talawas blog

Chuyên mục:

Lâm Hoàng Mạnh – Nụ cười đời tỵ nạn (4)

11/02/2010 | 5:48 chiều | 1 phản hồi

Tác giả: Lâm Hoàng Mạnh

Category: Đời sống, Quan hệ Việt-Trung
Thẻ: >

Xem kỳ 1, 2, 3

Sau vài năm cuộc sống ổn định, nhiều gia đình sinh thêm con. Thật kỳ lạ, hầu hết các cháu mới sinh là gái, ai cũng đặt tên con là Hương. Thu Hương, Ngọc Hương, Thanh Hương, Lan Hương, Xuân Hương… Xa Việt nam thấm thoát đã hơn 7 năm, ai cũng nhớ miền quê của mình, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi có bờ tre, đình làng, cây đa, bến đò, dòng sông, ao cá, khoảng trời xanh, nơi mùa mưa tiếng ễnh ương ộp oạp vang xa, nơi mùa thu xào xạc lá vàng bay, nơi xuân về, giao thừa hái lộc trong mưa phùn rét ngọt. Thèm nghe tiếng gà gáy sáng, tiếng cục ta cục tác con gà nhảy ổ, thèm cả gầu nước giếng mát rượi giữa trưa hè oi ả, sân kho… tất cả, tất cả vẫn không phai mờ trong ký ức chúng tôi.

Năm 1981 vợ chồng chú Th. sau khi ở trại Wishaw ra nhà riêng, thêm cháu gái, năm 1986 lại thêm cháu gái nữa sau khi rời nhà Jimmy. Vợ chồng S, Ph, cũng thêm 2 tố nữ. Lúc đầu ai cũng mừng, sang nước người thế là lãi, thêm con thêm của, nhưng cái gì nhiều cũng chán, khi nhìn đâu cũng toàn lũ “vịt giời”. Bạn bè khuyên vợ tôi “tăng tốc” vài đứa cho bằng chị bằng em, nhưng với tôi ba là đủ, hơn nữa có những “hai gậy chăn vịt”, không những thế trời lại cho sinh đôi. Tuyệt quá còn gì, hơn đứt nhiều người! Chẳng cần tăng tốc, mấy ai đã đuổi kịp!

Thị xã tôi nhỏ bé thế mà cũng nhiều chuyện bi hài về con trai con gái. Nhà anh chị H. có 9 thằng con, gần một tiểu đội lính. Anh làm công nhân nhà máy điện, chị ở nhà lột nứa cùng đàn con đan cót kiếm thêm. Thời bấy giờ mọi thứ theo tem phiếu, đứa lớn chưa tròn 15, đứa bé chưa đến tuổi lên hai, đang tuổi ăn như tằm ăn rỗi, chạy 2 bữa cơm ngô cũng đủ mệt người. Nhà anh ba gian hai chái, ở sát bìa rừng, phên tre nứa lá, khá rộng. Tất cả giường, bàn, ghế… đều làm bằng bương tre, riêng có chiếc sập gụ kê giữa nhà của cụ cố để lại là đáng tiền. Sát sân trước cửa, một gian nhà ăn, bàn ghế cũng bương tre nứa, như lán quân đội. Giờ cơm, anh dùng chiếc bu-loong gõ lên mảnh bom làm kẻng gọi “đàn lính”, đứa lớn giúp mẹ đan cót, đứa bé tha thẩn chơi quanh, hễ nghe tiếng kẻng, chúng ào ào như chim về tổ, ngồi xuống 2 hàng ghế bên bàn. Hai đầu bàn, hai nồi cơm độn, anh chị quản lý, ngô xay nhiều hơn cơm, giữa bàn thường ba đĩa rau muống luộc chấm mắm cua đồng hay canh măng nấu muối, cà pháo muối xổi, hôm nào sang có thêm nồi đậu phụ kho cà-chua hay dăm con tép, cá vụn mà chúng tát suối bắt được. Anh chị thay nhau xới cơm không kịp, ào ào một chập, như tằm ăn rỗi lá dâu. Có hôm thiếu, thằng lớn bê nồi vào bếp còn cố cạo miếng cháy dính đáy, tiếng cạo nồi xồn xột đến nỗi chị H. phải quát yêu, “cạo vừa thôi, thủng nồi bây giờ, ông tướng ạ!”

Ngày Chủ nhật anh dẫn đàn con vào rừng chặt nứa, kiếm củi, kiếm măng. Nghèo nhưng gia đình anh đầm ấm. Đông con như thế mà anh chị vẫn ước ao có thêm cô gái rượu, chị bảo, “Mai kia già yếu, con gái mới chăm mẹ, giường cứt chiếu đái, chứ trông nhờ gì mấy thằng quỷ sứ. Còn con dâu, á? Sức mấy nó chăm nom mẹ chồng”.

Cầu được ước thấy, cuối năm 1976, chị sinh cháu gái. Mừng ơi là mừng! Anh chị đặt tên con Lê Kim Chi, cành vàng lá ngọc của anh chị, đón cô gái rượu từ nhà hộ sinh về, anh gọi 9 lính con xếp hàng, ra hẹn:

“Đứa nào làm con gái rượu của tao thức giấc hay đánh ngã nó thì chết đòn, nghe rõ chửa?”

Nói xong, anh vừa cầm cái roi song bằng ngón tay, vụt đét 1 cái xuống chiếc sập gụ giữa nhà. Chín “quỷ sứ” giật mình thót một cái, sợ xanh mặt. Quát mắng, dộ nạt thế thôi chứ anh chị thương con lắm, chưa bao giờ anh đánh con, nhưng chúng sợ anh một phép.

Tôi chỉ có 2 thằng con ấy thế mà nhiều lúc thót tim, anh chị H. có những 9 đứa đang tuổi nghịch, quậy phá, cho nên anh chị cũng bị nhiều lần suýt “tim đứng”.

Khi cô gái rượu được 7 tháng, ở nhà với 9 ông anh, mẹ đi chợ. Chả biết trông em thế nào, mẹ về, trán Kim Chi sưng vù bắng quả sung non, tím bầm. Vừa ôm con, chị vừa chì chiết:

“Bố mày về thì toét đít”.

Chả là thằng thứ 3 tranh nhau quả ổi xanh, giằng giật nhau làm Kim Chi trên tay thằng thứ 2 đánh rơi em, đầu đập xuống đất. Nhớ đến chiếc roi song đét xuống phản, hai thằng mặt cắt không còn tí máu, nháy nhau chạy trốn vào rừng.

Bữa cơm chiều, thiếu 2 thằng, anh biết nó sợ, trốn quanh đâu đó, thôi kệ, cứ ăn, nó về mò nồi ăn sau cũng được. Tối khuya không thấy chúng về, anh chị bắt đầu lo, cả nhà nháo nhác đi tìm. Sau một hồi gọi khản cả tiếng, anh gọi 7 lính còn lại xếp hàng ngay giữa sân, anh hỏi:

“Lũ quỷ sứ, có biết thằng Nhị, thằng Tam trốn đâu không?”

Tất cả đều lí nhí trong mồm:

“Con không biết ạ”.

Đến 10 giờ đêm vẫn bặt tin, anh chị lo cuống cuồng, nhờ hàng xóm đốt đuốc vào rừng đi tìm. Tìm đâu ra, rừng xanh huyền bí, màn đêm dày đặc, chẳng ai dám vào sâu, chỉ tìm quanh quanh ven rừng. Bây giờ anh chị mới bắt đầu sợ, chị khóc sướt mướt, hờ con. Cả đêm anh chị trằn trọc, thao thức.

Sáng sớm tinh mơ, hai quỷ sứ lù lù dẫn xác về, đứng ngay trước sân, anh chị mừng quá, ôm chặt lấy con mà khóc. Hóa ra, đêm qua, sợ quá, 2 thằng cứ thế chạy một mạch vào rừng, rồi lạc lối. Đêm khuya, không biết đường về, chúng trèo lên cây ngủ, mờ sáng mò về, vừa đói vừa khát, mặt mày nhem nhuốc, trông thật tội. Anh chị quên luôn cái tội đánh ngã “công chúa”, bảo, lần sau không được vào rừng đêm, nhớ chửa.

Anh T., công nhân nhà máy cưa lại khác, có 5 tố nữ, anh bảo, con anh toàn lũ vịt giời, mai kia chúng bay ráo, trơ lại hai cái thân già, ai người nuôi dưỡng? Khi chết, đến đứa chống gậy đưa ra đồng cũng không có, nhục không? Hết ca làm, anh thường ngồi la cà quán cóc, hút thuốc lào vặt, đánh rắm rong, chứ nhất định không muốn về. Năm 1975, vợ anh sinh được thằng cu, nhân đầy cữ, anh mổ ngay con lợn gần 40 kí khao bạn bè, hàng xóm. Anh hỉ hả lắm, men rượu làm anh phấn khởi, tâm sự, trước kia mỗi khi hết ca, chẳng muốn về. Hễ về đến nhà quay ra quay vào, nhìn đâu cũng rặt đàn bà, nhà toàn mùi l. là mùi l… Chán lắm!

Sau khi làm thủ tục xuất cảnh xong, gần 5 giờ chiều ngày 15-6-1979, ba thuyền chúng tôi rời bến Máy Chai do sà-lan kéo, công an ngoại kiều Hải Phòng hộ tống. Hơn 24 giờ lên lênh đênh trên vịnh Bắc Bộ, khoảng 6 giờ tối ngày 16-6-1979, chúng tôi đến phao số Không, họ cắt dây. Trước khi xà lan quay mũi lái, tên đại úy Hùng, Ban Ngoại kiều Hải Phòng, chúc một câu xanh rờn:

“Chúc bà con ăn cá, đừng để cá ăn!”

Tất cả chúng tôi căm lắm, chửi thầm. Đẩy người ta ra biển, sống chết cách nhau gang tất, thế mà chúng nỡ mở mồm nói gở như vậy.

Trời bắt đầu chạng vạng, chủ thuyền, tài công không dám mạo hiểm ra khơi. Đêm ấy cả ba thuyền thả neo gần đảo Ngọc nghỉ lại, bị bọn bộ đội đảo Ngọc trấn lột như những tên cướp biển thực thụ, chỉ khác xuồng chúng treo cờ đỏ sao vàng chứ không phải hình đầu lâu xương chéo. Tên đứng đầu cướp biển đeo quân hàm thiếu úy trong quân phục công an nhân dân vũ trang nhà nước CHXHCN Việt nam quang vinh với nét mặt bặm trợn.

Khoảng 11.30 p.m, chúng tôi đang ngủ, bỗng nhiên tiếng xuồng ca-nô từ đâu dội lại, sóng đánh vào mạn thuyền, thuyền tròng trành, chao đảo, tất cả bừng tỉnh, chưa hiểu đầu cua tai nheo, đã thấy 6-7 tên sï quan và lính biên phòng đảo Ngọc từ xuồng máy nhảy lên thuyền, một tay lăm lăm khẩu AK, một tay chiếc đèn pin soi vào mặt từng người chúng tôi với giọng nạt nộ:

‘‘Điện khẩn chúng tôi vừa nhận được (?) có 3 thuyền vượt biên trái phép, tất cả phải ngồi im, chống cự sẽ bị bắn. Chúng tôi kiểm tra giấy tờ!’’

Trước khi lên thuyền, tên Hùng và đồng bọn (5 tên) đã thu hết sổ hộ khẩu, sổ gạo, tem phiếu, giấy khai sinh, chứng minh thư, bằng cấp… rồi vất vào chiếc nón để trên bàn như thứ giấy lộn. Có nghĩa là, khi chúng tôi bước lên thuyền là con số không: Không tên tuổi, Không tổ quốc, Không nghề nghiệp, chỉ là rác rưởi bị chính phủ CHXHCN Việt Nam tống ra biển, làm gì có giấy tờ. Chúng tôi trở thành kẻ vượt biên bất hợp pháp! Trẻ con sợ hãi, co rúm, bám chặt, nép sát vào cha mẹ. Người lớn ngơ ngác, vừa sợ vừa căm phẫn, nhưng không biết làm gì hơn, đành ngồi yên. Ba thằng đứng chặn mũi thuyền và buồng lái, 4 thằng còn lại xuống khoang, soi đèn pin vào mặt từng người, quát:

“Giấy tờ đâu?”

“Ai là chủ thuyền?”

Khoang thuyền chật ních, tất cả chúng tôi ngồi bó gối, ôm đàn con, tiếng trả lời ồn ào như ong vỡ tổ, trẻ con khóc ré lên, nhiều cụ già chắp tay cầu trời khấn phật phù hộ độ trì tai qua nạn khỏi.

“Công an ngoại kiều thu hết giấy tờ trước khi lên thuyền”.

“Làm gì còn giấy tờ mà kiểm tra”.

“Hỏi đại úy Hùng, ông ta là người thu giấy tờ”.

“Chủ thuyền đâu”

“Dạ, tôi đây.”

“Theo chúng tôi lên gặp ban chỉ huy”.

Chủ thuyền (một tên vô lại đồng hương-chính chúng nhân cơ hội này đã làm giàu từ những kẻ khốn khổ chúng tôi-) phải theo chúng lên đảo, “thương thuyết” gần một tiếng chúng mới chịu “ăn” 5 chỉ vàng mà chủ thuyền nôn ra (nhà thuyền lại bổ vào đầu thuyền nhân) và chúng tôi lại “coi như có giấy tờ, vượt biên hợp pháp”!

Sáng sớm hôm sau (17-6), khoảng gần 5, mặt trời đỏ như hòn than từ từ nhô dần lên khỏi mặt biển, to tròn như cái nong. Phương đông hửng sáng, như giát vàng trên nền trời, một vài dải mây trắng vắt ngang, báo hiệu một ngày đẹp trời. Khung cảnh thật đẹp, nhưng tâm trạng đâu mà ngắm bình minh trên biển. Ba thuyền chúng tôi nhổ neo giã từ hải phận Việt Nam, bồi hồi khôn tả. Thế là hết. Vĩnh biệt! Vĩnh biệt những kỷ niệm vui buồn, vĩnh biệt mồ mả tổ tiên, vĩnh biệt những ngày xưa thân ái. Vĩnh biệt!

Ba thuyền, chỉ có thuyền tôi có buồm và có chiếc máy nổ 25 mã lực. Tiếng máy nổ bành bạch, đẩy nước, đưa thuyền tôi về phía trước chậm chạp như con ốc sên bò giữa biển khơi. Chậm còn hơn không, đến 2 giờ chiều, hai chiếc thuyền buồm rớt lại phía sau chỉ còn như một chấm nâu trên mặt biển. Tài công là một ông già ngoại 60, sâu rượu và khó tính, tất cả thuyền nịnh hơn nịnh bố già. Biết tính mạng hơn 200 con người trong tay ông, ông vòi vĩnh, muốn gì cũng được, chẳng ai dám trái ý.

Trưa ngày 18-6-1979, vợ con tôi cũng như nhiều phụ nữa và trẻ con khác say sóng, nôn mửa, nằm bệt dưới khoang, tôi đang loay hoay lau chùi dọn dẹp, lấy thuốc chống say cho vợ con, bỗng nhiên nghe tiếng loa phóng thanh oang oang:

“Không được vi phạm hải phận của chúng tôi.”

Tất cả mọi người choàng tỉnh, tôi vội lên sạp thuyền xem sự thể ra sao.

Một tàu chiến hải quân Trung Quốc đang áp sát dần thuyền chúng tôi, trên boong tàu, thủy thủ Trung Quốc trong quân phục hải quân, lăm lăm tiểu liên, một dàn đại liên, đại bác chĩa nòng vào thuyền, một sĩ quan tay cầm loa phóng thanh nói bằng hai thứ tiếng Việt và Quảng rất rành rọt:

“Yêu cầu thuyền các ông không được xâm phạm hải phận chúng tôi. Phải rời ngay, hải phận, không sẽ bị tiêu diệt”.

Tôi không thể tin được tai mình. Đây, đồng bào, đồng chí của tổ quốc Trung Hoa vĩ đại của chúng tôi ư? Mới ngày 15-6 khi chưa rời bến Máy Chai, chúng tôi vẫn được chính quyền Đặng Tiểu Bình trên Đài phát thanh Bắc Kinh khoác cho chiếc áo Hoa kiều yêu nước với biết bao mỹ từ tươi đẹp, kêu gọi hồi hương và giờ đây thuyền chúng tôi mới mấp mé hải phận “tổ quốc vĩ đại, thân yêu” thì chính hải quân của Đặng Tiểu Bình đe dọa sẽ nổ súng, tiêu diệt chúng tôi nếu thuyền không rời xa lãnh hải. Hơn 200 người trên thuyền là dân vô tội, đàn bà trẻ con, không tấc sắt trong tay. Họ không cứu trợ, giúp đỡ mà còn đe dọa nhấn chìm chúng tôi giữa biển khơi.

Trước khi cắt dây kéo ở phao số Không, tên đại úy Hùng vét nốt những đống bạc cuối cùng trong túi áo, nửa đêm bọn cướp biển công an vũ trang Đảo Ngọc Việt Nam, thò tay lần vào cạp quần vét nốt những gì còn lại trước khi đẩy chúng tôi ra biển. Giờ đây, hải quân Trung Hoa đuổi chúng tôi ra giữa biển khơi, thuyền có đắm, người có chết cũng không được chết trong lãnh hải Trung Quốc anh hùng! Trời thì cao, biển nước mênh mông làm sao thấu hiểu nỗi khốn khổ này. Chúng tôi những thuyền nhân Hoa kiều vô tội, đứng trước giữa hai làn đạn của hai quốc gia cộng sản từng môt thời vang tiếng hát “Việt Nam Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông, chung một biển Đông thắm tình hữu nghị”. Việt Nam, Trung Quốc xưa kia chúng tôi hoang tưởng là tổ quốc đến ngày hôm ấy chúng tôi đã tỉnh mộng. Chúng tôi là người dân không có tổ quốc, Việt Nam và Trung Quốc chỉ là thứ tổ cò, không hơn không kém.

Khi mạn tàu hải quân Trung Quốc áp sát, chúng tôi già trẻ lớn bé hơn 200 người đứng lố nhố trên sàn thuyền, tất cả đăm đăm nhìn bọn họ. Những mũi súng máy của lính hải quân chĩa thẳng vào chúng tôi như sẵn sàng nhả đạn.

Trước khi ra đi, chúng tôi thường nghe BBC Việt ngữ, anh Đỗ Văn từng đưa tin, rất nhiều thuyền tỵ nạn gặp tàu nước ngoài đuợc cứu trợ, đưa đến nơi an toàn. Không ngờ, thuyền chúng tôi gặp tàu hải quân Trung Quốc, họ không cứu giúp lại tìm mọi cách đẩy chúng tôi ra xa hơn giữa trùng dương nguy hiểm. Họ là ai? Họ chính là người Trung Quốc, là đồng bào, trong huyết quản họ và chúng tôi có chung dòng máu Trung Hoa. Sao họ tàn ác đến như vậy? Họ là người hay loài mãnh thú?

Chủ thuyền bảo, “chúng tôi là Hoa kiều Việt Nam tỵ nạn đi Hong Kong, vì thuyền mỏng, nhỏ bé, đông người, sợ đắm, chỉ xin được chạy sát bờ, chứ không dám xâm phạm đất liền.” Loa phóng thanh vẫn sa sả đuổi và đe dọa. Tài công đành phải lái thuyền xa bờ, sợ sóng tàu làm thuyền chìm.

Tất cả chúng tôi căm hờn và chửi rủa chúng cùng bè lũ Đặng Tiểu Bình thậm tệ sau khi chúng đi xa.

Mùa mưa bão ờ Vịnh Bắc bộ bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 10 dương lịch, chúng tôi vượt biển giữa tháng 6, đúng mùa giông bão, vì thế hầu hết các thuyền đều gặp bão.

Nửa đêm ngày 19-6-1979, thuyền chúng tôi gặp cơn giông. Gió rít, mưa xối xả, quất từng đợt áo ào như thác đổ lên thuyền. Những đợt sóng lớn đổ ập lên sàn, lòng thuyền đầy nước. Thuyền chao đảo, nghiêng ngả, trồi lên, ngụp xuống, tất cả đàn ông chúng tôi lên hết sàn thuyền xem giúp được gì cho tài công. Tôi cùng ba người thi nhau tát nước ngập dưới khoang. Mưa vẫn xối xả, gió vẫn lồng lộn, cột buồm kêu răng rắc như muốn gãy. Các cụ bà trong khoang thắp hương, đốt vàng mã, đốt tiền, thả gạo xuống mặt biển qua cửa sổ, cầu trời khấn phật phù hộ độ trì tai qua nạn khỏi. Tiếng trẻ con khóc thét, tiếng gọi nhau í ới, nước tràn xuống khoang, khói hương khói vàng mã của các bà các cụ tạo lên cảnh hỗn loạn xô bồ khủng khiếp trước giờ thuyền đắm. Tất cả các bà mẹ ôm chặt con trong vòng tay, họ đều nghĩ, nếu thuyền đắm, cùng chết chứ không xa nhau.

Thuyền vẫn chao đảo, nghiêng ngả, mũi thuyền chồm lên, chúi xuống như người say rượu vấp ngã trong cơn giông, tiếng tài công hét trong gió bão:

“Chặt cột buồm mau.”

“Rìu ở đâu?” Tiếng ai đó thét lên.

Lại có tiếng thét trong gió bão:

“Chặt dây, hạ buồm trước”.

“Dao ở đâu?”

Tất cả chúng tôi hoảng loạn, thuyền sắp đắm, tưởng như vô vọng. Vừa lúc đó một thuyền đánh cá Trung Quốc ào tới, áp sát hai mạn thuyền, 2 người đàn ông lực lưỡng nhảy sang tay cầm dây chão bằng ni-lông giúp thuyền chúng tôi áp sát vào thuyền họ. Sau nhiều phút vật lộn, họ đã kéo thuyền chúng tôi thoát ra khỏi cơn giông. Kéo đến gần thị xã Bắc Hải, nhìn thấy ánh đèn biển mới cắt dây. Họ yêu cầu trả công 5 chiếc đồng hồ Liên-xô và 2 thùng phuy 200 lít dầu ma-dzút. Không có họ, chắc chúng tôi đêm ấy đã làm thần dân của Thái Dương Thần Nữ biển Nam Hải, đâu có ngày được tuyên thệ làm thần dân của Nữ Hoàng Elizabeth đệ Nhị tại London này.

Thuyền chúng tôi đậu lại, tất cả ngủ vùi, sau một đêm hoảng loạn.

Sáng hôm sau, một chiếc ca-nô hải quân Trung Quốc chạy đến, hai sĩ quan hải quân lên làm việc với chủ thuyền. Họ đưa tập giấy, yêu cầu chúng tôi phải khai tên tuổi, nghề nghiệp, số người trong gia đình trên thuyền. Khai xong, họ kéo chúng tôi vào bến.

Bờ biển Bắc Hải đầy người và gần 10 thuyền người Việt đang neo đậu chờ sửa chữa nằm la liệt trên bến. Tôi gặp gia đình chị Thủy, quen từ hồi còn vật vạ ở bến Tam Bạc. Thuyền anh chị xuất cảnh trước chúng tôi cả tháng, tưởng đã đến Hong Kong, không ngờ gặp ở đây, ngay bến Bắc Hải này. Anh chị kể, thuyền cũng gặp cơn giông, được thuyền đánh cá kéo, cũng phải sửa thuyền, 2 tuần trước, xuất bến đi được 2 ngày, va phải đá ngầm, may không đắm, lại thuyền đánh cá kéo về bến. Vừa kể, chị vừa chắp tay như thể vái Trời Phật đã rủ lòng thương, cứu gia đình anh chị tai qua nạn khỏi.

Anh chị dắt chúng tôi về lán. Gọi là lán, thực ra là 4 mảnh vải mưa đem từ Việt Nam, kiếm mấy cái cọc cũ của người xuất bến bỏ lại, buộc túm quây 3 bên làm chỗ che mưa che nắng cho đàn con. Chiếc chiếu đôi trải ngay xuống nền đất làm giường. Anh chị nhường tôi một khoảng đất sát bên, làm lán. Chị bảo, dân đây cũng nghèo, bán bất cứ thứ gì họ cũng mua. Riêng gạo, thực phẩm bán tự do đầy chợ, mua bao nhiêu cũng được, khác Việt Nam ghê lắm. Bến Bắc Hải này đắt nhất là củi đun, tằn tiện ngày nấu 2 bữa cũng mất 50 xu (1 Nhân dân tệ =100 xu). Cuối bãi có xưởng cưa, xe gỗ đóng, sửa thuyền nhưng họ không cho dân tị nạn mình kiếm củi và lấy mùn cưa. Chị ghé sát vào tai nhà tôi thì thào:

“Buổi trưa chúng nghỉ, mấy cháu nhà cô chú có thể lấy trộm mùn cưa và củi vụn được đấy. Mai thuyền anh chị xuất bến, bếp đun mùn cưa anh chị cho, khỏi phải tìm”.

Tất cả thuyền chúng tôi đều là thuyền vận chuyển, thuyền đánh cá của các hợp tác xã thanh lý. Đã là đồ thanh lý là không đảm bảo an toàn hoạt động, họ đem bán cho chúng tôi. Các chủ thuyền tham rẻ, mua, làm phương tiện chở người vượt biển. Chính phủ và công an ngoại kiều Hải Phòng biết thuyền không an toàn, nhưng làm ngơ. Tính mạng hàng vạn người vượt biển không là cái đinh gì với nhà nước CHXHCN Việt Nam. Chính vì thế, hầu hết thuyền ở miền Bắc chỉ sau vài ngày trên biển đều phải sửa chữa không thể tiếp tục cuộc hành trình.

Những ngày thuyền tôi sửa chữa ở bờ biển Bắc Hải cũng nhờ hai thằng con mà đỡ được khá tiền. Chủ thuyền chỉ phát gạo, một thứ gạo mọt mua từ Hải phòng, thực phẩm tự túc. Trước khi đi, tôi mua 10 kg lạp-xường dự trữ. Những ngày ở Bắc Hải, ăn nhiều lạp-xường đến nỗi hơn chục năm sau hễ ngửi thấy mùi lạp-xường là muốn ói. Hơn 3 tuần nằm vật nằm vạ ở Bắc Hải, gia đình tôi bán nốt những gì còn sót lại. Dân Bắc Hải thời ấy cũng nghèo, cái gì họ cũng mua, từ đồng hồ, máy ảnh, kể cả quần áo cũ, chăn màn, giày dép… và họ cũng tìm cách mua với giá thật rẻ.

Thời bấy giờ, Đặng tiểu Bình đã có những đường lối kinh tế đổi mới, mở cửa, nền kinh tế thị trường bắt đầu phát triển. Lương thực thực phẩm đã bán tự do bên cạnh các cửa hàng phân phối theo tem phiếu, nhiều mặt hàng mua chợ rẻ hơn mua cửa hàng mậu dịch rất nhiều. Riêng bến Bắc Hải này đắt nhất là củi. Đúng theo nghĩa “củi quế”. Nhà tôi, 5 mạng, chỉ tính tiền thức ăn (thật tiết kiệm) một ngày 1 Nhân dân tệ thì tiền củi phải 5 hào, có nghĩa là ½ số tiền ăn. Bán nốt chiếc máy ảnh Zennit của Nga, đồng hồ đeo tay của vợ, màn tuyn, chiếc mũ cà tàng và chiếc va-li cùng chiếc áo len cho cậu Lý A Sinh (Những người Việt gốc Hoa làm gián điệp), cái gì bán được đều bán sạch. Cả nhà nằm bờ nằm bụi chờ sửa thuyền, ngày nào cũng đảo qua xem thuyền sửa đến đâu. Hơn hai tuần, thuyền vẫn chưa sửa xong, xem ra có khi hàng tháng, lâu nữa tiền đâu ra. Cuộc sống khốn khổ trăm bề.

Người dân miền Bắc hễ nói đến bếp đun mùn cưa hay đun vỏ trấu chắc ai cũng biết, nhưng có thể bà con miền Trung hay miền Nam chưa hiểu. Bếp đun mùn cưa hay vỏ trấu của dân Bắc Kỳ như sau:

Một hộp sắt tây (hoặc đắp đất) đường kính tối thiểu cũng phải từ 18 đến 20 phân (cm) trở lên, một đầu còn nguyên đáy, đục khéo phần thân sát đáy 1 hình chữ nhật hay hình vuông để cho những thanh củi chẻ nhỏ làm mồi lửa. Lấy 1 vỏ chai để chính giữa, đổ mùn cưa hay vỏ trấu xung quang, nén thật chặt, rút vỏ chai, khoét 1 lỗ ngay phần cửa của lon hộp. Đặt kiềng lên trên hay kê gạch sao cho cao hơn miệng hộp là thành chiếc bếp. Đây là cách làm thông thường của dân thị xã, thành phố miền Bắc khi cuộc sống thiếu đủ thứ trong 1 xã hội Xếp Hàng Cả Ngày (XHCN).

Túng phải làm liều, khi xưởng nghỉ trưa, vợ tôi đưa mỗi đứa cầm cái rá, xúc trộm mùn cưa, con chị đi kiếm xung quanh, nhặt vài miếng gỗ vụn rồi ù té chạy. Coi như một ngày không phải mua chất đốt, tiền ấy bù vào bữa cơm đạm bạc của đời tỵ nạn. Đứa lớn mới lên hơn 6 tuổi, đứa bé lên 4 đã phải hành nghề ăn trộn mùn cưa, đau đớn chưa! Đến nay, ôn lại chuyện cũ các con tôi vẫn nhớ. Con chị bảo, có lần đang lò mò tìm củi, bị một bà túm áo, sợ quá, phát khóc, may có anh thanh niên nói gì với bà kia nên tha, từ đó trước khi nghỉ, người thanh niên kia vẫy tay gọi 3 đứa con tôi lại, cho lấy 2 rá mùn cưa và dăm que gỗ vụn.

Bến Bắc Hải có lúc đông hơn ngàn người, nằm vật nằm vạ, mưa nắng bất kỳ nên nhiều người ốm. Ngay đầu bến, chính phủ địa phương lập trạm y tế, sau thời gian ăn ở mất vệ sinh, vợ tôi bị mắc bệnh viêm gan siêu vi trùng. Trước khi rời Việt Nam, tôi chuẩn bị khá đầy đủ thuốc, từ kháng sinh, sinh tố, cảm cúm, thuốc chống say đếu có, kể cả ống nghe, dụng cụ tiêm chủng. Bệnh do siêu vi trùng không có thuốc đặc trị, chỉ cần nâng cao thể trạng ăn uống đầy đủ, sau 2 tuần bệnh sẽ thuyên giảm. Tưởng trạm y tế dựng lên để giúp đỡ dân tỵ nạn, tôi mang thuốc bổ và sinh tố đến nhờ họ tiêm, ai ngờ tiêm xong hai mũi, họ đòi 4 hào tiền công. Một chiếc bánh bao nhân thịt có 2 xu, giúi 2 mũi tiêm chưa đầy 2 phút, 4 hào, 20 cái bánh bao! Đắt quá! Ấy mới chỉ tiêm hộ, nếu cả thuốc nữa thì có lẽ “nhổ cả răng” cũng không đủ tiền trả! Hai mươi chiếc bánh bao nhà tôi ăn sáng 4 ngày. Cạch, chẳng bao giờ đến trạm xá nữa!

Hơn ba tuần, thuyền tôi mới sửa xong. Kỳ này chủ thuyền nhận thêm bảy gia đình nữa, lão A Sùi, chủ thuyền, nại, lấy tiền trả công sửa chữa và thuê thuyền kéo đi Hong Kong. Thuyền đã chật, nay chật thêm, nhưng đành chịu, vì có tàu kéo, vừa an toàn vừa đi nhanh hơn, nên chúng tôi không phản đối. Cơn giông đêm 18-6 chúng tôi vẫn nhớ, sợ đến hôm nay.

Nhờ có tàu kéo, thuyền chúng tôi gặp 2 cơn bão lớn bán đảo Lôi Châu và Tam Quang mà không đắm. Đến gần Ma Cao, thuyền kéo cắt dây, chúng tôi không rẽ vào Ma Cao đi thẳng Hong Kong. Nửa đêm 30-7-1979 nhìn thấy ánh đèn Nê-ông nhảy múa trên các tòa nhà cao tầng ở Hong Kong. Chúng tôi đã sống, đã đến chân trời tự do.

© 2010 Lâm Hoàng Mạnh

© 2010 talawas

Bình luận

1 phản hồi (bài “Lâm Hoàng Mạnh – Nụ cười đời tỵ nạn (4)”)

  1. Thai Nguyen viết:

    …Chúng tôi là người dân không có tổ quốc, Việt Nam và Trung Quốc chỉ là thứ tổ cò, không hơn không kém…

    Đọc văn bác LHM mà buồn quá. Bác kể chuyện thật lôi cuốn với bộ nhớ tuyệt hảo.

    Làm nhớ đến một số bạn cũ ngày xưa ở Sài Gòn. Họ là con cháu có gốc “Minh hương” bao nhiêu đời ở miền nam, tiếng Tàu chẳng biết chi. Nhưng với cái họ thì… “nghi” lắm. Thế là khi những cuộc chiến Việt-Khmer rồi Hoa-Việt bùng nổ ra, các tổ chức “Đảng” và “Đoàn” trong trường đại học thay phiên công tác với họ. Tôi có một anh bạn họ Trác rất tài hoa và nói diễu rất vui. Đi họp ra, anh kể: “Tui nói là trước giờ tui hổng biết thằng Mao thằng Đặng là ai. Mà xí quên, tui có nghe lóm hồi mới được giải phóng là Bác Mao nào ở đâu xa…” Đến kỳ nghĩa vụ quân sự, các Đảng viên Đoàn viên đều hăng hái xung phong- có người viết cả huyết thư- mà không một ai bị trúng tuyển cả. Anh bạn họ Trác nhìn đám “ngụy con” thiếu tinh thần phấn đấu, tội nghiệp, liền từ từ lết đôi chân có dị tật lên nơi bàn tuyển, ngắm mặt từng vị trong ban tổ chức, rồi từ từ … lết xuống. Đi được nửa đường, anh quay lại: “Xí quên cây bút!” Thật bi hài.

    Hồi mới qua Mỹ, lại nghe kể là các doanh nhân ở Chinatown cũng không muốn làm ăn với các “đồng hương” đi từ Việt Nam. Đau thật.

  • talawas - Lời tạm biệt

  • Nói lời chia tay sau 9 năm tồn tại, chúng tôi thiết tha hi vọng vào sự ra đời của những mô hình báo chí và truyền thông mới, thực hiện bởi những người được trang bị những khả năng và phương tiện mà chúng tôi đã không thể có, với cùng một nhiệt thành phấn đấu cho một nền báo chí tự do cho Việt Nam… đọc tiếp >>>

  • Phản hồi mới nhất của độc giả

    talawas blog: Cảm ơn tất cả! Tạm biệt và mong ngày ...
    Trung Thứ: Trích: „Ngoài ra, việc duy trì nhóm khởi...
    Hà Sĩ Phu: LỜI TẠM BIỆT: Buông lơi “một...
    Phùng Tường Vân: Dục Biệt Nhung Dục (Trung Đường) có ...
    Hoài Phi: Chỉ còn vài phút thôi là talawas chính th...
    Hà Sĩ Phu: @ixij Bạn ixij đã gõ đúng chỗ tôi c...
    P: Kính gửi hai bác Lê Anh Dũng và Trung Thứ...
    Hoangnguyen: Không biết những dòng chữ này còn kịp ...
    Trần Quốc Việt: Dear Talawas, Thank you! You're gone now but I ...
    Nguyễn Ước: Xin lỗi. Tôi hơi bị nhớ lầm vài chữ t...
    Trung Thứ: Thưa bác Lê Anh Dũng, Thời giờ cũng đ...
    Trần Quốc Việt: Hành trang rời Talawas: Live Not By Lies ...
    Hoà Nguyễn: Qua bức thư hết sức nhã nhặn, lịch s...
    Trần Việt: Ôi, nếu được như bác Hữu Tình hình du...
    ixij: Không được tham gia trả lời 3 câu hỏi ...
    Lâm Hoàng Mạnh: Đốt Lò Hương Cũ. Mượn thơ của Th...
    P: Cũng xin góp thêm một bài mới biết :D ...
    Lê Tuấn Huy: Xin gửi anh VQU, TV và những người quan t...
    Khiêm: Cảm ơn nhà văn Võ Thị Hảo đã thực hi...
    Phùng Công Tử: Bị bắt cũng đáng! Vào blog của CoigaiDoL...
    Phùng Công Tử: Nô lệ của văn hóa Trung Quốc: Đi hỏ...
    classicalmood: Bài viết có một số điểm tích cực nh...
    Thanh Nguyễn: Đọc những con số thống kê trong bài vi...
    Phùng Tường Vân: Vĩ Thanh tiễn chị Hoài Thế sự mang ...
    Tiêu Kiến Xương: ĐBA mượn lời ông bác nông dân: "Nói gì...
    dodung: "Sóng lớp phế hưng coi đã rộn......
    Camillia Ngo: Chín năm, một quãng đường dài, Bóng ng...
    Camillia Ngo: Một dân tộc u mê, hèn kém tột độ mớ...
    Thai Huu Tinh: Thưa các bác Trần Việt, Quốc Uy, Tuấn H...
    Phùng Tường Vân: " Thứ nhất, nói mọi thứ đều thối ná...
    Nguyễn Ước: Tôi không vào được Phản hồi bên bài C...
    Tôn Văn: Tiếp theo „Lời tạm biệt“ Câu hỏi...
    Trần Việt: Công bằng mà nói một cách ngắn gọn, Gs...
    Phùng Công Tử: Và gần đây tôi cảm thấy hơi phiền hơ...
    Bùi Xuân Bách: Việc talawas ngừng hoạt động tuy có là ...
    Nguyễn Chính: Gửi chị Phạm Thị Hoài và Ban Biên tập...
    Lê Tuấn Huy: Việc cảnh giác, tôi đã nói đến. Tôi t...
    vuquocuy: - Tác giả Lê Tuấn Huy đã phát hiện rấ...
    Hạnh Đào: Hơn tuần nay, tôi ngần ngại không muốn ...
    classicalmood: Talawas đột ngột chia tay khiến không ít ...
    Lê Anh Dũng: Bravo ý tưởng tuyệt vời của Arthur, ...
    Thanh Nguyễn: Chào chị Hoài, Cảm ơn tâm huyết và nh...
    Thanh Nguyễn: Cảm ơn ý kiến của anh Hoàng Ngọc Tuấn...
    Hà Minh: Cuộc vui nào cũng phải đến lúc tàn, (al...
    P: Xin có lời cảm ơn gửi đến những ngư...
    Nguyễn Đình Đăng: Tôi lợi dụng chính phản hồi của mình ...
    Arthur: Có nên đề nghi BBT Talawas chơi/hát lại b...
    Phùng Tường Vân: Tôi xin kể thêm truyện này, nghe cũng lâu...
    Hà Sĩ Phu: @ Nam Dao Đây là bài “bình thơ chơi” v...
    Lê Anh Dũng: Thưa bác Trung Thứ, Cám ơn bác về nhã...
    Trần Việt: Đồng ý với ông Lê Tuấn Huy. Tuy chỉ c...
    Trầm Kha: CÓ THẾ CHỨ! THẾ MỚI 'TIỀN VỆ' CHỨ!...
    Phùng Tường Vân: Hết xảy ! (http://www.talawas.org/?p=26665#co...
    Hoàng Ngọc-Tuấn: Xin thông báo cùng quý vị: Để tiếp n...
    Dương Danh Huy: Cảm ơn bác Phùng Tường Vân và Lâm Hòan...
    Phùng Tường Vân: Đôi lời thưa thêm với bác D.D.Huy, Xin...
    chuha: Mỗi người có một "gu" ăn phở. Riêng t...
    Trương Đức: "Chị Hoài ơi, chị Hoài ơi Niết Bàn nà...
    Phùng Tường Vân: Thưa Bác Dương Danh Huy Xin vội vã trìn...
    Dương Danh Huy: À, có điều tôi muốn nhắc các bác: K...
    hlevan: “Le coeur a ses raisons que la raison ignore” ...
    Dương Danh Huy: Bác Phùng Tường Vân, Lâm Hòang Mạnh &...
    Phùng Tường Vân: CẨN BẠCH Nhận biết được giới hạ...
    Le Van Hung: Thử lướt qua các trang web Việt Nam, chún...
    Đinh Minh Đạo: Tin TALAWS sẽ ngừng hoạt động làm tôi n...
    Lê Quốc Trinh: Cám ơn tác giả Phạm Hồng Sơn, Nếu c...
    Le Van Hung: "Giáo dục, giáo dục và giáo dục (có l...
    classicalmood: Vậy thì quyết định đóng cửa Talawas, n...
    VanLang: "Merda d’artista" vẫn đang được trưng b...
    Khiêm: Bác Phùng, Một người quen cho biết xếp...
    Nguyễn Đăng Thường: Đập phá & xây dựng “Đạp đổ t...
    Tonnguyen147: Bác Phùng Tường Vân, Người ta không ...
    Hoà Nguyễn: Hôm nay có tin đại biểu Quốc hội Việt...
    Hoà Nguyễn: Báo Người Việt hôm nay đăng toàn văn l...
    Trung Nu Hoang: @ Tạm Biệt talawas. Với lòng quý mến ...
    Tonnguyen147: Bác Trung Thứ và các bác ơi, Chủ Nh...
    VanLang: Đầu thập niên 90 Việt Nam lạm phát phi ...
    Nam Dao: Trình với cả làng Thể ý Trưng Nữ Ho...
    Lâm Hoàng Mạnh: Nâng cốc, cụng ly ... hết váng đầu Nh...
    Hoà Nguyễn: Cứ tưởng nếu khách ngồi bàn chuyện ho...
    Nam Dao: Anh thân mến Quí trọng những việc an...
    Thanh Nguyễn: Talawas trước giờ lâm chung mà vẫn đau ...
    Phùng Tường Vân: Chiếc Cân Thủy Ngân ..."Cứ xét theo ...
    Trung Nu Hoang: Nếu nhà văn Phạm Thị Hoài và BBT Talawas...
    Bắc Phong: bác bị váng đầu thèm uống rượu cứ ...
    Lê Thị Thấm Vân: Ngân trong "là con người", một trích đo...
    classicalmood: Talawas đột ngột chia tay khiến không ít ...
    Trung Thứ: Thưa bác Lê Anh Dũng, Tôi xin chia sẻ thê...
    Canuck: Bác Nguyễn Phong, Tui thấy đây là vấn...
    Nguyễn Đình Đăng: Bravo! Như một minh hoạ cho bài này mờ...
    Dương Danh Huy: Bác Phùng Tường Vân, Tôi đã set up hai...
    Phùng Tường Vân: @Nguyên Phong (http://www.talawas.org/?p=26665#c...
    Nguyễn Phong: Tôi thấy các bác hơi lạc quan và ảo tư...
    Thuận: Chỉ còn ít giờ nữa, Talawas sẽ đóng c...
    Trương Đức: "Nửa ấy… “nói chung là”: nửa dưới...
    Trầm Kha: talawas ơi! oan ức quá! Oan ức quá! Em ...
    Canuck: Tui cám ơn Ban Chủ Nhiệm, Ban Biên Tập Ta...
    Trầm Kha: bác vạch lẹ quá! em há hốc hà lá nho ...
    Trầm Kha: thường thì bác Thường siết... hết bế...
    pham duc le: Tôi đồng ý với bạn Nguyễn Phong, nhưng...
    booksreader: Au plaisir de vous revoir, "một mô hình hoạt...
    Bach Phat Gia: Tôi là độc giả của talawas đã mấy nă...
    Lề Trái: Trong việc tẩm bổ chỉ xin Gia Cát Dự đ...
    Lê Anh Dũng: Thưa bác Trầm Kha, bác Đào Nguyên, Xin ...
    Lê Thượng: Nói rằng "So với thảm họa môi trường ...
    Anh Dũng: @1mitee: 1. Muốn SỐNG tới mức "cụ" nh...
    Đào Nguyên: @ Anh Dũng "...phải nghe lời cái dạ dày,...
    Trầm Kha: “Khi cầm cuốn Kinh thánh, tôi đọc với...
    Đào Nguyên: @ bác Nguyễn Phong Tôi đồng thanh tương ...
    Hoà Nguyễn: Sau chuỗi cười khá thoải mái do ông Gia ...
    1mitee: @Anh Dũng "Cả ông Marx, ông Hồ Chí Minh,...
    Bùi Văn Phú: Bạn Trung Nu Hoang ơi, Bạn có khả năng...
    Thái Hữu Tình: Bài vừa mới ra lò, mấy anh (cả mấy ch...
    Canuck: Trong đời tui, có 3 lần / hoàn cảnh xảy...
    Phùng Tường Vân: Lời đề nghị khẩn khoản của tôi Nh...
    Thái Hữu Tình: 1/ Bài nghiên cứu này của ông MTL càng ch...
    Nguyễn Phong: Thực ra ở hải ngoại hiện nay thì có m...
    Anh Dũng: @Đào Nguyên: 1. Cái bạc triệu (VNĐ) c...
    Dương Danh Huy: Bác Hòa Trước hết tôi cảm ơn về l...
    Louis: Trong phút giây chia tay người tình ảo, b...
    Đào Nguyên: Từ lâu ngưỡng mộ bác, biết bác thích ...
    Trầm Kha: Ha ha ha! Bác Trương Đức ơi, Bác "đả t...
    Lê Quốc Trinh: LÊ QUỐC TRINH - LỜI GIÃ BIỆT Thân m...
    vantruong: Thôi thì trước khi giải tán tụ tập tal...
    Đào Nguyên: @Anh Dũng "... - Không có đủ sản phẩm ...
    VietSoul:21: Tôi không nghĩ tài chánh là vấn đề (ch...
    Hoàng Trường Sa: Talawas ơi Ta giã biệt em Như giã từ cu...
    Hoàng Trường Sa: Bauxite Việt Nam: hãy cứu ngay chữ tín! (...
    Anh Dũng: @Đào Nguyên: Thực ra Marx có nói, nói n...
    Lâm Hoàng Mạnh: Chỉ còn vài 28 giờ, Ta Là... Gì sẽ ngh...
    Le Van Hung: Kính thưa các Anh Chị, Từ trước đế...
    Phùng Tường Vân: Bi giờ sắp đến giờ lâm biệt Xin Gia T...
    Hoàng Trường Sa: EM ĐI RỒI Em đã đi rồi thế cũng xong...
    Nguyễn Đăng Thường: Chia tay phút này ai không thấy buồn? Nh...
    Trung Nu Hoang: Tôi cũng có nghe kể chuyện một "học gi...
    peihoh: Tôi không được hỏi ba câu hỏi của tal...
    peihoh: Anh Lại Văn Sâm ơi! Dịch giùm câu này: "...
    Đào Nguyên: @ Anh Dũng Mác nói nhiều về lợi nhuận,...
    Hoà Nguyễn: Ông Huy viết : Điều tôi nói hoàn toàn kh...
    Trương Đức: Đọc cái câu này: "2030: định mệnh đã ...
    Đào Nguyên: Tôi cũng có đọc những câu chuyện với ...
    Camillia Ngo: Nguyễn Khoa Thái-Anh nói "Vũ Huy Quang là m...
    Dương Danh Huy: Bác Hoà Tôi cũng thấy thú vị khi đọ...
    Thanh Nguyễn: Giữa cái lúc "dầu sôi lửa bỏng" thế n...
    Thanh Nguyễn: Nếu vì lý do tài chính mà talawas đóng c...
    Thanh Nguyễn: Oh, Thank you Trầm Hương! We all have our h...
    Hà Minh: Một truyện ngắn quá hay, cảm ơn tác gi...
    Nguyễn Việt Thanh: Trên Talawas bộ cũ, có lần nhà văn Phạm...
    Anh Dũng: Ông Đào Nguyên nói đến "duy lợi". Nhưng...
    Hoàng Trường Sa: BRING ME HAPPINESS Đừng đi Đừng đi Đ...
    Lê Anh Dũng: (tiếp) Nhưng chính nhờ Tin Lành VN như...
    Lê Anh Dũng: Thưa bác Trung Thứ, Trong cảnh talawas ch...
    Đào Nguyên: Lời ông Vũ Huy Quang làm tôi nhớ tới l...
    Đào Nguyên: @ Nguyễn Khoa Thái Anh Trước khi chiéc thu...
    Trương Nhân Tuấn: Trích : « Người Việt hải ngoại vẫn th...
    Hoàng Trường Sa: Bô xít Việt Nam : Truyền thông Mỹ sắp n...
    khonglaai: Không ngờ anh Bách còn giỏi cả tiến...
    khonglaai: Nếu có giải thưởng talacu thì tôi ti...
    Phùng Tường Vân: Chúc nhau chân cứng đá mềm Chúc nhau an ...
    khonglaai: “Khi nói chuyện với mình họ chỉ nhìn ...