng may, VN biến thành tỉnh, huyện cuả Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa thì tội lỗi cuả chế độ Diệm mới bự!
ĐG 1mitee thường nói đến số tiền mà Mỹ đã cấp cho các tướng lãnh đảo chánh Ngô Đình Diệm trong những ngày tàn của chế độ. Điều mà ĐG này không nói đến là chính người Mỹ cũng đã từng cấp tiền cho những kẻ có thế lực tại Miền Nam để cũng cố vị thế của ông Diệm trong gia đoạn phôi thai của chế độ do ông lãnh đạo.
Trong bài phê bình cuốn “In the Midst of War” do tướng E. Lansdale viết, David Chandler cho chúng ta biết một điều lý thú như sau khi Chandler ám chỉ Lansdale đã thiếu thành thật:
“In ‘The Two Vietnams’, Bernard Fall quotes Lansdale as saying that over 8 millions dollars went to the sect leaders in ‘back pay’ to purchase their loyalty to Diem; in ‘In the Midst of War’, no money changes hands.”
Xem toàn bộ bài điểm sách đó ở đây:
http://www.scribd.com/doc/14105514/lansdale
Nguyễn Kỳ Phong cũng có nói đến việc này. Xem Nguyễn Kỳ Phong, “Vũng Lầy của Bạch Ốc”, Tiếng Quê Hương, 2006, trang 120 và túc chú 115 ở trang 120-121:
“Theo ước lượng, SMM [nhóm tình báo của Lansdale] bỏ ra 12 triệu dollars mua chuộc đối lập, trong đó có 3 triệu 6 cho tướng Nguyễn Thành Phương và 3 triệu cho Trần Văn Soái…Năm 1979, Lansdale gửi thư cho Viện Quân Sử Hoa Kỳ chối về chuyện mua chuộc quân đội đối lập. Tuy nhiên nhiều sử liệu sau này cho thấy Lansdale không nói thật hết những gì đã xảy ra.”
Khi nào có thời gian, tôi sẽ phóng ảnh 2 trang sách này rồi đưa lên blog của tôi cho mọi người cùng đọc.
Hiện giờ tôi chỉ biết tự hỏi liệu chế độ Ngô Đình Diệm có thể vượt qua giai đoạn phôi thai đầy nguy hiểm của nó hay không, nếu không có người Mỹ chi tiền mua lòng trung thành của những thành phần có thế lực tại miền Nam lúc đó.
@bác Trần Văn Tích hỏi đến chi tiết TT Trí Quang có dính líu tình dục đến một thị giả 13 tuổi mà TKĐ cho rằng LT nói trong BĐMT thì tôi kiểm tra quyển sách của tôi, ấn bản 5/2008 do Tập San Biệt Động Quân xuất bản, thì không có chi tiết này trong sách. Tìm hiểu thêm thì biết đó là lời phát biểu của LT trong các buổi nói chuyện ở Sydney, Úc và Virginia, Mỹ hiện vẫn còn trên YouTube khi được hỏi về các vị chân tu “Trí Quang, Đôn Hậu.”
Nội dung như sau: Sau khi bắt TT Trí Quang (6/1966), nhân viên cảnh sát lục soát chỗ ở có tìm được quần lót của phụ nữ. Họ đưa cho LT, LT báo cáo với Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan thì ĐT Loan bảo nên thủ tiêu đi vì tiết lộ ra thì không ai tin đâu, lại có thể bị tố cáo là dựng chuyện! LT vẫn cho điều tra, tìm hiểu thì biết là một cô bé tên là Trần Thị Tuyết, lúc đó nhà ở 59 đường Lam Sơn (nay là đường Điện Biện Phủ), gần chùa Từ Đàm, được cho vào chùa làm việc công quả. Sang năm cô 13 tuổi thì bị TT Trí Quang bắt đầu sách nhiễu tình dục. Chuyện này kéo dài đến năm cô ấy 18 tuổi thì được đi học ban Việt Hán ở Văn Khoa Huế.
Khi được hỏi có ai ngoài LT biết chuyện này không thì LT cho biết có một số cảnh sát viên điều tra nội vụ hiện nay có mặt ở Mỹ và một vài người vẫn còn đang ở Huế. Nếu cần thì LT sẽ xin phép cho tiết lộ danh tính, số điện thoại để kiểm chứng.
LT cũng cho biết không đưa chi tiết đó vào trong sách vì nó “không đẹp đẽ” gì nhưng nó kiên quan đến tính chất đạo đức của một nhà tu hành, mà lại đầy quyền thế. LT cho biết đang cân nhắc có nên bổ sung chi tiết này cho các lần in saụ. LT cũng dùng câu, “Chiếc áo không làm nên thầy tu.”
Với TT Đôn Hậu thì LT cho biết bà Tuần Chi Đào Thị Kim Yến, cựu hiệu trưởng trường Đồng Khánh, chính là tình nhân của TT Đôn Hậu. Cả hai đều ra Bắc sau Mậu Thân. Bà Tuần Chi cũng là mẹ vợ của cựu TT Trần Văn Trung, Tư lệnh Chiến Tranh Chính Trị của VNCH mà Trung tá điệp viên Hoàng Kim Loan (HKL) khai là làm nội tuyến cho Hà nội. LT cho biết chỉ làm hồ sơ về lời khai của HKL và báo cáo vào Saigon chứ không kết luận về Tướng Trần Văn Trung. Tướng Trung hiện nay ở Pháp.
Trước đây tôi cho rằng sự khả tín của quyển sách BĐMT tùy thuộc quá nhiều vào nhân vật trung tá gián điệp Hoàng Kim Loan và tự hỏi không hiểu một nhân vật như thế có thật không. Nay thì Nguyễn Đắc Xuân, qua bài về LT mới đăng trên talawas, cho biết là đã gặp HKL trên đường ra bưng tháng 7 năm 1966. Như thế thì HKL đúng là có thực, không phải một nhân vật hư cấu như nhiều người chỉ trích quyển BĐMT.
@Hoà Nguyễn: Nếu Hoà Nguyễn cho rằng việc TT Trí Quang nhận 2 triệu đồng của CIA Saigon từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1965 là chẳng quan trọng thì cũng nên nhớ là chính các đệ tử của Trí Quang đã tố cáo TT Tâm Châu nhận tiền của Mỹ để tấn công và bức bách TT Tâm Châu phải đào nhiệm để bảo vệ mạng sống của mình. Hơn nữa, cứ tưởng tượng TT Trí Quang, một tay đút túi tiền của CIA, tay kia phát động đấu tranh, kêu gọi đuổi Mỹ về nước, đốt phá Trung tâm Văn hoá và thư viện Hoa Kỳ ở Huế thì đó là hình ảnh của một chân tu, đạo cao đức trọng?
Xin giới thiệu thêm bài viết sau đây cũng liên quan đến TKĐ, tranh đấu miền Trung 1966, vấn đề đàn áp tôn giáo thời TT Ngô Đình Diệm, v.v…:
http://vietland.net/main/showthread.php?p=27146#post27146
Về Làng Mai – Tăng sinh Bát Nhã.
Tăng sinh Bát Nhã kêu cứu LHQ (đài RFA)
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Buddhists-in-vietnam-appeal-for-un-protection-part1-gminh-11212009095731.html
Trích:
Thầy Thích Trung Hải: Chúng tôi đã gặp được thư ký của chủ tịch Cao ủy LHQ và qua văn phòng của Cao ủy Nhân quyền LHQ, chúng tôi cũng trình bày lại vấn đề của tu viện Bát Nhã và những người tu tập theo Pháp môn Làng Mai tại VN.
………….
Tại Brussels, chúng tôi được tiếp xúc khoảng hơn 20 nước có liên hệ hợp tác với VN, nước nào cũng bày tỏ sự đồng cảm và thương yêu, cũng như yêu cầu bảo vệ và trân trọng những người trẻ đang tu tập theo Pháp Môn Làng Mai tạm trú tại chùa Phước Huệ sau thời gian gặp khó khăn tại tu viện Bát Nhã. Người nào cũng hứa sẽ tìm mọi cách để truyền thông với VN và cho VN hiểu rằng đó là một gia tài của đất nước VN.
Về Trần Kim Đoàn – Imitee
CIA là cơ quan tình báo Mỹ, đương nhiên tìm hết cách để xâm nhập vào các tổ chức họ quan tâm. Dùng tiền bạc làm phương tiện là một cách để tiếp cận đối tượng. Dù sao, 2 triệu đồng mà CIA đưa cho TT Trí Quang có lời ghi chú rất rõ là để huấn luyện. Thời đó, phong trào Phật giáo lên rất cao, nhiều người muốn tìm hiểu về PG hay xuất gia, nhưng sách báo PG rất hiếm, chùa chiền không đủ (chính TT Trí Quang và nhóm tăng sĩ từ miền Trung vào bị “đuổi” khỏi chùa Xá Lợi phải qua tá túc chùa Ấn Quang. TT Nhất Hạnh tổ chức Thanh niên Phụng sự xã hội, gồm tăng ni trẻ và nam nữ sinh viên, thanh niên, đi cứu giúp dân nghèo, đặc biệt ở miền Trung lúc đó đang bị lũ lụt nặng, đại học Vạn Hạnh mới thành lập…, cho nên Phật giáo rất cần tiền. CIA thừa biết cơ hội tốt để tìm đến, nhưng hai triệu đồng từ CIA (chắc chắn họ nhân danh Mỹ, không phải CIA) cho là giúp trong việc huấn luyện của Phật giáo, cũng chỉ là để gây thiện cảm với PG, nhưng thật ra không thấm vào đâu. Và chỉ vài tháng sau đó, tình hình biến động cho thấy Phật giáo hay TT Trí Quang không bị Mỹ mua chuộc được.
Theo hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng” của Trần Văn Đôn, CIA muốn theo dõi tổ chức đảo chính trước ngày 1-1-63 mà không được, tuy CIA đã có hai người của họ là Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Khánh. Mỹ ủng hộ cuộc đảo chính, nhưng trước khi quân đội tuyên bố hành động, TT Kennedy không được báo rõ về ngày giờ đảo chính và người cầm đầu là ai (là tướng Dương Văn Minh). Ngày 28-10-63, tướng Đôn gặp đại diện của đại sứ Mỹ Cabot Lodge là Conein (không phải CIA, tuy cũng là chuyên viên tình báo), Conein đề nghị giúp tiền để uỷ lạo lính, vì cuộc đảo chính phải kéo dài vài ngày, Đôn không nhận. Ngày 1-11, lúc 1giờ 30, khi Conein được Trần Văn Đôn mờì vào bộ Tổng Tham mưu, có đem theo 3 triệu đồng VN. Số tìền này tướng Đôn chia cho các đơn vị để ủy lao lính đảo chính (VNNC trang 210). Cũng nên biết, số tiền 3 triệu đồng đó đối với Trần Văn Đôn cũng không lớn so với tính mạng, chức vụ và tài sản ông sẽ mất nếu đảo chính thất bại (ông Đôn ngoài tài sản của bản thân, phải kể thêm vợ ông thuộc gia đình giàu thứ nhì ở Nam Bộ).
Đã nói về tiền bạc thì nói thêm phía bên bị đảo chính. Ngày 23-3-65, dưới chính phủ mới lên mệnh danh là “chính phủ của dân nghèo” (chỉ nghèo lúc mới lên) của Nguyễn Cao Kỳ, “Hội đồng chính phủ quyết định chia 160 triệu bạc tịch thu của họ Ngô cho đồng bào, học sinh và gia đình binh sĩ nghèo, ngoài ra còn bán đấu giá các bất động sản và xí nghiệp cùng trái khoán tịch thu của nhà Ngô” (trích “Việt Nam Máu lửa Quê hương tôi” của Đỗ Mậu, trang 694). Vậy kể cả bất động sản và những thứ khác tịch thu từ gia đình họ Ngô phải hơn 200 triệu đồng VN lúc đó. Ở đây (trên talawas) có lần ai đó nói về đời sống của bà Trần Lệ Xuân (bà Nhu) sau này ở Pháp thì có người phản đối, cho bà ấy sống như nữ tu đạo hạnh. Điều này có thể đúng, nhưng chắc chắn bà Nhu sống thoải mái hơn Bảo Đại (có lúc bệnh BĐ nằm bẹp trong một apartment không ai chăm sóc), khi bà Lệ Xuân có hai ngôi nhà ở giữa Paris, một để ở và một để cho thuê. Về tiền mua nhà, thì người viết bài tường thuật cuộc đời bà Nhu cho là của Đức Cha Ngô Đình Thục cho, nhưng Đức cha Thục lúc đó đã về hưu làm gì để có tiền nhiều như vậy (GM Thục già chết ở Mỹ). Lữ Giang mới đây có bài viết kể chuyện ông Ngô Đình Diệm đã gửi cho một linh mục dòng Chúa Cứu thế ở Sài Gòn số tiền 10 triệu mỹ kim (USD), và bảo là ông Diệm lấy từ quỹ đen dành dụm để phòng chống đảo chính?! Quỹ đen thì cũng tiền của nhà nước, và nếu là mỹ kim chắc là tiền của Mỹ viện trợ. Nên biết một trong những bất đồng giữa Mỹ và chính phủ Diệm là Mỹ muốn viện trợ trực tiếp cho các đơn vị quân đội và các tỉnh ở địa phương, còn hai ông Diệm và Nhu muốn tiền viện trợ phải thông qua chính phủ trung ương, như vậy có lẽ vì Mỹ thấy tiền viện trợ bị ăn chặn. Câu cuối này còn là thắc mắc của tôi, không phải xác quyết, nhưng chuyện bất đồng ý kiến về cách viện trợ cuối thời ông Diệm được nhiều tác giả ghi nhận.
@ 1mitee
A) “Còn cho rằng việc một xã hội không thể để một thiểu số cai trị là một quan điểm thiển cận, kỳ thị và hàm ý độc tài: sự độc tài của đa số. Đó là lý do có thể chế cộng hòa trong việc cai quản một đất nước, vì nếu chỉ thực thi dân chủ thuần túy thì thành phần thiểu số sẽ không thể nào sống nổi theo mô hình cai trị của TL.”
———–
Tôi sẽ phân tích mối tương quan cần phải có giữa đa số và thiểu số trong một bài viết về thể chế dân chủ pháp trị. Qua những con số nói trên tôi chỉ muốn nhấn mạnh khả năng chính trị ngoại hạng của tín đồ Công giáo VN, một điều không thể quên được trong việc xây dựng một VN dân chủ thời hậu CS.
B)”Và phải có sự tách biệt giữa thần quyền và thế quyền. Các vị tu sĩ, tăng ni tôn giáo chỉ lãnh đạo tinh thần và không can thiệp vào sinh hoạt chính tri thế tục.”
Nếu anh em dòng họ Ngô Đình thấu hiểu được điều này thì miền Nam đã tránh được nhiều việc rất đáng tiếc.
@Hòa Nguyễn:
Trích phản hồi bài thứ nhất của TKĐ:
“Nhân nói về TT Trí Quang, một tài liệu vừa do CIA giải mật tháng 3 năm 2009, “CIA and the Generals – CIA và các tướng lãnh,”
http://today.ttu.edu/wp-content/uploads/2009/03/01-cia-and-the-generals.pdf
có vài chi tiết liên quan đến TT Trí Quang và Tết Mậu Thân như sau:
– Trang 38: Từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1965, TT Thích Trí Quang đã nhận của CIA 2.000.000 (2 triệu) đồng Việt Nam, tương đương 12.500 đô la lúc bấy giờ. Giải thích của CIA ở Sài Gòn là để giúp TT Trí Quang huấn luyện (training), nhưng Tổng Hành Dinh CIA ở Mỹ lại lo ngại TT Trí Quang có thể dùng tiền đó để huấn luyện biểu tình phản kháng!
(Cũng nên nhắc lại là nhân viên CIA Lou Conein đã chi cho các tướng lãnh chỉ 3 triệu đồng Việt Nam khi lật đổ chế độ và giết hai anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu! Rất nhiều sách về chính biến 1/11/1963 có đăng lại biên lai nhận tiền của các tướng.)
Một câu hỏi được đặt ra là TT Trí Quang nhận tiền của CIA để làm gì? Ông hoạt động gì cho CIA? Có phải TT Trí Quang vừa hoạt động cho cộng sản, như Liên Thành khẳng định trong “Biến Động Miền Trung,” mà cũng vừa làm việc cho CIA hay không?
Có lẽ câu hỏi này chỉ được trả lời nếu có sự giải mật của các tài liệu từ Bộ Chính Trị đảng CSVN ở Hà Nội nhưng chắc chắn lịch sử sau này sẽ có câu trả lời cho nghi vấn này!”
@Trần Lâm:
Việc TL cứ lặp đi lặp lại là 90% dân Miền Nam là bên Lương (theo Phật giáo và Thờ cúng Tổ tiên?), như thế thì dân Công giáo chắc chắn là ít hơn 10%. Vậy nếu các liên danh Công giáo đắc cử vào Quốc Hội VNCH hồi 1971 hẳn phải có sự ủng hộ của các cử tri bên Lương, hay là TL có hàm ý rằng tất cả các liên danh CG đắc cử là do gian lận phiếu cử?
Hay TL cho rằng bên Lương phải có 90% đại biểu, bên CG 10%, tương ứng với số tín đồ? Nếu vậy thì quan điểm theo hạn ngạch (quota) đó ấu trĩ quá!
Còn cho rằng việc một xã hội không thể để một thiểu số cai trị là một quan điểm thiển cận, kỳ thị và hàm ý độc tài: sự độc tài của đa số. Đó là lý do có thể chế cộng hòa trong việc cai quản một đất nước, vì nếu chỉ thực thi dân chủ thuần túy thì thành phần thiểu số sẽ không thể nào sống nổi theo mô hình cai trị của TL.
Người tài thì đắc cử theo thể thức tranh cử, vận động, bầu phiếu theo đúng quy định của pháp luật.
Và phải có sự tách biệt giữa thần quyền và thế quyền. Các vị tu sĩ, tăng ni tôn giáo chỉ lãnh đạo tinh thần và không can thiệp vào sinh hoạt chính tri thế tục.
A) Những “âm thanh và cuồng nộ” về TT Trí Quang có thể đã che khuất một nguyên nhân sâu xa hơn phía sau những xáo trộn trầm trọng tại miền Nam trong giai đoạn 1964-1966. Đó là chính sách tiêu diệt các thành phần đối lập chống Cộng của chế độ Ngô Đình Diệm. Có lẽ các nhà nghiên cứu sử Việt sẽ phải tìm hiểu mối liên hệ nhân quả có thể có giữa chính sách nói trên của chế độ Diệm và sự hỗn loạn tại miền Nam sau khi nó sụp đổ. Chỉ nói đến vài trò của TQ mà không đề cập đến việc dòng họ Ngô Đình nhất quyết không cho phép bất cứ một lực lượng chống Cộng nào được phát triển và trưởng thành để nó có thể lên nắm chính quyền và duy trì trật tự xã hội là hình như chỉ nói về “quả” và lại bỏ qua “nhân”.
B) Với 90 % dân Miền Nam là người Lương, chủ trương đòi dân chủ hóa chính trị là chủ trương tương đối hữu hiệu nhất để ngăn chặn thiểu số Công giáo có thể (tái) thiết lập một chế độ thiểu số trị tại Miền Nam Việt Nam. Nhưng do những xuẩn động của TQ cũng như nhóm Phật tử miền Trung, chủ trương này hoàn toàn bị phá sản. Cuộc bầu cử 1967 không những đưa một tín đồ Công giáo lên ngôi Tổng thống, mà còn khiến cho 1/2 đến 2/3 số ghế trong Thượng viện, cơ quan lập pháp tối cao của Miền Nam, rơi vào tay Giáo dân, một thiểu số chiếm 10% dân số.
C) Sau cuộc bầu cử 1967, người con cầu tự Nguyễn Cao Kỳ có thể được xem như là thế lực không Công giáo đáng kể cuối cùng tại Miền Nam, nhưng sau khi những sĩ quan thân tín của ông, theo lời tuyên bố chính thức của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ, bị một chiếc trực thăng Mỹ bắn lầm trong Đợt 2 của biến cố Mậu Thân, thì thế lực nói trên cũng không còn nữa.
D) Những điều vừa được nêu trên có thể là những điều cần phải được ghi nhớ trong việc xây dựng một Việt Nam thật sự dân chủ trong một tương lai hậu CS để giúp dân VN khỏi phải sống một lần nữa dưới một chế độ thiểu số trị.
Xin thêm một định nghĩa nữa cho IM LẶNG:
IM LẶNG dỗ dành giấc mơ,
Đối đầu thực tại còn ngờ chiêm bao!