talawas blog

Chuyên mục:

Bruce Feiler: Moses đã ảnh hưởng lịch sử Hoa Kỳ như thế nào?

22/02/2010 | 1:36 sáng | 2 Comments

Tác giả: Trần Ngọc Cư

Category: Thế giới
Thẻ: > >

Trần Ngọc Cư dịch

Từ thời Cách mạng giành độc lập cho đến thời Chiến tranh lạnh, người anh hùng trong Cựu Ước luôn là biểu tượng tôn giáo dùng để định nghĩa nhiều biến cố trong lịch sử Hoa Kỳ. Ngày nay ta có thể rút tỉa được ý nghĩa nào từ nhân vật Moses?

“Chúng tôi đang đứng trước nhiều vị Moses”, Barack Obama đã nói vào ngày 4-3-2007, ba tuần sau khi ông công bố sẽ ra tranh cử tổng thống. Ông tuyên bố như vậy tại Selma, bang Alabama, đứng quanh ông là những chiến sĩ tiên phong của phong trào dân quyền. Obama đã coi cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của mình như là một nỗ lực thể hiện truyền thống của Moses, là đưa dân tộc thoát vòng nô lệ và đến bờ tự do. “Xin cảm ơn thế hệ Moses, nhưng chúng ta phải nhớ rằng sau Moses, Joshua còn có một việc phải làm [đó là chinh phục đất Canaan và phân chia cho các bộ lạc Do Thái, ND]. Dù là một nhà lãnh đạo vĩ đại… nhưng Moses đã không vượt qua sông để tận mắt nhìn đất hứa.”

Sau tám tháng trong chức vụ tổng thống, có lẽ Obama muốn ôn lại tấm gương Moses thêm lần nữa. Trong nhiều vấn đề, từ nỗ lực cải cách y tế đến chiến tranh tại Afghanistan, tổng thống Mỹ đang đối diện với nhiều thái độ hoài nghi và nổi loạn, một bên là chế độ pharaoh tham quyền cố vị và một bên là khối quần chúng đi theo (followers) vừa bất an vừa bất trị. Vì vậy, Obama có lý do để xem lại những bài học lãnh đạo của nhà lãnh đạo lớn nhất lịch sử này. Cũng như các vị tiền nhiệm, từ Washington đến Reagan, Obama có thể dùng gương Moses để giúp mình lãnh đạo nhân dân Mỹ trong thời buổi đầy âu lo. Từ thời những Người hành hương (the Pilgrims)[1] đến thời các Nhà lập quốc (the Founding Fathers), từ thời Nội chiến đến phong trào dân quyền, người Mỹ luôn hướng về Moses trong những thời kỳ khủng hoảng vì câu chuyện của nhân vật này có khả năng đưa ra một lộ trình vừa đầy gian nguy vừa đầy hứa hẹn.

Tình cảnh nghiệt ngã của những Người hành hương

Tích truyện Moses được mở ra ở thế kỷ 13 trước Công nguyên, khi dân tộc Israel đang ở trong tình trạng nô lệ tại Ai Cập. Sau khi vua Ai cập (pharaoh) ra lệnh tàn sát tất cả trẻ sơ sinh Israel nam giới, bé Moses được thả xuống giòng sông Nile trên chiếc thúng, rồi được con gái của vua Ai Cập nhặt lên đem về nuôi trong cung điện. Khi trưởng thành, Moses giết chết một người Ai Cập vì người này đánh đập “một đồng bào Do Thái của ông”, rồi Moses bỏ trốn vào sa mạc, tại đây, về sau, một tiếng vọng từ lùm cây đang cháy ra lệnh Moses phải giải phóng dân tộc Israel. Giây phút đó là thử thách đầu tiên về tinh thần lãnh đạo của Moses: Liệu ông sẽ cố bám víu cuộc một sống thoải mái vô tư hay ông sẽ mưu toan giải phóng một dân tộc đã bị nô lệ hàng trăm năm?

Số phận nghiệt ngã của dân Israel vang vọng trong tâm tư của người định cư đầu tiên trên đất Mỹ. Qua nhiều thế kỷ, Giáo hội Công giáo đã ngăn cấm tín đồ tự mình trực tiếp đọc Kinh Thánh. Nhưng cuộc Cải cách Tin lành, cùng với sự ra đời của máy in, đã đưa những bản Kinh Thánh tiếng bản xứ đến tận tay người đọc bình dân. Điều kỳ diệu mà người Tin Lành phát hiện trong Kinh Thánh là một truyện tích nhắc nhở thân phận họ đang bị giáo hội đương thời đàn áp, một truyện tích khơi gợi những ước mơ của họ về một Thế giới mới vô cùng tươi đẹp. Những Người hành hương nhấn mạnh khía cạnh này của Moses. Khi nhóm người Tin Lành ly khai rời Anh Quốc năm 1620, họ tự ví mình là dân được Chúa chọn (chosen people) đang tìm cách trốn thoát tên pharaoh của họ là Vua James. Lênh lênh trên Đại Tây Dương, họ tuyên bố rằng cuộc hành trình của họ cũng mang tầm sinh tử như “Moses và đám dân Israel trên đường thoát ra khỏi Ai Cập”. Vì vậy, khi đến mũi Cape Cod [Massachusset], họ làm lễ tạ ơn Thượng Đế đã cho họ vượt qua được Hồng Hải đầy sóng gió.

Vào thời Cách mạng Mỹ, chủ đề về những người nguy khốn vùng lên chống lại một siêu cường đã trở thành tích truyện nói lên bản sắc Mỹ. Hai tác phẩm bán chạy nhất năm 1776 đều đề cập đến Moses. Thomas Paine, trong Common Sense (Tri thức thường nghiệm), đã gọi vua George của Anh Quốc là “tên Pharaoh ủ rũ, lạnh lùng”. Samuel Sherwood, trong The Church’s Flight into the Wilderness (Giáo hội chạy vào sa mạc), tin rằng Thượng Đế sẽ giải phóng các thuộc địa tại Mỹ ra khỏi gông cùm nô lệ. Hình ảnh Moses sống động trong tâm trí mọi người đến nỗi vào ngày 4 tháng Bảy, sau khi ký bản Tuyên ngôn Độc lập, Quốc Hội yêu cầu Thomas Jefferson, Benjamin Franklin và John Adams đề xuất một khuôn dấu cho Hoa Kỳ, những vị này đã đưa ra đề nghị: Moses dẫn đường cho dân Israel đi qua Hồng Hải trong khi thủy triều đang vùi dập pharaoh Ai Cập. Trong nhãn quan của họ, Moses mới thật sự là vị cha già lập quốc của Mỹ.

Nhưng thoát vòng nô lệ mới chỉ là nửa câu chuyện. Sau khi người Israel vào trong sa mạc, họ kinh qua một thời kỳ thiếu kỷ cương, sự kiện này đưa đến Mười điều răn của Chúa. Chỉ bằng cách tập hợp chung quanh một trật tự mới, một dân tộc mới có thể trở thành một quốc gia. Tự do cần đến luật pháp.

Sau Cách mạng giành độc lập, người Mỹ cũng kinh qua một thời kỳ hỗn loạn tương tự. Một giáo sĩ Connecticut nhận xét rằng Moses phải mất đến 40 năm mới trấn át được những ta thán của người Israel: Bây giờ “chúng ta đang đóng lại một tấn tuồng điên rồ tương tự”. Và giống hệt như một Moses bất đắc dĩ phải đưa dân tộc Israel ra khỏi Ai Cập, rồi ban cho họ Mười điều răn của Chúa, một Washington cũng bất đắc dĩ lãnh đạo dân thuộc địa đi đến chiến thắng, rồi chủ trì việc soạn thảo Hiến pháp Hoa Kỳ. Một sự tương tự không thể bỏ qua. Hai phần ba số điếu văn đọc tại tang lễ của Washington đã so sánh “nhà lãnh đạo và vị cha già của nước Mỹ” với “người lèo lái đầu tiên của quốc gia Do Thái”.

Hãy thả dân tôi ra

Mặc dù Moses là biểu tượng đoàn kết dân tộc trong thời kỳ lập quốc, nhưng chỉ một thế hệ sau đó, nhân vật kinh thánh này bị lôi kéo vào trong một vấn đề cực kỳ phân hóa nước Mỹ. Cuộc vượt thoát chế độ nô lệ của dân tộc Do Thái là chủ đề nổi bật trong những bài thánh ca da đen (spirituals), như bài “Đẩy lùi đạo quân của vua Ai Cập”, “Ta tiến về đất hứa”, và nổi tiếng nhất là bài “Moses, hãy xuống với chúng tôi”, một nhạc phẩm được ví như là bản quốc ca của người nô lệ da đen tại Mỹ: “Khi Israel vẫn còn nằm trên đất Ai Cập,/ Hãy thả dân tôi ra;/ Bị đàn áp khắc nghiệt, dân tôi không còn sức đứng vững,/ Hãy thả dân tôi ra”.

Thánh ca da đen (spirituals) truyền đi những thông điệp được mã hóa để đánh lạc hướng các chủ nhân da trắng. Nhà tranh đấu da đen Frederick Douglass viết rằng khi ông và các bạn chiến đấu của ông hát “Ôi Canaan, Canaan dịu ngọt,/ Ta tiến về đất hứa Canaan”, bọn giám thị (overseers) các toán nô lệ yên chí rằng người da đen đang thờ phượng thiên chúa của người da trắng. Nhưng đối với họ, bài hát này ngụ ý rằng họ sắp sửa bỏ trốn theo Đường ray bí mật (the Underground Railroad) [một đường dây tổ chức vượt biên, đưa người da đen trốn khỏi các bang có chế độ nô lệ để chạy sang các bang tự do, ND.]

Tuy nhiên, trong khi những người bài nô (abolitionists) sử dụng cuộc Vượt thoát trong Kinh Thánh (the Exodus) để đả kích chế độ nô lệ, thì người Miền Nam [tức các bang duy trì chế độ nô lệ, ND] lại dùng nó để biện hộ cho cơ chế này. Cuộc nội chiến Hoa Kỳ trở thành Cuộc thánh chiến giữa hai ông Moses. Các chủ nô lệ trích dẫn một loạt các đoạn kinh thánh – nào là Abraham [tổ phụ người Israel] có nuôi nô lệ; nào là Moses mời nô lệ tham dự lễ Quá Hải đầu tiên (the first Passover); nào là Giê-su không đả động gì đến việc giải phóng nô lệ — nhằm chứng minh rằng Kinh Thánh chấp nhận chế độ nô lệ. Cuốn kinh thánh từng đoàn kết người Mỹ lại với nhau đã bị chế độ nô lệ xé đôi.

Vị tổng thống trích dẫn Kinh Thánh nhiều nhất cũng là người có công tái thống nhất quốc gia. Mặc dù bị các đối thủ chính trị phỉ báng là một tên pharaoh, Abraham Lincoln đã giải phóng nô lệ sau khi ông đưa ra một “lời nguyền trước Thượng Đế”; ông trích dẫn sách Exodus của Cựu Ước tại Gettysburg. Khi ông chết, Lincoln, cũng như Washington trước ông, được dân chúng so sánh với Moses. Trong bài điếu văn, Henry Ward Beecher viết: “Trước đây chưa hề có một hình tượng lịch sử nào cao quí hơn hình tượng của người đã ban bố luật lệ cho dân tộc Do Thái. Gần như chưa có một biến cố lịch sử nào làm rung động lòng người như cái chết của Moses”. Mãi cho đến bây giờ mới có lại một nhân vật như vậy. “Một lần nữa, một nhà lãnh đạo vĩ đại của nhân dân đã vượt qua bao gian khổ, buồn đau, chiến tranh và xung đột, để đến gần kề với đất hứa hoà bình, nhưng chính bản thân ông ta lại không thể vào trong vùng đất đó”.

Cái chết của Lincoln đã khởi động việc xây dựng một tặng phẩm cống hiến cho sự nghiệp của Moses, một tặng phẩm thậm chí có khả năng tồn tại lâu dài hơn nhiều kỷ vật trước đây – đó là Tượng đài Tự do (the Statue of Liberty), mà nước Pháp tặng cho Hoa Kỳ nhằm vinh danh vị Tổng thống mới bị ám sát. Nghệ sĩ điêu khắc Frédéric Bartholdi đã chọn nữ thần tự do (the goddess of liberty) làm mẫu, nhưng ông đã thêm vào tác phẩm của mình hai biểu tượng liên quan đến Moses: vừng hào quang quanh đầu và bảng đá trong cánh tay nữ thần, cả hai có xuất xứ từ giờ phút Moses xuống Núi Sinai với Mời điều răn của Chúa. Ngụ ý: Tự do phải đi liền với luật pháp.

Moses và Superman

Cùng với sự trỗi dậy của chủ nghĩa thế tục (secularism) và ảnh hưởng ngày một suy giảm của Kinh Thánh trong thế kỷ 20, gương sáng Moses lẽ ra có thể bị mai một. Nhưng một điều kỳ lạ đã diễn ra. Moses được nhìn nhận như là một anh hùng trong giấc mơ hiển đạt tại Mỹ (the American Dream) đến nỗi ông vượt khỏi Kinh Thánh để đi vào trong lãnh vực văn hóa dân gian, từ tiểu thuyết cho đến truyền hình.

Một phần nào, Superman đã được mô phỏng theo Moses. Những nhà sáng tạo ra nhân vật anh hùng này của các tạp chí dành cho trẻ em, gồm hai người Do Thái uyên bác Jerry Siegel và Joe Shuster, đã lấy bối cảnh cho nhân vật chính của mình từ vị siêu anh hùng (superhero) trong Kinh thánh Torah của Do Thái. Tương tự như bé Moses được thả xuống dòng sông Nile trong một chiếc thúng để tránh cuộc tàn sát do lệnh vua Ai Cập, bé Superman được phóng vào không gian trên một phi thuyền để tránh cuộc diệt chủng. Tương tự như Moses được nuôi dạy trong một thế giới xa lạ trước khi được Thiên Chúa gọi đến nhận lệnh giải phóng Israel, Superman cũng được nuôi dạy trong một môi trường xa lạ trước khi được kêu gọi cứu giúp nhân loại.

Nhưng chính Cecil B. DeMille là người đã biến Moses thành một biểu tượng cho quyền lực Mỹ trong Chiến tranh lạnh. Thiên anh hùng ca Mười điều răn của Chúa, chiếu năm 1956, nếu tính theo giá ngày nay sau khi điều chỉnh lạm phát sẽ đứng hàng thứ 5 trong những phim có lợi thu cao nhất từ trước đến nay. Phim bắt đầu với DeMill xuất hiện trên màn hình. “Chủ đề của phim này là, liệu nhân loại cần được cai trị bằng luật lệ của Thiên Chúa hay nhất thiết phải được cai trị theo ý muốn tùy tiện của một nhà độc tài”, DeMille nói. “Cuộc chiến đấu cùng một bản chất vẫn còn tiếp diễn trong thế giới ngày nay”. Để nói rõ chủ điểm của mình hơn, DeMille đã mô phỏng người Mỹ theo người Israel và mô phỏng người châu Âu theo người Ai Cập. Và cuối phim, tài tử Charlton Heston [đóng vai Moses] trong thế đứng của tượng Nữ thần Tự do đã nói một câu trích từ sách thứ ba của Moses — tức Lê-vi ký – câu này cũng được khắt lên Chuông Tự do (the Liberty Bell): “Hãy công bố tự do cho mọi người trên khắp thế gian”.

Đối với người Mỹ hiện đại, sự thất vọng của Moses, trong nhiều cách, lại đảm bảo tính hấp dẫn lâu dài của ông. Dù là một chiến sĩ tranh đấu cho tự do, nhưng Moses cũng là đấng tiên tri của sự thất vọng. Sau 40 năm dẫn dắt dân Do Thái trong sa mạc, Moses đã bị từ chối việc vào đất hứa, chỉ vì dân Israel không vâng lời Thiên Chúa. Không ai thâm cảm khía cạnh này của Moses hơn Martin Luther King Jr. Trong bài diễn văn đọc cho cả nước đầu tiên của ông, năm 1956, King đã ví Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ với Moses trong nỗ lực mở đường qua một Hồng Hải của chế độ phân chủng. Mười hai năm sau, vào đêm trước khi bị ám sát, King tiên đoán là bản thân ông sẽ không thực hiện được ước mơ của mình. Ông tuyên bố: “Tôi đã lên được trên đỉnh núi. Và đã đứng nhìn cảnh vật bao la. Và đã thấy được đất hứa. Và cho dù tôi không thể đi đến đích cùng đồng bào, nhưng đêm nay tôi muốn đồng bào biết rằng chủng tộc của chúng ta sẽ đặt chân lên đất hứa”. Cả Moses lẫn King là những trường hợp điển hình nhắc nhở chúng ta rằng thậm chí cả những nhà lãnh đạo tài ba nhất lắm lúc cũng không đạt được mục đích cuối cùng.

Vậy, người đang chiếm giữ Nhà Trắng hiện nay có thể rút tỉa được những bài học nào từ một nhân vật mà gần như mọi vị tiền nhiệm của ông đều trích dẫn?

Một là, phải bán sữa và mật [đưa ra một viễn cảnh phồn vinh, ND]. Obama là vị tổng thống đầu tiên đã tổ chức tiệc mừng Lễ quá hải (the Passover seder) tại Nhà Trắng, nhưng hình như ông đã quên đại ý của buổi lễ: tích truyện Moses trước hết là một câu chuyện — một câu chuyện nói lên sức mạnh của lòng hi vọng. Những tình tiết của truyện Moses có thể phù hợp với chính sách đàm phán ngoại giao, nhưng chính viễn cảnh về sữa và mật mới thật sự là động cơ thúc đẩy dân Israel nhảy ào xuống Hồng Hải.

Hai là, phải nhớ lại dòng sông Nile [tức nhớ thân phận người Israel trên đất Ai Cập, ND]. Dù phải trăn trở với những vấn đề như ngăn chặn làn sóng nhập cư bất hợp pháp, tăng cường luật lệ điều tiết kinh tế tài chính hay đảm bảo y tế cho mọi người dân Mỹ, tổng thống Obama cũng phải nhớ rằng, từ khi Thượng Đế nghe dân của ngài kêu than dưới gông cùm nô lệ, toàn bộ mục đích luân lý của câu chuyện Moses là phải xây dựng cho kỳ được một xã hội có khả năng nuôi dưỡng mọi thành phần. Có đến 36 lần trong kinh thánh Torah, người Israel được thúc đẩy phải thân thiện với kẻ xa lạ, bởi vì chính họ đã kinh qua thân phận hẩm hiu của người xa lạ trên đất Ai Cập.

Ba là, kẻ ở trong sa mạc Sinai phải biết chịu nóng. Kinh Thánh nhắc đến chí ít cả chục cuộc nổi loạn, trong đó dân chúng âm mưu lật đổ Moses. Có một sự tương đồng đến kỳ lạ giữa Moses và Obama: trên đường đi đến đất hứa, người Israel thậm chí đã nghi ngờ cả dòng máu Do Thái trong huyết quản Moses [như có người đã nghi ngờ Obama không sinh ra trên đất Mỹ, ND]: “Ai cho ông cái quyền lãnh đạo chúng tôi?” Thiên Chúa đã có lần đề nghị phải hủy diệt dân tộc Israel [chỉ chừa lại gia đình Moses, ND], nhưng Moses xin dàn xếp với Ngài một cuộc tương nhượng, [theo đó, chỉ có thế hệ sinh ra và lớn lên trong sa mạc mới được sống sót để đi vào đất hứa, ND]. Những nhà lãnh đạo mạnh nhất là những người có khả năng đương đầu với những chỉ trích gay gắt nhất đồng thời vẫn giữ vững lập trường đối với những kẻ chống đối.

Sau cùng, có thể nhà lãnh đạo sẽ không vào được đất hứa. Bị buộc phải chết trên Núi Nebo bên kia sông Jordan, Moses đối đầu với lựa chọn sau cùng: Ông sẽ chống lại mệnh Trời hay sẽ chuẩn bị cho dân Israel bước vào tương lai? Moses đã chọn lấy điều sau. “Hôm nay ta đặt trước mặt các ngươi sự sống và sự thịnh vượng, sự chết và nghịch cảnh”, ông nói. “Hãy chọn lấy sự sống”.

Những lời này có lẽ cô đọng được bài học khó khăn nhất của nghệ thuật lãnh đạo: Mặc dù bạn có thể thất bại, nhưng di sản của bạn là chuẩn bị cho những môn đệ đi tới thành công mà không cần có bạn bên cạnh. Vì thế, cứ nhảy ào xuống biển, kiên trì vượt qua sa mạc, và đừng ngạc nhiên nếu bạn không đi tới đích. Bởi vì cái đích đến thực sự không nằm ở năm này, nhưng phải đợi đến sang năm—không thuộc thế hệ này, mà thuộc thế hệ mai sau.

Feiler là tác giả của cuốn America’s Prophet: Moses and the American Story. Bài báo này dựa vào cuốn sách vừa nói.

Nguồn: http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,1927303,00.html

Bản tiếng Việt © 2010 Trần Ngọc Cư

Bản tiếng Việt © 2010 talawas


[1] The Pilgrims: những người Anh ly khai, rời bỏ tổ quốc để đi tìm tự do tôn giáo tại châu Mỹ. Họ lập nên thuộc địa Plymouth tại Tân Anh Cát Lợi (New England) năm 1620 – ND.

Bình luận

2 Comments (bài “Bruce Feiler: Moses đã ảnh hưởng lịch sử Hoa Kỳ như thế nào?”)

  1. Khánh Minh viết:

    Bản dịch rất hay và ý nghĩa, cám ơn ông Trần Ngọc Cư. Hàng năm đài truyền hình Đức vẫn chiếu lại phim về Moses, Mười điều răn, xem lại nhiều lần vẫn thấy hay.

    Đọc bài này không khỏi liên tưởng đến thảm cảnh của người VN: năm 1954 hơn một triệu người miền Bắc phải bỏ quê hương xứ sở chạy vào miền Nam tìm tự do, phần lớn đi bằng “tàu há mồm” từ Hải Phòng vượt biển vào tận Saigon, đến tận những tỉnh xa xôi ở miền Nam. Từ năm 1975 lại có hơn một triệu người liều mình vượt biển đi tìm tự do ở các miền đất hứa khác, có khác gì dân Do Thái phải nhảy xuống biển Hồng Hải, để chạy khỏi xứ Ai Cập, thoát khỏi sự cai trị độc ác của các Pharaoh.

    Cho tới ngày nay những pharaoh đỏ ở VN đã lãnh đạo đất nước, cai trị nhân dân thế nào mà người Việt trong nước vẫn tiếp tục tìm mọi cách ra đi, dưới nhiều hình thức khác nhau, dù phải vay mượn nợ, biết nguy hiểm, vẫn liều mạng đi tìm miền đất hứa xa xôi khác?

    Điều khác biệt là dân Do Thái ngày xưa phải chịu đựng sự bóc lột, tàn ác của pharaoh Ai Cập. Dân VN ngày nay phải gánh chịu sự cai trị độc tài gian ác và ngu xuẩn của chính các pharaoh đỏ đồng chủng. Còn cay đắng nào hơn?

    Câu kết của bài có ý nghĩa sâu sắc: “Mặc dù bạn có thể thất bại, nhưng di sản của bạn là chuẩn bị cho những môn đệ đi tới thành công mà không cần có bạn bên cạnh. Vì thế, cứ nhảy ào xuống biển, kiên trì vượt qua sa mạc, và đừng ngạc nhiên nếu bạn không đi tới đích. Bởi vì cái đích đến thực sự không nằm ở năm này, nhưng phải đợi đến sang năm—không thuộc thế hệ này, mà thuộc thế hệ mai sau.”

    Tôi nghĩ đến ngài Dalai Lama khi trả lời phỏng vấn nhà báo Richard Lister, sau buổi gặp gỡ với Tổng thống Obama. Ông R.Lister viết:”… tôi đã hỏi Dalai Lama liệu ông có cảm thấy mệt mỏi khi phải chơi lá bài ngoại giao kiểu nghi thức như vậy năm này qua năm khác mà hiệu quả thật chẳng nhiều hay không. “Không!” ông nói mạnh mẽ. “Việc đạt được điều gì đó nhanh chậm ra sao không quan trọng.” Quan trọng hơn, theo ông, đây là sự nghiệp đáng đấu tranh thậm chí khi thành công có thể có được “sau khi tôi nhắm mắt”.

    Không biết ngài Dalai Lama có đọc gì về Moses, nhưng câu trả lời của ông cho thấy ông rất gần với Moses, với Martin Luther King Jr. Những tâm hồn lớn với lý tưởng cao cả, đều kiên trì theo đuổi mục đích cho đến phút cuối cùng của đời họ, không màng quan tâm liệu sự đấu tranh và hy sinh gian khổ của ta có làm lợi gì cho ta không, họ nghĩ đến cái lợi chung cho con người, cho nhân dân. Thiết nghĩ đây là bài học cho các nhà dân chủ đang đấu tranh cho tự do, chống lại chế độ độc đảng độc quyền của các pharaoh đỏ hiện đại.

  2. Phùng Tường Vân viết:

    Xin cảm ơn ông Trần Ngọc Cư đã cung ứng cho độc giả mạng này một bản dịch gọn gàng, thẩm quyền, minh bạch giới thiệu một tác phẩm bổ ích. Thật cũng còn quá nhiều điều còn ở phía trước để xem Obama có chút gì sẽ được nhắc nhớ, hiện tại cũng như mai sau về hình ảnh của một Moises mà nước Mỹ và nhân loại tự do mong đợi, bài báo gọi mở người đọc, dân Mỹ kiên nhẫn hơn, đúng là “Bước chân lịch sử đi không vội” (Nguyễn Hữu Đang).

    Tôi nhớ cũng ở trên mục PH này thôi có một độc giả nhắc nhở rằng talawas đã cung cấp cho độc giả những chặng quá giang (free ride) bổ ích trên các giao lộ của chữ nghĩa (xin có một hồi tưởng ngắn về những ngày talawas bị giật sập!) vậy trước khi có thể làm được điều gì khác cho đúng đức công chính, ngoài lời cảm ơn những người viết (như ở đây, ông TNC), thiết tưỏng một nốt cảm ơn trang chủ Phạm Thị Hoài cùng các vị cộng sự tận tâm của bà cũng là một điều cần thiết.

    PTV

  • talawas - Lời tạm biệt

  • Nói lời chia tay sau 9 năm tồn tại, chúng tôi thiết tha hi vọng vào sự ra đời của những mô hình báo chí và truyền thông mới, thực hiện bởi những người được trang bị những khả năng và phương tiện mà chúng tôi đã không thể có, với cùng một nhiệt thành phấn đấu cho một nền báo chí tự do cho Việt Nam… đọc tiếp >>>

  • Phản hồi mới nhất của độc giả

    talawas blog: Cảm ơn tất cả! Tạm biệt và mong ngày ...
    Trung Thứ: Trích: „Ngoài ra, việc duy trì nhóm khởi...
    Hà Sĩ Phu: LỜI TẠM BIỆT: Buông lơi “một...
    Phùng Tường Vân: Dục Biệt Nhung Dục (Trung Đường) có ...
    Hoài Phi: Chỉ còn vài phút thôi là talawas chính th...
    Hà Sĩ Phu: @ixij Bạn ixij đã gõ đúng chỗ tôi c...
    P: Kính gửi hai bác Lê Anh Dũng và Trung Thứ...
    Hoangnguyen: Không biết những dòng chữ này còn kịp ...
    Trần Quốc Việt: Dear Talawas, Thank you! You're gone now but I ...
    Nguyễn Ước: Xin lỗi. Tôi hơi bị nhớ lầm vài chữ t...
    Trung Thứ: Thưa bác Lê Anh Dũng, Thời giờ cũng đ...
    Trần Quốc Việt: Hành trang rời Talawas: Live Not By Lies ...
    Hoà Nguyễn: Qua bức thư hết sức nhã nhặn, lịch s...
    Trần Việt: Ôi, nếu được như bác Hữu Tình hình du...
    ixij: Không được tham gia trả lời 3 câu hỏi ...
    Lâm Hoàng Mạnh: Đốt Lò Hương Cũ. Mượn thơ của Th...
    P: Cũng xin góp thêm một bài mới biết :D ...
    Lê Tuấn Huy: Xin gửi anh VQU, TV và những người quan t...
    Khiêm: Cảm ơn nhà văn Võ Thị Hảo đã thực hi...
    Phùng Công Tử: Bị bắt cũng đáng! Vào blog của CoigaiDoL...
    Phùng Công Tử: Nô lệ của văn hóa Trung Quốc: Đi hỏ...
    classicalmood: Bài viết có một số điểm tích cực nh...
    Thanh Nguyễn: Đọc những con số thống kê trong bài vi...
    Phùng Tường Vân: Vĩ Thanh tiễn chị Hoài Thế sự mang ...
    Tiêu Kiến Xương: ĐBA mượn lời ông bác nông dân: "Nói gì...
    dodung: "Sóng lớp phế hưng coi đã rộn......
    Camillia Ngo: Chín năm, một quãng đường dài, Bóng ng...
    Camillia Ngo: Một dân tộc u mê, hèn kém tột độ mớ...
    Thai Huu Tinh: Thưa các bác Trần Việt, Quốc Uy, Tuấn H...
    Phùng Tường Vân: " Thứ nhất, nói mọi thứ đều thối ná...
    Nguyễn Ước: Tôi không vào được Phản hồi bên bài C...
    Tôn Văn: Tiếp theo „Lời tạm biệt“ Câu hỏi...
    Trần Việt: Công bằng mà nói một cách ngắn gọn, Gs...
    Phùng Công Tử: Và gần đây tôi cảm thấy hơi phiền hơ...
    Bùi Xuân Bách: Việc talawas ngừng hoạt động tuy có là ...
    Nguyễn Chính: Gửi chị Phạm Thị Hoài và Ban Biên tập...
    Lê Tuấn Huy: Việc cảnh giác, tôi đã nói đến. Tôi t...
    vuquocuy: - Tác giả Lê Tuấn Huy đã phát hiện rấ...
    Hạnh Đào: Hơn tuần nay, tôi ngần ngại không muốn ...
    classicalmood: Talawas đột ngột chia tay khiến không ít ...
    Lê Anh Dũng: Bravo ý tưởng tuyệt vời của Arthur, ...
    Thanh Nguyễn: Chào chị Hoài, Cảm ơn tâm huyết và nh...
    Thanh Nguyễn: Cảm ơn ý kiến của anh Hoàng Ngọc Tuấn...
    Hà Minh: Cuộc vui nào cũng phải đến lúc tàn, (al...
    P: Xin có lời cảm ơn gửi đến những ngư...
    Nguyễn Đình Đăng: Tôi lợi dụng chính phản hồi của mình ...
    Arthur: Có nên đề nghi BBT Talawas chơi/hát lại b...
    Phùng Tường Vân: Tôi xin kể thêm truyện này, nghe cũng lâu...
    Hà Sĩ Phu: @ Nam Dao Đây là bài “bình thơ chơi” v...
    Lê Anh Dũng: Thưa bác Trung Thứ, Cám ơn bác về nhã...
    Trần Việt: Đồng ý với ông Lê Tuấn Huy. Tuy chỉ c...
    Trầm Kha: CÓ THẾ CHỨ! THẾ MỚI 'TIỀN VỆ' CHỨ!...
    Phùng Tường Vân: Hết xảy ! (http://www.talawas.org/?p=26665#co...
    Hoàng Ngọc-Tuấn: Xin thông báo cùng quý vị: Để tiếp n...
    Dương Danh Huy: Cảm ơn bác Phùng Tường Vân và Lâm Hòan...
    Phùng Tường Vân: Đôi lời thưa thêm với bác D.D.Huy, Xin...
    chuha: Mỗi người có một "gu" ăn phở. Riêng t...
    Trương Đức: "Chị Hoài ơi, chị Hoài ơi Niết Bàn nà...
    Phùng Tường Vân: Thưa Bác Dương Danh Huy Xin vội vã trìn...
    Dương Danh Huy: À, có điều tôi muốn nhắc các bác: K...
    hlevan: “Le coeur a ses raisons que la raison ignore” ...
    Dương Danh Huy: Bác Phùng Tường Vân, Lâm Hòang Mạnh &...
    Phùng Tường Vân: CẨN BẠCH Nhận biết được giới hạ...
    Le Van Hung: Thử lướt qua các trang web Việt Nam, chún...
    Đinh Minh Đạo: Tin TALAWS sẽ ngừng hoạt động làm tôi n...
    Lê Quốc Trinh: Cám ơn tác giả Phạm Hồng Sơn, Nếu c...
    Le Van Hung: "Giáo dục, giáo dục và giáo dục (có l...
    classicalmood: Vậy thì quyết định đóng cửa Talawas, n...
    VanLang: "Merda d’artista" vẫn đang được trưng b...
    Khiêm: Bác Phùng, Một người quen cho biết xếp...
    Nguyễn Đăng Thường: Đập phá & xây dựng “Đạp đổ t...
    Tonnguyen147: Bác Phùng Tường Vân, Người ta không ...
    Hoà Nguyễn: Hôm nay có tin đại biểu Quốc hội Việt...
    Hoà Nguyễn: Báo Người Việt hôm nay đăng toàn văn l...
    Trung Nu Hoang: @ Tạm Biệt talawas. Với lòng quý mến ...
    Tonnguyen147: Bác Trung Thứ và các bác ơi, Chủ Nh...
    VanLang: Đầu thập niên 90 Việt Nam lạm phát phi ...
    Nam Dao: Trình với cả làng Thể ý Trưng Nữ Ho...
    Lâm Hoàng Mạnh: Nâng cốc, cụng ly ... hết váng đầu Nh...
    Hoà Nguyễn: Cứ tưởng nếu khách ngồi bàn chuyện ho...
    Nam Dao: Anh thân mến Quí trọng những việc an...
    Thanh Nguyễn: Talawas trước giờ lâm chung mà vẫn đau ...
    Phùng Tường Vân: Chiếc Cân Thủy Ngân ..."Cứ xét theo ...
    Trung Nu Hoang: Nếu nhà văn Phạm Thị Hoài và BBT Talawas...
    Bắc Phong: bác bị váng đầu thèm uống rượu cứ ...
    Lê Thị Thấm Vân: Ngân trong "là con người", một trích đo...
    classicalmood: Talawas đột ngột chia tay khiến không ít ...
    Trung Thứ: Thưa bác Lê Anh Dũng, Tôi xin chia sẻ thê...
    Canuck: Bác Nguyễn Phong, Tui thấy đây là vấn...
    Nguyễn Đình Đăng: Bravo! Như một minh hoạ cho bài này mờ...
    Dương Danh Huy: Bác Phùng Tường Vân, Tôi đã set up hai...
    Phùng Tường Vân: @Nguyên Phong (http://www.talawas.org/?p=26665#c...
    Nguyễn Phong: Tôi thấy các bác hơi lạc quan và ảo tư...
    Thuận: Chỉ còn ít giờ nữa, Talawas sẽ đóng c...
    Trương Đức: "Nửa ấy… “nói chung là”: nửa dưới...
    Trầm Kha: talawas ơi! oan ức quá! Oan ức quá! Em ...
    Canuck: Tui cám ơn Ban Chủ Nhiệm, Ban Biên Tập Ta...
    Trầm Kha: bác vạch lẹ quá! em há hốc hà lá nho ...
    Trầm Kha: thường thì bác Thường siết... hết bế...
    pham duc le: Tôi đồng ý với bạn Nguyễn Phong, nhưng...
    booksreader: Au plaisir de vous revoir, "một mô hình hoạt...
    Bach Phat Gia: Tôi là độc giả của talawas đã mấy nă...
    Lề Trái: Trong việc tẩm bổ chỉ xin Gia Cát Dự đ...
    Lê Anh Dũng: Thưa bác Trầm Kha, bác Đào Nguyên, Xin ...
    Lê Thượng: Nói rằng "So với thảm họa môi trường ...
    Anh Dũng: @1mitee: 1. Muốn SỐNG tới mức "cụ" nh...
    Đào Nguyên: @ Anh Dũng "...phải nghe lời cái dạ dày,...
    Trầm Kha: “Khi cầm cuốn Kinh thánh, tôi đọc với...
    Đào Nguyên: @ bác Nguyễn Phong Tôi đồng thanh tương ...
    Hoà Nguyễn: Sau chuỗi cười khá thoải mái do ông Gia ...
    1mitee: @Anh Dũng "Cả ông Marx, ông Hồ Chí Minh,...
    Bùi Văn Phú: Bạn Trung Nu Hoang ơi, Bạn có khả năng...
    Thái Hữu Tình: Bài vừa mới ra lò, mấy anh (cả mấy ch...
    Canuck: Trong đời tui, có 3 lần / hoàn cảnh xảy...
    Phùng Tường Vân: Lời đề nghị khẩn khoản của tôi Nh...
    Thái Hữu Tình: 1/ Bài nghiên cứu này của ông MTL càng ch...
    Nguyễn Phong: Thực ra ở hải ngoại hiện nay thì có m...
    Anh Dũng: @Đào Nguyên: 1. Cái bạc triệu (VNĐ) c...
    Dương Danh Huy: Bác Hòa Trước hết tôi cảm ơn về l...
    Louis: Trong phút giây chia tay người tình ảo, b...
    Đào Nguyên: Từ lâu ngưỡng mộ bác, biết bác thích ...
    Trầm Kha: Ha ha ha! Bác Trương Đức ơi, Bác "đả t...
    Lê Quốc Trinh: LÊ QUỐC TRINH - LỜI GIÃ BIỆT Thân m...
    vantruong: Thôi thì trước khi giải tán tụ tập tal...
    Đào Nguyên: @Anh Dũng "... - Không có đủ sản phẩm ...
    VietSoul:21: Tôi không nghĩ tài chánh là vấn đề (ch...
    Hoàng Trường Sa: Talawas ơi Ta giã biệt em Như giã từ cu...
    Hoàng Trường Sa: Bauxite Việt Nam: hãy cứu ngay chữ tín! (...
    Anh Dũng: @Đào Nguyên: Thực ra Marx có nói, nói n...
    Lâm Hoàng Mạnh: Chỉ còn vài 28 giờ, Ta Là... Gì sẽ ngh...
    Le Van Hung: Kính thưa các Anh Chị, Từ trước đế...
    Phùng Tường Vân: Bi giờ sắp đến giờ lâm biệt Xin Gia T...
    Hoàng Trường Sa: EM ĐI RỒI Em đã đi rồi thế cũng xong...
    Nguyễn Đăng Thường: Chia tay phút này ai không thấy buồn? Nh...
    Trung Nu Hoang: Tôi cũng có nghe kể chuyện một "học gi...
    peihoh: Tôi không được hỏi ba câu hỏi của tal...
    peihoh: Anh Lại Văn Sâm ơi! Dịch giùm câu này: "...
    Đào Nguyên: @ Anh Dũng Mác nói nhiều về lợi nhuận,...
    Hoà Nguyễn: Ông Huy viết : Điều tôi nói hoàn toàn kh...
    Trương Đức: Đọc cái câu này: "2030: định mệnh đã ...
    Đào Nguyên: Tôi cũng có đọc những câu chuyện với ...
    Camillia Ngo: Nguyễn Khoa Thái-Anh nói "Vũ Huy Quang là m...
    Dương Danh Huy: Bác Hoà Tôi cũng thấy thú vị khi đọ...
    Thanh Nguyễn: Giữa cái lúc "dầu sôi lửa bỏng" thế n...
    Thanh Nguyễn: Nếu vì lý do tài chính mà talawas đóng c...
    Thanh Nguyễn: Oh, Thank you Trầm Hương! We all have our h...
    Hà Minh: Một truyện ngắn quá hay, cảm ơn tác gi...
    Nguyễn Việt Thanh: Trên Talawas bộ cũ, có lần nhà văn Phạm...
    Anh Dũng: Ông Đào Nguyên nói đến "duy lợi". Nhưng...
    Hoàng Trường Sa: BRING ME HAPPINESS Đừng đi Đừng đi Đ...
    Lê Anh Dũng: (tiếp) Nhưng chính nhờ Tin Lành VN như...
    Lê Anh Dũng: Thưa bác Trung Thứ, Trong cảnh talawas ch...
    Đào Nguyên: Lời ông Vũ Huy Quang làm tôi nhớ tới l...
    Đào Nguyên: @ Nguyễn Khoa Thái Anh Trước khi chiéc thu...
    Trương Nhân Tuấn: Trích : « Người Việt hải ngoại vẫn th...
    Hoàng Trường Sa: Bô xít Việt Nam : Truyền thông Mỹ sắp n...
    khonglaai: Không ngờ anh Bách còn giỏi cả tiến...
    khonglaai: Nếu có giải thưởng talacu thì tôi ti...
    Phùng Tường Vân: Chúc nhau chân cứng đá mềm Chúc nhau an ...
    khonglaai: “Khi nói chuyện với mình họ chỉ nhìn ...