Hồ Trung Tú – Lý Duyên khởi- Một cách hiểu khác
27/02/2010 | 1:45 sáng | 13 Comments
Category: Tôn giáo, Tư tưởng
Thẻ: Phật giáo
Nói thật với bác Phong Uyên, từ lâu nay với riêng tôi, 12 mối nhân duyên thực ra chỉ cần đến Danh Sắc là đủ.
Danh sắc theo tôi hiểu chính là sự hình thành của cái bản Ngã. “Danh” trong nghĩa của chữ “danh dự” ta sẽ hiểu nghĩa của cái Ngã ẩn chứa trong khái niệm Danh (ngũ uẩn) Sắc (tứ đại) này.
Cách hiểu “12 điều kiện tương quan này chỉ là ý niệm dùng để giải thích nghiệp báo” như bác và huynh Tri Ngộ nói; hoặc cách hiểu Lý nhân duyên là quy luật của vũ trụ, con người đã sống là ở trong cái vòng quy luật ấy, nhận thức đúng đắn quy luật cũng sẽ đưa đến giác ngộ sự thật; hoặc cách hiểu về vòng tròn luân hồi… là những cách hiểu “mặc định” từ ngàn xưa đến giờ và hầu như không có cách hiểu nào khác.
Tôi thì không nghĩ vậy, tôi đồ chừng rằng đây chính là “mô hình” hình thành ý thức, hình thành đời sống tinh thần; từ đó hình thành tính cách, hình thành số phận (gieo tính cách gặt số phận) của con người mà đức Bổn Sư của chúng ta đã phát hiện ra.
Và ta hãy xem lại:
Khởi thủy là vô minh, u tối (tiếng Tây dịch là đui mù e không ổn vì đui mù vẫn có ý thức). Ở đâu không biết chứ ở trên trái đất này, không có sự sống thì không có tinh thần, không có hệ thần kinh. Không thể bảo đất đá là vô minh được. Chỉ khi sự sống hình thành, như con vi khuẩn chẳng hạn, đã nhận biết ánh sáng và điều kiện thức ăn để tìm đến và giao phối sinh sản thì lúc ấy mặt đất mới có chút đời sống thuộc về tinh thần và ta hoàn toàn có thể bảo con vi khuẩn 2 tỉ năm trước ấy là vô minh. Để hiểu rõ chữ Vô minh có lẽ phải hình dung đến lúc trái đất có khủng long với một mặt đất đầy những tiếng gầm rú man dại của sự tăm tối, cuộc sống đã đủ nhộn nhịp sinh động, nhưng ý thức vắng mặt hoàn toàn, chỉ có những tiếng rú của bản năng hoang dại.
Và từ cái vô minh ấy mà “Hành” hình thành, Tây Âu dịch là “kiến tạo tâm trí”, theo tôi là hoàn toàn chính xác chứng tỏ người dịch đã hiểu vấn đề. Cái tâm trí được kiến tạo này hoàn toàn chưa có ý thức, như đời sống tình cảm các động vật có vú như linh trưởng, khỉ, chó, ngựa vậy. Tâm trí đã được kiến tạo trong chúng nhưng bảo chúng có ý thức thì không thể.
Và chính từ hệ thần kinh trung ương của các động vật có vú này mà con người xuất hiện. Con vượn người chỉ thực sự được gọi là người khi Ý THỨC xuất hiện. Bác Phong Uyên đã viết được “Vijnana: Dịch tiếng Hán là Thức. Tiếng Âu Tây là Nhận thức (conscience discriminatoire), Thức biết phân biệt, biết phân tích” nhưng lại lại bảo trong bài phản biện đầu tiên: “Thức đây không phải là “ý thức” (conscience) mà là cái kết quả tốt xấu của Nghiệp, quy định sự tái sinh trong vòng luân hồi”. Tôi hiểu, “Thức là do Hành Vô Minh sanh” là một quan điểm khó chấp nhận, thế nhưng để phản đối nó đâu cần bác phải tự mâu thuẫn mình như vậy?
Nhận thức về thế giới, về cái chết, về sự sợ hãi vẫn chưa đủ để tạo nên một bản ngã nhiều tham muốn. Như trẻ con đã có ý thức nhưng cái Tôi vẫn chưa hình thành. Và từ đó mà Thức khởi sanh nên DANH SẮC.
Theo tôi , khi có Danh Sắc, có bản ngã, có ý thức về bản thân con người sẽ tạo nên đủ thứ tham ái kinh khủng mà ta gọi là xã hội loài người hôm nay.
Nếu hiểu theo cách này ta sẽ thấy Phật Thích Ca là vô cùng vĩ đại vì đã phát hiện ra cái quy luật hình thành đời sống tinh thần của con người, cái quy luật mà một nhà khoa học, một bác sĩ ở Âu Tây như bác Phong Uyên đến giờ cũng chưa hình dung hết.
Chính vì lý do này mà tôi làm một cái kết nối Trần Đức Thảo đến với Phật giáo.
Và đặc biệt, hơn bất cứ một nhà khoa học về thần kinh, tâm lý hoặc triết gia nào khác, chính từ cái nhìn vô cùng biện chứng này về đời sống tinh thần của con người mà Phật Thích Ca đã chỉ cho ta con đường để thoát khổ. Đó chính là dùng THỨC để đi ngược lại “phá tan hầm sâu vô thủy vô minh”. (Các bác có thể vào đây để xem vị trí của vô minh qua hình ảnh một bức tượng mà tôi đã hỏi nhiều vị sư mà vẫn không biết tên gọi là gì. Tôi đồ chừng rằng ngày xưa, người biết chữ ít, chỉ cần qua một cái hình vẽ hoặc bức tượng như thế này người đó đã có thể hiểu được vai trò vị trí của VÔ MINH mà hướng đến tu tập). Còn thế nào là dùng Thức đi ngược lại để phá tan cái hầm sâu vô thủy vô minh thì các bác tìm hiểu thêm về Thiền Tông, về chuyện “trực chỉ nhân tâm”.
Đến đây các bác có thấy chữ “vô thủy vô minh” là chính xác đến độ khiến ta nổi gai ốc không?
Cái vô minh từ xa xưa, cái vô minh hồi các ADN trong cơ thể ta đây còn là giun là dế, còn là khủng long tranh nhau miếng mồi thối trong những cách rừng tối tăm ẩm thấp!
Cái vô minh ấy vẫn theo ta và điều khiển ta trong từng hành vi mà ta không tự biết. Vậy hà cớ gì ta phải sống chung với nó mà không tìm cách phá tan nó đi? Dùng thức để khắc chế ư? Không bao giờ, Thức sinh sau, là lớp vỏ của bộ não, vô minh ở tầng sâu hơn, tầng mà giống nhau trong cấu tạo giải phẫu thân não của con người và con gà thì làm sao THỨC có thể với tới mà điều khiển nó?
Xin đừng nghĩ Vô Minh theo nghĩa xấu. Bất cứ thứ gì khác thuộc về tinh thần, trong đó kể cả Thức (bao gồm cả tâm thiện hoặc tâm bất thiện) đều khởi đi từ vô minh, hay nói đúng hơn chịu sự điểu khiển của vô minh, qua cái màn lọc vô minh. Đừng tưởng một việc thiện mà không bị vô minh sai xử. Bằng công cụ phân tâm học của Freud ta sẽ thấy được đằng sau hành động thiện, thoạt trông rất mĩ miều ấy là một cái ngã được vuốt ve, cái libido tính dục thôi thúc, sự sợ hãi trước cái chết được an ủi. Nhìn thấu tận gốc của điểm sinh tâm thiện và tâm bất thiện này là đã đi được nửa đường rồi.
Huynh Tri Ngộ đã rất đúng khi nói: “Vô minh chính là bản thân của Mạt Na (thức thứ bảy, còn được gọi là “tư lượng thức”, căn cứ phát sinh mọi ý niệm nhân ngã và tư duy). Vì thức này là căn của thức thứ sáu (Ý Thức, YT) nên thức thứ sáu cũng bị “ô nhiễm” ). Thế nhưng anh đã tự mâu thuẫn khi nói tiếp: “Vô minh do các tâm sở (chấp ngã si, chấp ngã mạn, chấp ngã ái, và chấp ngã kiến) tác động”. Theo tôi, Vô minh chỉ tác động đến các tâm sở ấy chứ các tâm sở không thể nào tác động được đến vô minh, đơn giản là vì các Tâm sở thuộc về THỨC, mà thức là “hàng cháu” của Vô Minh, có nghĩa là Thức không bao giờ “với” tới được vô minh, chạm được đến Vô minh, có nghĩa là không thể tác động được đến vô minh. Hoàn toàn đồng ý với anh ở chỗ “Vô minh chính là bản thân Mạt Na Thức” tôi xin thêm, A Lại Da Thức cũng là căn của Vô Minh, ở một tầng sâu hơn nữa. Chính vì vậy mà Thiền Tông mới có câu “Một bước nhảy qua cái ruộng bát thức”.
Và cũng cùng một khái niệm nhảy qua cái ruộng thức thứ 8 đó Thiền Tông còn có rất nhiều thuật ngữ để chỉ cái hành động “cuối cùng” ấy: “cắt đứt mạng căn ngàn đời”, “nhất đao lưỡng đoạn”, “phá tan hầm sâu vô thủy vô minh”, “tuyệt tử tái tô,…
© 2010 Hồ Trung Tú
© 2010 talawas
Bình luận
13 Comments (bài “Hồ Trung Tú – Lý Duyên khởi- Một cách hiểu khác”)
Cám ơn bác Tri Ngộ và bác Kim Sinh. Đáng ra những câu hỏi đó tôi không nên hỏi, thế mà tôi vẫn cứ ráng hỏi. Vì những câu trả lời không có gì mới, và tất đó là lỗi của người hỏi chứ không phải người trả lời.
Còn về câu hỏi của bác TN, Đức Phật giác ngộ rồi mà vẫn còn bị Devadatta lăn đá từ trên cao làm Ngài bị thương ở chân… chắc là tại Devadatta chưa giác ngộ hả bác??? 🙂
@ Kim Sinh
Tôi hơi thất vọng về câu trả lời của bạn.
Ý tôi đưa ra không phải để hù hay nhát ai. Đây là một câu hỏi đứng đắn, chính tôi cũng không có câu trà lời (mặc dù tôi có một cái nhìn về chuyện này). Vì tôi nghĩ trên diễn đàn talawas có thể có bác/anh/chị nào đó có thể đã gặp câu hỏi tương tự : đã giác ngộ tức là trên nguyên tắc dứt hết sạch nghiệp, tại sao lại còn gặp tai ương ?
Tri Ngộ: Và câu hỏi tôi hỏi trước đây vẫn không thấy được phản hồi : tại sao Đức Phật giác ngộ rồi mà vẫn còn bị Devadatta lăn đá từ trên cao làm Ngài bị thương ở chân ?
Kim Sinh: Hì… Ai muốn phản hồi thì phản hồi, ai muốn tìm trong cái “thúng rác” nghiệp duyên (hiểu theo nghĩa cứ gì bí thỉ đổ vào đó) câu trả lời vì sao Phật còn bị nạn, thì cứ việc. Anh TRi Ngộ hỏi như thế tức là đã có câu trả lời, xin anh cứ việc trình bày.
Và tôi tin chắc là câu trả lời của anh sẽ không có ai có đủ bằng chứng để bảo nó sai hoặc đúng 🙂
@ P
Xin được bàn thêm với bạn P. Như tôi đã viết trong nhiều phản hồi khác nhau, thức A Lại Gia (ALG) thường được gọi tên dưới 3 hình thức khác nhau (và vì chính những ngôn từ này mà chúng ta ít khi có đồng thuận) : (1) năng tàng thức (khả năng của ALG bảo tồn và duy trì mọi pháp, (2) sở tàng thức (nội dung của tất cả những gì ALG chứa, hay đồ trong nhà kho, hay chủng tử), (3) ngã ái chấp tàng (ALG bị thức thứ 7 là Mạt Na nhận là cái ta). Nhờ vào Ý Thức (thức thứ 6), chúng ta bắt đầu nhận ra những gì trong kho (ALG) (nhờ vào pháp môn tu tập chánh niệm) khi nó biểu hiện và chúng ta chuyển hoá được những đồ chất chứa trong kho này (chủng tử) làm cho tất cả những chủng tử trở nên thanh tịnh. Lúc đó vô minh sẽ tiêu tan và Mạt Na do đó sẽ bị xoá bỏ (vì đối tượng của Mạt Na đã trở nên thanh tịnh). Ở trạng thái giác ngộ vô ngã chấp này, Mạt Na biến thành Bình Đẳng Tánh Trí, có khả năng soi rõ tính cách phi nhân phi ngã của hiện hữu mầu nhiệm. ALG biến thành Đại Viên Cảnh Trí và từ đó mọi cọng nghiệp và biệt nghiệp cũng như luân hồi khổ đau không còn nữa. Và cái Ý Thức (thức thứ 6) nó đóng vai trò quan trọng nhất trên đường đi tới giác ngộ, lúc đó nó trở thành Diệu Quan Sát Trí tức là khả năng nhìn thấu được tất cả tâm lý của mọi chúng sinh, biết được mọi nhu yếu và mọi vấn đề khó khăn của họ, thấy được tính cách bình đẳng và đại hoà của vạn pháp. Thế còn năm thức cảm giác ? Năm ông này sẽ được chuyển thành Thành Sở Tác Trí, tức là khả năng có thể thực hiện những phép mầu nhiệm giúp người giác ngộ trong việc hoằng pháp độ đời.
Và câu hỏi tôi hỏi trước đây vẫn không thấy được phản hồi : tại sao Đức Phật giác ngộ rồi mà vẫn còn bị Devadatta lăn đá từ trên cao làm Ngài bị thương ở chân ?
” Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm”
“Em nằm ngủ tự nghìn xưa thấp thoáng
Tôi bước qua từ ngữ rụng hai lần”
(Trung Niên Thi sỹ Bàng Giúi)
P:
Bác HTT viết: “Cái vô minh ấy vẫn theo ta và điều khiển ta trong từng hành vi mà ta không tự biết. Vậy hà cớ gì ta phải sống chung với nó mà không tìm cách phá tan nó đi?”
1. Câu hỏi trên có nằm trong “tầm điều khiển” của vô minh không? Nói cách khác, vậy ham muốn phá tan vô minh có xuất phát từ vô minh không? Nếu không thì tại sao?
HTT: Thưa bác, CÓ. Đó thực sự là một tham muốn. Điểm xuất phát của thái tử Tất ĐẠT Đa cũng là một điều tham muốn.
P: 2. Phá tan vô minh thì đạt giác ngộ. Khi đạt giác ngộ thì cái gì theo ta và điều khiển ta (khi vô minh đã bị phá tan), cái gì là căn của hành và thức của một bậc giác ngộ?
HTT: Tôi nghĩ là thức nó sẽ không bị ô nhiễm bởi các tàng thức vô minh. Nói cho dễ hiểu, mỗi ý nghĩ của sẽ không còn phải chui cái lọc danh dự, sĩ diện, tham muốn, được hay không được, tốt xấu…
Tôi có vài câu hỏi xin được bác HTT (và các bác khác) giúp:
Bác HTT viết: “Cái vô minh ấy vẫn theo ta và điều khiển ta trong từng hành vi mà ta không tự biết. Vậy hà cớ gì ta phải sống chung với nó mà không tìm cách phá tan nó đi?”
1. Câu hỏi trên có nằm trong “tầm điều khiển” của vô minh không? Nói cách khác, vậy ham muốn phá tan vô minh có xuất phát từ vô minh không? Nếu không thì tại sao?
2. Phá tan vô minh thì đạt giác ngộ. Khi đạt giác ngộ thì cái gì theo ta và điều khiển ta (khi vô minh đã bị phá tan), cái gì là căn của hành và thức của một bậc giác ngộ?
3. Liệu có thể lập lại câu nói trên của bác HTT với “giác ngộ” thay cho “vô minh” không?
Xin cám ơn các bác.
Bài hay, có phát hiện mới, ý kiến độc lập vậy mà các comment đồng thuận hay phản biện đều không thấy. Uổng chứ !
Trả lởi ông Tri Ngộ.
Tâm vương đúng ra là bao gồm cả 8 Thức, như một tổng thể, hơn là chỉ riêng thức A-lại-da. Từ Tâm vương dường như chỉ được dùng trong Câu Xá luận thuộc Nam Tông của Thế Thân, nên nhiều điều về Thức không “tương thích” vói Duy Thức học Bắc Tông. Trong Câu Xá, từ Tâm Vương chỉ hoạt động chung của cà 8 Thức, không phân biệt Lục thức, Mạt Na và A-lại-da thức, ngay cả không thấy có từ tương đương Alaya (Phạn ngữ) trong tiếng Pali của kinh Nam Tông..
Tôi thấy Tâm vương được bàn riêng một chương trong quyển Câu Xá luận cương yếu (trang 55) của Thích Đức Niệm. Thầy Đúc Niệm viết như sau khi nói về Tâm vương: “Luận về lục thức của Câu Xá thì không giống quan điểm của Duy Thức. Ở Duy Thức học thì Tâm chỉ cho Thức thứ 8, Ý chỉ cho thức thứ 6, Thức chỉ cho 6 thức trước”.
Tóm lại , luận Câu Xà của Nam Tông dùng từ Tâm vương để chỉ chung các Thức, và có 46 Tâm Sở coi như thuộc tính của Tâm vương, trong khi Duy Thức học Bắc tông phân biệt 8 Thức với 51 Tâm sở..
Đối chiếu với tâm lý học Tây phương , tôi nghỉ Tâm sở chỉ về phần cảm giác, cảm xúc (như Thọ là cảm giác dễ chịu hay khó chịu ), cảm tính, tình cảm (vui, buồn, hỗ thẹn). Nhưng như cũng đã nói là không phải tất cả đều sát hợp, vì Tâm sờ còn có những thuộc tính của Tâm khác như : Tác ý là chú ý, Tuệ là biết sáng tỏ, Si là không sáng suốt….
@ Hoà Nguyễn (tiếp và hết)
2. ví dụ thứ hai : Danh từ “thức” (không viết hoa) mà tôi vẫn dùng phải được hiểu là nền tảng của mọi biểu hiện và có thể được hiểu như sau : chữ Phạn cho tiếng “thức” này là vijnana, nó là nền tảng bản thể cho cả chủ thể và đối tượng. Nó có tính cách bản thể hơn là hiện tượng (nó chính là nước chứ không phải là sóng). Các sách hay lấy ví dụ một đồng xu có 3 phần : mặt trái đồng xu, mặt phải đồng xu và cái chất đồng làm ra đồng xu. Ba phần đó chẳng bao giờ có thể rời nhau. Tuy nhiên chúng ta phải cẩn thận : nền tảng bản thể mà tôi vừa nêu lên cũng vẫn là khái niệm. Đã là khái niệm thì không chuyên chở được thực tại. Nhưng tôi muốn nêu ra khái niệm này để nói là cả tôi lẫn ông Hoà Nguyễn đều nói giống nhau. Ông Hoà Nguyễn nói ALG thức chính là Tâm Vương. Với khái niệm về tự thể phần (tức là nền tảng bản thể), vì vậy khi tôi nói A Lại Gia thức là nền tảng của các thức tâm vương và 51 tâm sở, điều này cũng tương tự như nói rằng tự thể phần của ALG là tự thể phần của tất cả các tâm vương và tâm sở đó (nghĩa là cùng làm bởi một chất đồng của đồng xu). Thành thử nói ALG là Tâm Vương như ông Hoà Nguyễn cũng không sai. Chỉ là một cách nói khác thôi.
Có dịp tôi sẽ xin nói tiếp về tự thể phần của A Lại Gia Thức qua lăng kính Duy Thức.
@ Hoà Nguyễn
Dĩ nhiên là chúng ta mỗi người có những cái hiểu và cái nhìn riêng, tôi đọc những phản hồi của ông HN rất cẩn thận vì ông viết rất chu đáo và mạch lạc.
Vấn đề của tôi không phải viết lên đễ cãi ai đúng ai sai, tôi nghĩ có thể chúng ta bị “kẹt” vào ngôn từ và vì vậy có thể có sự thiếu thông cảm.
1. Ví dụ thứ nhất : tôi lại nghĩ khác về hai chữ Tâm Vương. Tâm Vương đối với tôi không phải là A Lại Gia Thức. Tâm Vương đối với sụ hiểu biết của tôi chỉ là đối tượng của Tâm Sở. Tôi xin đi lại từ đầu : tôi đồng ý với anh là những tâm sở là thuộc tính của tâm (hoặc tôi xin dùng chữ thức không viết hoa để khỏi ngộ nhận với thức thứ sáu (mà tôi luôn viết hoa, Thức). Những hiện tượng tâm lý (gây ra cảm giác) tiếp nối nhau được gọi là tâm sở (hoặc caitas theo tiếng Phạn). Chúng là nội dung của thức (không viết hoa), như nước sông chính là dòng sông. Nói một cách khác hơn, đối tượng nối tiếp nhau của tâm sở tạo thành đối tượng của thức (giả dụ tôi đang ngắm cảnh mặt trời lặn, tôi có cảm tưởng là cảm giác, tri giác và ý thức của tôi về sự có mặt của buổi hoàng hôn cũng tồn tại lâu bằng thời gian tôi ngắm mật trời lặn. Thực ra, không phải chỉ có một cảm giác, một tri giác, một ý thức mà là một loạt những cảm giác, tri giác và ý thức nối tiếp nhau). Và chính những đối tượng của tâm sở nối tiếp nhau này tạo thành đối tượng của thức. Là những dòng tâm sở liên tục, các thức được gọi là tâm vương (cittaraja). Có cả thảy 51 tâm sở (5 biến hành, 5 biệt cảnh, 11 thiện, 26 bất thiện, và 4 bất định). Ý Thức (viết hoa = thức thứ sáu) thì liên hiệp với tất cả 51 tâm sở. Năm thức cảm giác (nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân) chỉ liên hiệp được với 34 tâm sở. Mạt Na thì bị tác động bởi 18 tâm sở trong đó có 12 tâm sở bất thiện mà 4 anh tạo ra chấp ngả là tham (ngã ái), si (ngã chấp), mạn (ngã mạn), và tà kiến (ngã kiến) như tôi đã trình bày trong một PH trước đây. Còn A Lại Gia thì chỉ bị tác động bởi 5 tâm sở biến hành (vì A Lại Gia thuộc loại thuần trực giác). Năm tâm sở biến hành này tác động trên tất cả 8 Thức.
A Lại Gia (ALG) không thiện cũng không ác. Tính ấy là vô ký (avyakrta). Và chính nhờ tính cách vô ký này mà ALG mới có khả năng huân tập cả thiện pháp và ác pháp. Trong Thiền Tông, người ta tin rằng sự chứng ngộ có được là nhờ công trình của ALG. Tỉ dụ khi công án đã chín muồi, nó sẽ vỡ toang và sự giác ngộ trào lên Ý Thức. Khi tất cả chủng tử trong ALG đã được chuyển hoá (ra khỏi ô nhiễm, chỉ còn những chủng tử thanh tịnh), ALG đạt tới sự chuyển đổi tự thân và biến thành Đại Viên Cảnh Trí, từ đó không còn những cộng hoặc biệt ngiệp luân hồi khổ đau.
Câu hỏi ở đây tôi xin đặt ra cho tất cả các bạn (tôi có câu trả lời của tôi) : vậy tại sao Đức Phật, sau khi thành đạo (chứng ngộ), vẫn còn bị Đề Bà Đạt Ta lăn đá từ núi tìm cách hãm hại và đã làm Đức Phật bị thương ở chân ?
Xin góp ý thêm với ông Tri Ngộ về Tâm Sở.
Tâm Sở cũng gọi là Tâm sở hữu pháp, tức những thứ của Tâm, phụ thuộc vào Tâm, thuộc tính của Tâm Hiểu cách đơn giản nhất, Tâm Sở là tình ý, tình cảm hay tâm tình (buồn, giận, yêu, ghét, tin, nghi, kiêu mạn…), tuy có khi tâm sở không hẳn là tình cảm theo cách hiểu thông thường (như tác ý, nhớ, định, khinh an, hôn trầm, toán loạn tâm ý…). Tâm sở được nghĩ là tác động lên Tâm vương (tức A-lại-da thức), nhưng một số Tâm sở tác động lên cả 8 Thức. Kinh nghiệm thông thuờng cho thấy buồn, giận, vui mừng… che mờ hay có ảnh hưởng nào đó lên nhãn thức, ý thức, và các Thức khác.
Duy thức học chia Tâm sở ra ba loại: thiện, bất thiện và vô ký hay bất định (tùy trường hợp mà là thiện hay bất thiện).
@ Hồ Trung Tú
Xin cảm ơn huynh/bác Hồ Trung Tú (HTT) và talawas đã cho chúng ta thêm cơ hội bàn về nhiều đề tài vừa bổ ích vừa hào hứng trên diễn đàn talawas.
Anh HTT viết tiếp :”Theo tôi, Vô minh chỉ tác động đến các tâm sở ấy chứ các tâm sở không thể nào tác động được đến vô minh, đơn giản là vì các Tâm sở thuộc về THỨC, mà thức là “hàng cháu” của Vô Minh, có nghĩa là Thức không bao giờ “với” tới được vô minh, chạm được đến Vô minh, có nghĩa là không thể tác động được đến vô minh”.
Hay lắm, hay lắm anh HTT ạ, đây là một khẳng định tương tự với kết luận trong phản hồi (PH) của bạn Kim Sinh : vô minh là một “ông bự” !
Tôi không phản đối điều đó (i.e. vô minh là một “ông bự”).
Tuy nhiên để xin nói rõ hơn, khi tôi dùng danh từ “Thức” trong những PH của tôi, tôi muốn nói đến Ý Thức (thức thứ sáu). Và theo các sách tôi đọc được về Duy Thức, các tâm sở chấp ngã tác động ngày đêm trên Mạt Na Thức (cũng là tư lượng thức mà bản thân và bản năng là Vô Minh vì chấp ngã). Ý Thức thì tắt ngấm (= không hoạt động) trong lúc ta ngủ, trong khi đó thì cả hai anh Mạt Na và A Lại Gia hoạt động 24/24.
Các tâm sở KHÔNG thuộc về THỨC (tức là thức thứ sáu). Các tâm sở là những tâm hành căn bản (formations mentales de base) luôn có mặt trong tàng thức tức là A Lại Gia Thức (và chúng nó hoạt động ngày đêm). Và vì vậy người tu giỏi là biết huân tập những chủng tử tốt và chuyển hoá những chủng tử xấu. Mạt Na có thể được chuyển đổi hoàn toàn không còn sai sử Ý Thức trong khi những tâm sở (51 tâm sở) thì sẽ mãi mãi có mặt. “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai” cũng từ những tâm sở mà ra. Tỉ dụ nếu mình không có tâm sở “giận” trong tàng thức (stored consciousness) thì cái giận lấy đâu mà hiện hành. Khi phá vỡ được Vô Minh (= tức là Mạt Na) rồi, những tâm sở kia không còn đủ sức tạo nghiệp qua Ý Thức nữa.