Lê Xuân Khoa – Người Việt hải ngoại làm được gì trước hiểm hoạ Trung Quốc?
01/03/2010 | 1:28 sáng | 23 Comments
Category: Chính trị - Xã hội, Quan hệ Việt – Trung
Thẻ: Hiểm họa Trung Quốc
Sang năm mới Canh Dần, tình hình chính trị Việt Nam đáng bi quan hơn trước. Ngoài “quốc nạn” tham nhũng tiếp tục hoành hành, tình trạng xuống cấp đến mức báo động của giáo dục, và sự gia tăng các tệ nạn xã hội, người Việt Nam trong và ngoài nước còn phải đối diện với hai mối quan tâm hết sức nghiêm trọng:
- Tiếp theo những vụ lấn chiếm lãnh thổ và lãnh hải đã được chính thức hoá bằng những văn bản thoả hiệp với lãnh đạo Việt Nam, Trung Quốc vẫn ngang nhiên tiến hành kế hoạch thôn tính Việt Nam bằng những hành động xác lập quyền sở hữu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và thực hiện những dự án khai thác tài nguyên mang tính chiến luợc trên cả hai mặt kinh tế và quân sự.
- Trong khi đó, Nhà nước Việt Nam vừa tiếp tục ca ngợi mối quan hệ tốt với Trung Quốc qua những khẩu hiệu “bốn tốt” và “16 chữ vàng”, vừa gia tăng ngăn cấm những quyền tự do căn bản của con người, đồng thời mạnh tay trừng phạt những công dân dám công khai bày tỏ lòng yêu nước hoặc yêu cầu cải thiện chế độ chính trị và thực hiện công bằng xã hội.
Nhiều nhà bình luận ở hải ngoại đã phân tích và nhận định khá chi tiết về hai mối quan tâm đặc biệt này, nhưng phần đông vẫn chỉ nhằm kể tội lãnh đạo cộng sản, hô hào đoàn kết chống cộng và cầu mong chế độ sớm bị sụp đổ. Gần đây mới có một số trí thức đề cập đến những phương thức cụ thể và tích cực hơn, như thành lập cơ quan nghiên cứu chiến lược dân chủ và phát triển (think tank), vận dụng các nguồn lực vào tiến trình dân chủ hoá Việt Nam, nhấn mạnh vào vai trò xây dựng xã hội công dân của các tổ chức phi chính phủ (NGO) hay vai trò của cộng đồng hải ngoại như một lực lượng đối lập. Đây là những kế sách lâu dài có hiệu lực chuyển hoá chế độ chính trị ở trong nước, nhưng công cuộc thực hiện đòi hỏi nhiều thời gian, phương tiện tài chánh và nhân sự, nhất là sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng.
Trong khi theo đuổi những mục tiêu lâu dài, chúng ta cần gấp rút tìm cách đối phó với những vấn đề trước mắt, ưu tiên là hai mối quan tâm nghiêm trọng đã nêu trên. Xét cho cùng, mối quan tâm thứ hai có liên quan với mối quan tâm thứ nhất và những biện pháp mạnh của nhà cầm quyền đối với mọi tiếng nói phát biểu lòng yêu nước và nguyện vọng chính đáng của người dân đều là hệ quả của tinh thần lệ thuộc Trung Quốc, với mục đích bảo vệ quyền lực và quyền lợi của Đảng và Nhà nước. Những biện pháp này đều rập theo khuôn mẫu của Trung Quốc, từ những phiên toà “kangaroo” với những bản án đã có sẵn dành cho những người bất đồng chính kiến và những người đòi đối xử công bằng cho những nạn nhân bị chính quyền tước đoạt đất đai, cho đến những hành động đàn áp tín đồ các tôn giáo không nằm trong hệ thống kiểm soát của nhà nước. Nếu không có gì thay đổi bất thường, đại đa số trong bộ máy lãnh đạo Đảng sau Đại hội XI vào tháng Giêng 2011 sẽ là những đảng viên thân Trung Quốc.
Để có thể tồn tại với chế độ độc tài đảng trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn Trung Quốc làm mô hình trị nước và hội nhập với cộng đồng quốc tế “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Việc giao thiệp với Hoa Kỳ và các nước dân chủ khác trên căn bản “đôi bên cùng có lợi” chủ yếu là làm giàu cho Đảng để củng cố bộ máy nhà nước. Chính phủ tìm mọi cách ngăn chặn mọi nguồn thông tin mở rộng sự hiểu biết của người dân và đưa đến những đòi hỏi dân chủ hoá chế độ. Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động Diễn biến hoà bình trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá” đã đích danh kết tội “các thế lực thù địch”, đặc biệt là chính phủ Mỹ và các tổ chức “phản động” của người Việt ở nước ngoài. Những chương trình viện trợ phát triển của USAID, chương trình học bổng Fulbright và Vietnam Education Foundation (VEF), chương trình giao lưu văn hoá và hợp tác văn nghệ sĩ trong và ngoài nước, cùng với các chương trình nhân đạo của các tổ chức phi chính phủ (NGO), đều bị tố cáo là nhắm mục tiêu “xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và bản sắc văn hoá Việt Nam” (?). Đáng chú ý là Bản Chỉ thị này đã báo động về “xu hướng tự diễn biến, tự chuyển hoá” đang “có chiều hướng gia tăng, có mặt trầm trọng, trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân”.
Để cho cuộc đấu tranh chống diễn biến hoà bình có thể thành công, Đảng và Nhà nước cần phải dựa vào Trung Quốc, hiện đang là quốc gia phát triển kinh tế nhanh nhất trên thế giới và cũng là chủ nợ lớn nhất của Mỹ. Vì cùng chung chế độ và cùng chung chí hướng, cộng sản Việt Nam coi Trung Quốc là đồng minh vững chắc và điểm tựa an toàn nhất để chống lại mọi nỗ lực dân chủ hoá chế độ. Lãnh đạo Việt Nam không phải không biết đến hiểm hoạ Trung Quốc nhưng họ đã ưu tiên đặt quyền lợi và sự sống còn của Đảng lên trên vận mệnh tương lai của đất nước. Cộng sản Việt Nam luôn luôn giữ lễ với Trung Quốc cho nên mọi lời tuyên bố của lãnh đạo và phát ngôn viên chính phủ đều chỉ dừng lại ở chỗ xác nhận chủ quyền và kêu gọi Trung Quốc đối xử tử tế với ngư dân Việt Nam. Không có một viên chức chính quyền nào lên tiếng phản đối Trung Quốc và đòi hỏi công lý cho những ngư dân bị hải quân Trung Quốc bắt giữ, đánh đập, và bắt nộp tiền chuộc tàu thuyền và ngư cụ. Những tàu tuần Trung Quốc hành động trái phép và vô nhân đạo ấy đều được gọi là “tàu lạ”, một từ ngữ lần đầu tiên được sử dụng trong lịch sử bang giao giữa hai nước.
Hiểm hoạ Trung Quốc
Truyền thống bá quyền của người Hán bắt đầu trễ nhất là từ hai ngàn ba trăm năm trước, ngay sau cuộc thống nhất trung nguyên của Tần Thuỷ Hoàng vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Quân nhà Tần đã mở cuộc nam tiến chinh phục các bộ tộc Bách Việt và đồng hoá dân bị trị bằng những cuộc di dân vĩ đại của người Hán. Số dân Bách Việt không chịu bị đô hộ phải chạy xa xuống phía Nam, tản mát trong các nước Đông Nam Á ngày nay. Riêng dân Lạc Việt đất Văn Lang đã kháng cự mãnh liệt, đẩy lui được nhiều đợt tấn công của các tướng nhà Tần như Đồ Thư, Nhâm Ngao, Triệu Đà và ngay cả của Tần Thuỷ Hoàng, rốt cuộc Đồ Thư bị chặt đầu, Tần Thuỷ Hoàng lâm bệnh phải rút quân về nước mà chết (210 tr.TL). Anh hùng chiến thắng quân Tần là Thục Phán lên ngôi vua, xưng hiệu là An Dương Vương, thay tên nước Văn Lang là Âu Lạc, chấm dứt triều đại Hùng Vương đã tan rã dưới sức mạnh của quân Tần. Nước Âu Lạc tồn tại được 30 năm thì mất do việc An Dương Vương gả con gái là Mị Châu cho Trọng Thuỷ, con trai của vua nước Nam Việt là Triệu Đà. Qua sự thông đồng của Trọng Thuỷ, Triệu Đà đã đánh bại An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt.
Năm 111 tr. TL, triều đại nhà Hán đem quân chinh phục nước Nam Việt. Các triều đại kế tiếp đã thay nhau thống trị dân tộc ta trong suốt mười thế kỷ, nhưng mọi cố gắng đồng hoá dân tộc Việt và biến lãnh thổ của ta thành một tỉnh của Trung Quốc đều thất bại. Tuy nhiên, sau khi Khúc Thừa Dụ lật đổ sự thống trị của nhà Đường năm 905, khôi phục nền độc lập cho dân tộc, các triều đại phong kiến Trung Quốc vẫn tiếp tục xâm lược nước ta cho đến khi toàn bộ quân nhà Thanh bị vua Quang Trung đánh tan năm 1789.
Những năm sau đó, vì phải lo chiến tranh với các nước Tây phương và vì Pháp đã chiếm đóng Đông Dương, Trung Quốc không có cơ hội trở lại Việt Nam cho đến khi Mao Trạch Đông ủng hộ Hồ Chí Minh trong hai cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ với thâm ý kéo Việt Nam vào quĩ đạo của Trung Quốc. Dã tâm đó thể hiện rõ rệt qua sự kiện Chu Ân Lai ép buộc Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng phải chấp nhận Hiệp định Genève chia đôi đất nước. Sau đó họ Chu đã làm mất mặt các đồng chí Việt Nam khi mời đại diện Việt Nam Cộng hoà Ngô Đình Luyện đến dự tiệc chung với Phạm Văn Đồng và thông báo ý muốn thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và chính phủ Ngô Đình Diệm.
Mưu đồ của Trung Quốc thôn tính Việt Nam và dùng Việt Nam làm bàn đạp để tiến chiếm toàn vùng Đông Nam Á đã được cố Tổng Bí thư Lê Duẩn tiết lộ cho các đồng chí lãnh đạo sau chuyến đi Bắc Kinh hội kiến với Mao Trạch Đông năm 1963, khi họ Mao không thuyết phục được Lê Duẩn và Trường Chinh ra tuyên bố chung chống chủ nghĩa xét lại của Khrushchev. Từ đó, Bắc Kinh biết Hà Nội đã chọn kết thân với Moscow, nhưng vẫn tiếp tục viện trợ quân sự cho Hà Nội vì nhu cầu chống Mỹ trong cuộc chiến tranh lạnh. Sau 1975, quan hệ Việt-Trung xấu hẳn đi cho đến khi Đặng Tiểu Bình quyết định “dạy cho Việt Nam một bài học” trong cuộc chiến tranh biên giới vào đầu năm 1979. Sau khi các nước cộng sản Đông Âu theo nhau sụp đổ năm 1989 và khi Gorbachev giải tán Đảng Cộng sản và Liên Bang Xô-viết năm 1991 thì Cộng sản Việt Nam phải quay về với Trung Quốc để có khả năng bảo vệ Đảng và chế độ. Kể từ đó, Trung Quốc đã có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc dùng Việt Nam làm cứ điểm để tiến hành kế hoạch kiểm soát Biển Đông và toàn thể các nước Đông Nam Á.
Vào thời điểm đó, tinh thần yêu nước trong giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam còn cao, cho nên mặc dù phải trở lại với Trung Quốc, họ cũng ráo riết vận động Mỹ bỏ cấm vận và thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Dần dần, chính sách nước đôi ấy đưa đến hai khuynh hướng bảo thủ và cấp tiến trong hàng ngũ lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Do sự suy giảm thế lực vả ảnh hưởng quốc tế của Hoa Kỳ trong khi Trung Quốc phát triển mau chóng và xác lập đuợc vị thế của một siêu cường, phe bảo thủ Việt Nam giành đuợc ưu thế và sẵn sàng nhượng bộ Trung Quốc để đổi lấy sự bảo vệ quyền lực và quyền lợi riêng của Đảng. Ngoài hai bản hiệp ước phân định biên giới trên đất liền và phân định Vịnh Bắc Bộ bất lợi cho Việt Nam, việc Trung Quốc xác định chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa và công bố bản đồ hình lưỡi rồng (còn gọi là lưỡi bò) ở Biển Đông là những hành động phi pháp, ngang ngược không chỉ đối với Việt Nam mà còn với tất cả các nước trong khu vực. Sự nhượng bộ của Việt Nam lên đến mức báo động khi Nhà nước quyết định để cho Trung Quốc khai thác bô-xít trên Tây Nguyên, bất chấp những cảnh báo khẩn cấp của các nhà khoa học, chính trị và quân sự, đặc biệt là ba lá thư gửi lãnh đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu cầu Chính phủ ngưng thực hiện các dự án khai thác bô-xít vì đây là “vấn đề rất hệ trọng đối với cả nước về kinh tế, văn hoá và an ninh quốc phòng.” Mới đây, hai vị cựu tướng lãnh Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh lại phát hiện được hành động bất chính của lãnh đạo mấy tỉnh biên giới đã âm thầm cho doanh nghiệp nước ngoài thuê 300 ngàn héc-ta (ha) rừng đầu nguồn để khai thác dài hạn (50 năm) trong đó 264 ngàn ha được dành cho Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan. Các ông đã viết thư cho Bộ Chính trị, báo động nguy cơ về an ninh quốc phòng, ô nhiễm môi trường và tai nạn cho nhân dân miền hạ du, và yêu cầu huỷ bỏ những hợp đồng bất chính ấy nhưng chưa có kết quả.
Người Việt hải ngoại có thể làm gì?
Trước viễn ảnh giang sơn mấy ngàn năm của tổ tiên bị biến thành một tỉnh của Trung Quốc, trước những biện pháp đe doạ và trừng trị tàn nhẫn của chính quyền, người dân trong nước vẫn còn phải cắn răng chịu đựng, ngoại trừ tiếng nói dũng cảm của một số trí thức và đảng viên có uy tín nhưng luôn luôn bị bộ máy công an sách nhiễu và bọn tin tặc tìm cách bóp nghẹt. Trước tình thế ấy, cộng đồng nguời Việt hải ngoại hết sức lo ngại và nóng lòng tìm cách đối phó. Nhiều phương cách tranh đấu đã được đưa ra, từ ôn hoà tới cực đoan, nhưng phần lớn chỉ là những điều mơ ước (wishful thinking) thiếu tính khả thi. Ngoài ra, trong cộng đồng vẫn chưa có sự thảo luận thẳng thắn, tôn trọng ý kiến khác biệt dù cùng theo đuổi một mục tiêu, do đó không đạt được sự đồng thuận, nhiều khi còn chụp mũ và mạt sát nhau thậm tệ, một hiện tượng được gọi là “quân ta đánh quân mình”.
Trở lại với nhận định ở trên là cần phải gấp rút tìm cách đối phó với những vấn đề quan tâm trước mắt được nhận diện về đối nội là tinh thần lệ thuộc Trung Quốc của phe nhóm bảo thủ trong Đảng Cộng sản Việt Nam, và đối ngoại là nguy cơ tổ quốc Việt Nam bị sáp nhập vào lãnh thổ Trung Quốc và dân tộc Việt Nam bị đồng hoá trước những đợt di dân khổng lồ của người Hán. Trong khi cuộc tranh đấu của nhân dân cho tự do dân chủ vẫn có thể tiến hành dù còn bị kiểm soát chặt chẽ bởi chính quyền, cuộc tranh đấu chống hiểm hoạ Trung Quốc sẽ khó khăn gấp bội vì đồng thời phải đương đầu với cả thù trong lẫn giặc ngoài. Trong khi đó, cộng đồng người Việt hải ngoại có nhiều điều kiện dễ dàng hơn, tự do hơn để hỗ trợ cho nhân dân trong nước, nhất là khả năng vận động quốc tế cho một giải pháp “chung sống hoà bình, hợp tác và phát triển” giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á mà chủ yếu là quan hệ bình đẳng giữa Trung Quốc và Việt Nam. Nếu một thoả hiệp ASEAN-Trung Quốc có thể đạt được, chủ quyền Việt Nam sẽ được bảo đảm. Trước tình hình cấp bách hiện nay, cộng đồng hải ngoại cần gia tăng nỗ lực vào cuộc vận động quốc tế này. Dù thoả hiệp với Trung Quốc có đạt được hay không, sự đóng góp quan trọng của cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ được ghi vào lịch sử.
Riêng tại Hoa Kỳ, cộng đồng người Mỹ gốc Việt cần tập trung chiến dịch vận động vào Chính quyền và Quốc hội, các toà Đại sứ của các nước ASEAN, các tổ chức quốc tế liên quan đến Trung Quốc và khu vực Á châu-Thái Bình Dương. Ngoài ra, cần kêu gọi sự hợp tác của giới trí thức và cộng đồng người Mỹ gốc Á, vì họ cũng rất quan tâm về tham vọng bành trướng của Trung Quốc và họ không thể chấp nhận vai trò lãnh đạo của một siêu cường cộng sản độc tài. Một nhóm trí thức trẻ vùng thủ đô Washington DC đã bắt đầu mở cuộc tiếp xúc thăm dò với lãnh đạo của những tổ chức người Mỹ gốc Á châu-Thái Bình Dương để lập kế hoạch vận động chung. Tiếng nói của cộng đồng người Mỹ gốc Á châu chắc chắn sẽ được các nhà làm chính sách của Hoa Kỳ và các nước ASEAN trân trọng lắng nghe. Cộng đồng người Việt khắp nơi cũng cần có những hoạt động tương tự ở quốc gia sở tại và nối kết với cuộc đại vận động ở Hoa Kỳ.
Cuộc vận động của người Việt hải ngoại cho một giải pháp hoà bình ở Biển Đông chắc chắn sẽ được đồng bào trong nước vui mừng đón nhận. Đây cũng là cơ hội thuận tiện cho sự trao đổi và hợp tác giữa trí thức trong nước và trí thức ở ngoài nước về những vấn đề có lợi ích cho đất nước và dân tộc. Nhà nước sẽ không có lý do gì để ngăn cấm, trái lại còn cần phải ủng hộ vì đây cũng chính là cơ hội cho chính phủ có thể thoát ra khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc mà vẫn có thể tồn tại. Dĩ nhiên, sự tồn tại này còn tuỳ thuộc vào những quyết định cởi mở của chính phủ về những quyền tự do, dân chủ căn bản của người dân trong một khung cảnh địa lý-kinh tế-chính trị mới của toàn vùng. Ngược lại, nếu Đảng và Nhà nước cứ tiếp tục ngăn cấm sự hợp tác chính đáng và hoà bình của người Việt Nam trong và ngoài nước thì sẽ không khỏi bị dư luận trong nước và quốc tế lên án và sẽ không tránh khỏi sự chống đối quyết liệt của các tầng lớp nhân dân có thể dẫn đến bạo động. Đến lúc này, nhân dân đã có nhiều cơ hội hiểu biết hơn về thế giới bên ngoài và nhận rõ được nhu cầu chuyển hoá chế độ từ độc tài sang dân chủ để đất nước có thể tồn tại và phát triển trong khung cảnh hội nhập toàn cầu.
Tất nhiên cuộc vận động của người Việt hải ngoại chỉ có thể thành công nếu ASEAN, với hậu thuẫn của Hoa Kỳ và các quốc gia Thái Bình Dương, có thể thuyết phục được Trung Quốc chấp nhận giải pháp chung sống hoà bình, hợp tác và phát triển. Kết quả mong ước này còn tuỳ thuộc vào vai trò cân bằng quyền lực của Hoa Kỳ và khả năng đạt được đồng thuận giữa các nước ASEAN, đặc biệt là những nước đang tranh chấp chủ quyền lãnh hải ở Biển Đông. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của Việt Nam với tư cách Chủ tịch ASEAN trong năm 2010. Trong mười tháng còn lại, liệu Việt Nam có đủ khả năng điều động các nước thành viên tạm giải quyết những dị biệt song phương để tiến đến hợp tác đa phương hầu có đủ tư thế đối thoại với Trung Quốc hay không? Đây là cơ hội và cũng là thử thách mới cho Việt Nam trong năm nay. Lịch sử sẽ phán xét khả năng và tinh thần trách nhiệm của lãnh đạo Việt Nam. Đây cũng là thử thách và cơ hội cho cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong vai trò chủ xướng cuộc vận động của cộng đồng người Mỹ gốc Á châu-Thái Bình Dương với chính phủ Mỹ và quê hương gốc của họ. Mong rằng cộng đồng sẽ không bỏ lỡ cơ hội đóng góp vào những nỗ lực xây dựng hoà bình trong khu vực và bảo vệ chủ quyền của đất nước.
Nói đến cơ hội và thử thách của cộng đồng, đã đến lúc cần đề cập đến một vấn đề nhạy cảm có khi được coi như vấn đề cấm kỵ không nên đụng tới, đó là quan hệ giữa cộng đồng người Việt hải ngoại với chính quyền và một số thành phần nhân dân trong nước. Vấn đề này không nên và không thể né tránh vì nó là một thực tế đang diễn ra rất phức tạp, từ thái độ hồ hởi hợp tác của những người có thiện cảm với chế độ, những chương trình nhân đạo và giáo dục của các tổ chức NGO, đến thái độ thù nghịch một còn một mất với chính quyền cộng sản. Quan hệ phức tạp này cần được bình tâm thảo luận và giải quyết thích hợp vì không thể biến thái độ chống cộng cực đoan thành một mối thù truyền kiếp cho đến các thế hệ về sau. Nếu mối quan hệ này có thể giải quyết một cách hợp tình hợp lý và trở thành một đồng thuận lớn trong cộng đồng hải ngoại thì mọi thành phần nhân dân trong nước, kể cả những đảng viên cộng sản thật tình yêu nước và có đầu óc tiến bộ, sẽ vui mừng đón nhận và sẽ trở thành một khối áp lực có khả năng thay đổi chính sách và ngay cả chế độ, nếu cần.
Trong phạm vi bài này, tôi chỉ muốn nêu lên một số nhận định và đề nghị do sự hiểu biết của cá nhân để độc giả cùng xem xét và góp ý:
- Đa số nhân dân trong nước đều chán ghét chế độ nhưng cũng đã trở nên quen với những lề lối trong xã hội cộng sản từ trên nửa thế kỷ nay, nhất là khi đời sống vật chất theo kinh tế thị trường đã dễ chịu hơn nhiều so với thời bao cấp. Họ cũng rất chán ghét chiến tranh và rất dè dặt đối với những biến động chính trị vì chưa thấy có lực lượng nào có thể chuyển hoá được chế độ; ngoài ra, họ rất hoài nghi và thờ ơ với các lực lượng “chống cộng” và những lời kêu gọi nổi dậy từ bên ngoài.
- Đa số nhân dân trong nước bị che giấu thông tin về những quyết định sai lầm của lãnh đạo có hậu quả nguy hại về kinh tế, văn hoá xã hội và an ninh quốc phòng. Các cơ quan truyền thông quốc doanh chỉ trình bày những tin tức và hình ảnh có lợi cho chính phủ, chẳng hạn những thông tin về sự hợp tác và ủng hộ của quốc tế, những cuộc viếng thăm Việt Nam của nguyên thủ các cường quốc, những hội nghị APEC và ASEAN được tổ chức rầm rộ ở Hà Nội.
- Đối với mối lo ngại của nhân dân về mưu đồ xâm lược của Trung Quốc, Nhà nước một mặt trấn an dân chúng bằng những lời tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, một mặt đề cao quan hệ hữu hảo và bền vững giữa hai nước, che đậy những điểm nhượng bộ Trung Quốc trong các thoả hiệp song phương, và làm giảm thiểu tính nghiêm trọng của những hành động ngang ngược của Trung Quốc ở Biển Đông.
- Đối với những nỗ lực dân chủ hoá và đòi hỏi công bằng xã hội, Nhà nước thi hành các biện pháp ngăn chặn những lời khuyến cáo hay phản biện xây dựng của giới trí thức, khoa học gia, và thẳng tay đàn áp những cá nhân hay tổ chức tranh đấu cho tự do, dân chủ, những người bênh vực cho dân oan và lao động bị bóc lột. Những tội danh phi lý và những bản án quá đáng đối với những trí thức tranh đấu bất bạo động cho thấy mục đích của nhà cầm quyền là răn đe và gieo rắc sự nghi ngại trong dân chúng đối với ảnh hưởng từ bên ngoài.
- Đối với cộng đồng người Việt hải ngoại, Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26.3.2004 về “công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.” Đây là một kế hoạch toàn diện nhằm vận động ba triệu nguời Việt Nam ở nước ngoài thành “một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc” với những đóng góp quan trọng về tài chính và trí tuệ rất cần thiết cho công cuộc phát triển đất nước. Mặc dù mục đích này không thể đạt được chừng nào đất nước còn bị áp đặt dưới một chế độ độc tài toàn trị, những biện pháp thuận lợi hơn cho “Việt kiều” về nước du lịch, đầu tư, kinh doanh, hợp tác khoa học, hoạt động nghề nghiệp hay định cư lâu dài, cũng có khả năng hấp dẫn được một thiểu số nhất định trong cộng đồng hải ngoại.
Để vô hiệu hoá công tác tuyên vận một chiều của Nhà nước cộng sản, nhất là để có thể xoá bỏ những ý nghĩ và hình ảnh tiêu cực về số đông người Việt ở nước ngoài mà bộ máy tuyên truyền của nhà nước đã nhồi sọ nhân dân trong nước, cộng đồng hải ngoại cần phải thay đổi quan niệm và phương cách chống cộng đã lỗi thời. Qua những chuyến về thăm thân nhân và bằng hữu, những hoạt động cứu trợ nạn nhân bão lụt, những chương trình giúp đỡ y tế, giáo dục, hoặc cho vay vốn nhỏ của người Việt hải ngoại, đồng bào trong nước không cần bị tuyên truyền cũng nhận ra được thiện chí và ước vọng chính đáng của người Việt ở nước ngoài đối với quê hương nguồn cội. Niềm tin tưởng của đồng bào trong nước là điều kiện thiết yếu cho những nỗ lực tranh đấu chung cho dân chủ, nhân quyền và công bằng xã hội. Tình đoàn kết và hợp tác của người Việt trong và ngoài nước càng cần thiết hơn nữa cho những nỗ lực bảo vệ quê cha đất tổ, chống lại hiểm hoạ xâm lược và đồng hoá của Trung Quốc.
Đảng Cộng sản lo sợ và kết tội “diễn biến hoà bình” là chống phá chính phủ và dân tộc. Người Việt hải ngoại sẽ chứng tỏ là diễn biến hoà bình chỉ chống Nhà nước độc tài để đem lại lợi ích cho dân tộc.
Đảng Cộng sản kêu gọi cán bộ và toàn dân học tập “đạo đức Hồ Chí Minh”. Người Việt hải ngoại sẽ chứng tỏ là Nhà nước độc tài chỉ mượn uy danh của “Bác Hồ” với nhân dân trong nước để duy trì chế độ, vì thực tế là họ đã làm ngược lại tất cả những lời ông đã dạy cho cán bộ cầm quyền. Ngoài ra cũng rất dễ chứng tỏ rằng chế độ cộng sản độc tài đã huỷ hoại các giá trị văn hoá và đạo đức của dân tộc, biến công dân thành công cụ của nhà nước khiến cho họ chỉ có cơ hội thăng tiến bằng những thủ đoạn gian dối để tỏ lòng tuyệt đối trung thành với chế độ.
Bằng mọi cách, cần phổ biến sâu rộng đến mọi giới nhân dân và quân đội những tin tức và tài liệu chính xác về tình hình Biển Đông, về những nguy hại của việc khai thác bô-xít Tây nguyên, khai thác rừng đầu nguồn, xây dựng đập nước ở thượng nguồn sông MeKong, những làng Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam, v.v. Đó là những thông tin bị Nhà nước bưng bít và ngăn cấm. Để có sức thuyết phục, cần sử dụng những tài liệu khách quan khoa học, nhất là những bài viết của chính những đảng viên và tướng lãnh có uy tín ở trong nước và của các quan sát viên quốc tế.
Cần tách rời những người cộng sản yêu nước ra khỏi những người cộng sản hại nước. Cần hỗ trợ cho những tài năng trẻ ở trong nước có thêm cơ hội học hỏi, phát triển khả năng sáng tạo và luôn luôn tự hào là dòng giống của con Hồng, cháu Lạc. Cần sẵn sàng tiếp xúc, trao đổi và tạo cơ hội hợp tác giữa những trí thức tiến bộ, những đảng viên sáng suốt, những nhà văn hoá và nghệ sĩ nổi danh trong và ngoài nước.
Gần đây, vì cần phải xoa dịu dư luận bất mãn của nhân dân, vì những động thái mới của Hoa Kỳ và các nước ASEAN nhằm bảo vệ an ninh và quyền lợi chung tại Biển Đông, chính quyền trong nước đã có thái độ mạnh dạn và có trách nhiệm hơn, như gia tăng lực lượng phòng thủ bằng việc mua tàu ngầm và phi cơ chiến đấu của Nga. Thủ tướng chính phủ cũng vừa lưu ý báo chí phải “lắng nghe ý kiến của người dân,” và thông tin nhanh nhạy hơn về vấn đề “bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền dân tộc.” Với kinh nghiệm về cách “nói một đàng, làm môt nẻo” của chính quyền cộng sản, mọi người Việt Nam trong và ngoài nước sẽ tiếp tục theo dõi những bước đi của Đảng và Nhà nước trong những tháng ngày sắp tới.
Tóm lại, vì nhu cầu thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vì nhu cầu đại đoàn kết dân tộc trước nguy cơ bị Trung Quốc thôn tính và đồng hoá, cả chính quyền trong nước và cộng đồng người Việt ở nước ngoài đều cần phải có những quyết định đột phá, biến thử thách thành cơ hội, kết hợp được sức mạnh cần thiết cho sứ mệnh phát triển và cứu nguy đất nước. Trong tư thế của nhà cầm quyền, Đảng và Nhà nước Việt Nam có hai lựa chọn: dọn đường mở lối hay xây chướng ngại vật?
Trong bất cứ trường hợp nào, cộng đồng người Việt hải ngoại cũng vẫn tiếp tục hỗ trợ thích hợp cho tiến trình dân chủ hoá và những nỗ lực bảo vệ độc lập và vẹn toàn lãnh thổ của đồng bào trong nước.
© 2010 Lê Xuân Khoa
© 2010 talawas
Bình luận
23 Comments (bài “Lê Xuân Khoa – Người Việt hải ngoại làm được gì trước hiểm hoạ Trung Quốc?”)
« Trang trước 1 2
Thưa các ông Tri Ngộ, Hòa Nguyễn, Vantruong.
Ngay từ đầu, tôi đã thưa với tất cả quý vị là tôi đồng ý với chủ trương bãi bỏ điều 4 hiến pháp, để tự do đa đảng tại Việt Nam, thay đổi lại sử sách, để lớp trẻ có một cái nhìn vô tư về lịch sử Việt Nam hiện đại. Sau đó, sẽ tổ chức bầu cử vô tư. Chính phủ mới sau này, sẽ vận động để giải thể đảng CSVN, là một đảng có quá nhiều lỗi lầm nếu không nói là tội ác đối với dân tộc VN.
Cách nhìn vấn đề của tôi không khác gì với lối “tống cổ bọn… bậy” của ông Vantruong. Tôi nhận thấy đường lối hoạt động của các nhà dân chủ trong nước cũng như vậy. Vì thế, một cách vô tư, những hoạt động của các nhà dân chủ trong nước được giới truyền thông quốc tế như BBC, VOA.. theo dõi và loan tin đầy đủ.
Tôi nhận thấy cộng đồng người Việt ở Hải Ngoại có rất nhiều cảm tình yêu nước. Tuy nhiên, khi đi biểu tình, họ vì cảm tính của mình, mang lá cờ vàng theo, và hô hào những khẩu hiệu đả đảo CS bán nước. Họ không dừng lại ở con đường thay đổi từ từ, mà đòi hỏi một cuôc cách mạng, lật đổ thay đổi cái rụp. Cách họ đòi hỏi, khác với cách ông Vantruong lên tiếng.
Cách đòi hỏi của họ, tiếc thay, theo tôi nhận xét, không được sự ủng hộ của chính quyền hay các đài truyền thông quốc tế. Ngay trong nước, không phải là người dân nào cũng đồng tình với chủ trương lật đổ chính quyền để tái lập lại chế độ Miền Nam trước 75. (Lá cờ vàng nghĩa là gì nếu không là kêu gọi tái lập chính quyền Miền Nam). Quý vị cầm cờ có thể bảo lá cờ này biểu tượng cho dân chủ, nhưng rất tiếc, đây là cái thông điệp “chúng tôi nguời Miền Nam chưa bỏ cuộc, chúng tôi vẫn tiếp tục chiến tranh chống lại CS” mà quý vị muốn gởi đến người nước ngoài và người dân trong nước.
Hải ngoại chúng ta có hơn hai triệu người Việt, tiếc rằng những hoạt động của chúng ta chưa có nhiều hiệu quả trong việc đòi hỏi tự do dân chủ cho Việt Nam. Một trong những lý do, theo ý của tôi, là việc chúng ta cứ mỗi lần biểu tình là mang lá cờ vàng đi theo. Người nước ngoài, truyền thông quốc tế, người trong nước nghĩ gì mặc kệ. Chúng ta cứ sống chết với lá cờ vàng của mình.
Tôi nhận thấy, sức mạnh của các cuộc biểu tình không đến từ bao nhiêu người tham dự, mà đến từ bao nhiêu cơ quan truyền thông đăng tải. Một mình Lê Công Định ra tòa, bao nhiêu hệ truyền thông đăng tải chấn động cả thế giới. Nhưng có khi có cả ngàn người biểu tình mà chẳng có cơ quan truyền thông nào lên tiếng. Bởi vì cuộc biểu tình đó đòi lật đổ một chính quyền có chân trong Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, tái lập lại một quốc gia đã mất cách đây gần 35 năm. Truyền thông quốc tế cũng cần có những suy nghĩ để không loan đi, chiếu lại những đòi hỏi có tính cách thiếu thực tế đó. Nếu cả ngàn người đi biểu tình mà chỉ có vài tờ báo địa phương VN đăng tin thì kết cục, chúng ta chỉ bỏ tiền, bỏ công sức ra để giữ lửa đấu tranh trong nội bộ chúng ta mà thôi. Quốc tế vẫn chẳng ai biết gì cả.
Theo thiển ý của tôi, quý vị có cách suy nghĩ như sau:
CSVN đang làm sai.
Cộng đồng người Việt chống CS là đúng.
Trường Giang phê bình Cộng Đồng Người Việt.
Vậy Trường Giang là sai, hoặc TGiang là Cộng Sản.
Xin cho tôi được lên tiếng:
Tôi biết là CS đang làm sai.
Nhưng tôi nghĩ rằng phương cách chống lại CSVN của cộng đồng VN hải ngoại có nhiều khuyết điểm. Phương cách này thiếu sự ủng hộ quốc tế và người dân trong nước.
Tôi muốn thẳng thắn vạch ra những yếu điểm đó để cho mọi người thấy. Để chúng ta làm tốt hơn.
Trung Quốc càng ngày càng mạnh về kinh tế. Dĩ nhiên họ sẽ nâng cao sức mạnh quân sự để phục vụ cho sự bành trướng tham vọng của họ. Việt Nam ta sức mạnh không bằng. Kinh tế chúng ta lại không tăng trưởng nhanh bằng họ. Tương lai, chúng ta đa phần là trở thành một chư hầu của họ. Điều đó khó tránh khỏi. Chúng ta cần lên tiếng để cứu vãn phần nào hay phần đó.
Là thành phần trí thức ở hải ngoại, chúng ta có nhiều điều kiện hơn người trong nước để kết hợp và làm việc. Để cùng nhau làm việc, chúng ta cần bàn luận. Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Xin quý vị đừng cho những lời phê bình về chúng ta, để hiểu rõ mình hơn, để mình làm tốt hơn là những lời phá hoại.
Viết tới đây, tôi chợt nghĩ, chắc rồi sẽ có người cho tôi một cái mũ: “Chắc Trường Giang đang có âm mưu triệt hạ cờ vàng”; Không còn cái cờ vàng, cộng đồng này sẽ mất đi.
Xin nhắc lại, tôi không phản đối việc quý vị treo cờ vàng những nơi quý vị thích. Tôi chỉ muốn nói việc sử dụng lá cờ vàng trong các cuộc biểu tình đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam sẽ làm sai lạc đòi hỏi của quý vị và làm giảm đi sự ủng hộ của quốc tế và người dân trong nước.
Đối với tôi, chỉ có hạnh phúc, tự do, cơm áo của nguời Việt và lãnh thổ đất đai chúng ta là quý trọng nhất. Tôi học được điều đó từ một câu nói của Mạnh Tử: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Rất tiếc là tôi không mời được ngài Mạnh Tử sống dậy để dạy tôi là cờ của một quốc gia được ngài xếp hạng thứ mấy trong câu nói đó.
Thân kính
Ông Truong Giang.
Lẽ ra tôi không viết gì thêm sau khi có góp ý rất hữu lý của ông VanTruong.
Có khả năng ông Truong Giang dùng câu hỏi do giáo sư Lê xuân Khoa đặt ra “Người Việt hải ngoại làm được gì trước hiểm hoạ Trung Quốc?” để chồng cộng đồng người Việt chống Cộng ngoài này, nói riêng ở Úc, hay ít ra làm loãng nội dung của vấn đề khác trong bài chủ đáng quan tâm hơn .
Theo tôi chủ quan nhận xét qua những gì đọc ở đây, một số người Việt ở Úc vừa chống Cộng Sản vừa chống Cộng Đồng, có ngưới chống CS nhiều hơn, có người chỉ chống Cộng Đồng người Việt ở Úc và hải ngoại, hay chống CĐ rất hăng mà chồng CS rất nhẹ, dường như chỉ để che mắt người đọc. Phải nhận có ngưòi chỉ chống CS, tôi mạn phép nêu tên, như hai ông Hoàng Trường Sa và Nguyễn Quang Duy. Còn lại theo tôi đọc thấy phần nhiều là thành phần nêu trên, trong đó nay thêm ông Truong Giang.
Chúng ta nếu chủ trương xây dựng dân chủ, phải chấp nhận những điều nêu ở trên(ai cũng có quyền muốn chống gì thì chống theo nhận định,lương tâm họ,và phù hợp với luật pháp). Trong cái tinh thân tôn trọng dân chủ đó, ông Trương Giang phải chấp nhận có những người chống Cộng thích mang theo cờ vàng (hay cờ đỏ), kề cả nên chấp nhận những tranh luận, bất đông ý kiến giữa những người (xưng mình là) chống Cộng, hay tranh đấu cho dân chủ.
Chuyện “ông Thiệu đề ra KHÔNG Nói chuyện với CS, Không nhượng đất cho CS, KHong hòa hợp, hoà giải với CS” (trích), có lẽ hợp lý trong tình hình thời đó, trước hội nghi đưa tới hiệp định Paris, nhưng sau cùng chúng ta vẫn thấy nôg Thiệu cho phái đoàn ông Võ Đông Giang (MTGP) nằm trong phi trường Tân Sơn Nhất cho tới ngày giài phóng. Nhưng bây giờ, ông TRuong Giang thử dẫn chứng ông gốc Việt nào ở Úc nói “Không hòa hợp, hoà giải với CS”. Nhưng cũng có khi vì họ muốn hoà hợp, hoà giải mà không được.
Ông Truong Giang viết:” Trước 75, khi phát hiện một nhóm văn công hát tuyên truyền cho CS, ta có quyền đặt một quả mìn tiêu diệt trọn gói.”.
Tôi sống ở miền Nam trước 1975, lúc đó cũng theo dõi tin tức thường xuyên qua đài trong nước và ngoại quốc, nhưng không biết có chuyện này. Ông Giang biết chắc là mìn đã “cố ý” đặt nổ để giết những người mà lính miền Nam biết rõ là “văn công”(CS) , đang làm việc tuyên truyền không được bảo vệ (không phải là vũ trang tuyên truyền)? Tại sao lại không bắt sống họ có phải lợi nhiều hơn không. Phần khác, ông Giang có biết “VC” đã đặt bao nhiêu mìn bẫy để (vô tình ) giết hại bao nhiêu dân quê vô tội ở miền Nam không. Tôi có lúc sống ở tỉnh nhỏ, từng biết nhiều trường hợp như thế, trong đó có nạn nhân là bà con.
Truong Giang viết “không ai được nhân danh bất cứ lý tưỏng cao đẹp nào, dù là” lý tưỏng chống cộng, chống nghị quyết 36″ để cấm một nghệ sĩ nào trình bày bài hát của mình. Cộng đồng ở đây mang tiếng là đấu tranh cho “tự do, nhân quyền” cho VN, nhưng không biết họ có tôn trọng quyền đưọc phát biểu của Trịnh Hội và nghệ sĩ trong nước hay không.”.
Tôi thấy ở Mỷ các ca sĩ , nghệ sĩ trong nước ra ngoài này hát rất nhiều, như Đàm Quang Hưng, Quang Dũng (mà ông Bùi Văn Phú cho là rất thích nghe), không kể nhiều người còn ở lại để hát lâu hơn cho các trung tâm Video, hay Casino. Tôi thật tình không nghe nói trường hợp “cấm một nghệ sĩ nào trình bày bài hát của mình”, trừ chuyện xảy ra trong nước. Tôi từng thấy ca sĩ hát những bài như “Mùa Thu Hà Nội” cho khán thính già là người tỵ nạn, di dân trước kia chỉ lớn lên và sống ờ Sài Gòn, mà không bị phản đồi, hay cho là phản cảm. Về nhạc Phạm Duy, tôi nghĩ ông ấy đã bán bản quyền nhạc cho một công ty trong nước, ngoài này muốn hát phải xin phép, hay thương lượng riêng.
Chuyện về Trinh Hội, tôi nói thêm vài điều được biết. Anh và vơ lúc đó là Nguyễn Cao Kỳ Duyên được mời làm MC cho một ông “bầu show” trước đã tổ chức mấy show trong nước. Tôi thấy báo trong nước đăng ảnh ca sĩ Trường Vũ hát cho show do ông ấy tổ chức, mang tấm bảng đề tặng 15 ngàn đô cho cơ quan Văn Hoá tại TP/HCM. Tôi đoán vì vậy Cộng đồng NV ở Úc cho ông bấu show này muốn chơi trò “hai mang” hay làm “ngựa thành Troy” ở Úc, nên họ phản đối cá nhân ông và show do ông tổ chức, nhất là khi có mặt nghệ sĩ trong nước. Nhưng không phải họ phản đối ca sĩ trong nước, hay Trịnh Hội. Thư phản dối của Trịnh Hội lúc đó được đăng trên báo CaliToday ở Mỹ, và trên báo Người Việt giáo sư Lê Xuân Khoa có viết bài bênh vực Trịnh Hội. Ở Úc dướng như cũng có báo đăng thư ngỏ phản đối hay đang bài phỏng vấn Trịnh Hội. Sau đó, Trinh Hội và cô Kỳ Duyên viết hai bài đả kích nặng nề CĐNV ở Úc phổ biến trên BBC, và trang mạng của trung tâm Thúy Nga. Tiếng nói đáp lại hay giài thích từ cộng đồng NV ở Úc dường như không có, vì có lẽ họ không có ý chống báng gí Trịnh Hội hay ca sĩ trong nước. Tôi nghĩ đây là chuyện nhỏ, và mỗi bên có thể nhìn theo góc cạnh riêng, khác nhau. Nhưng tiếp theo, Trịnh Hội về nưóc làm việc hai năm , và đóng phim nữa , không biết có do chuyện phản đối trên đưa đẩy tới không (hoặc vì anh tức mính, hoặc nhà nước mở rộng vòng tay.
Xin dừng hẳn chuyện CĐ.
@ Trương Giang
Theo tôi, vấn đề các cộng đồng ở hải ngoại chúng ta lên tiếng chống đối (dù nhiều khi quá cực đoan như trong những trường hợp ông đã nếu thí dụ như vụ Phạm Duy, Trịnh Hội và Thầy Nhất Hạnh) vẫn là những tiếng nói thoát ra từ những vết thương chưa lành và có thể rất khó lành. Họ đã mất mát quá nhiều. Mà nhà nước VN thì không hiểu được điều đó và cũng không phải tay vừa. Họ (ĐCSVN) có rất nhiều thủ đoạn. Họ vẫn còn “say men chiến thắng” và mặc dù họ có coi chúng ta là “khúc ruột ngàn dặm” thì cũng chỉ vì chúng ta có lợi cho họ về kinh tế mà thôi. Vắt chanh xong là họ sẽ trở mặt ngay.
Thành thử lá cờ vàng 3 sọc đỏ và những cộng đồng VN chống Cộng triệt để hiện nay trên thế giới là những hải đảo quý báu cuối cùng còn lại của những người VN đã vượt biển đi tìm tự do. Những hải đảo này quý báu vì không có nó, nhà nước CSVN chắc chắn sẽ nuốt chửng hết những người như ông và tôi trong một tương lai không xa. Vì thế, tôi hoàn toàn ủng hộ những cuộc biểu tình rầm rộ đó. Những oan khiện, những nghiệt ngã, những khổ đau do người CSVN gây ra cho chính đồng loại của họ rất lớn. Ngày nào mà một Chủ Tịch nước biết đứng lên xin lỗi tất cả nhưng người dân miền Nam vì chính sách sai lầm của họ, ngày đó là ngày hy vọng cho một cuộc hoà giải thật sự được bắt đầu. Còn nếu họ cứ ôm khư khư vào cái chủ nghĩa CS phản khoa học và lỗi thời như hiện nay thì chính họ đang đi ngược lại quyền lợi dân tộc và những cuộc biểu tình rầm rộ của những người Việt hải ngoại sẽ không bao giờ chấm dứt.
Nếu tôi không lầm thì ở trên diễn đàn talawas này chẳng có ai đòi “đập đổ cái nhà dơ dáy, cũ kỹ, mục nát” cả (vắn tắt ý kiến của Trường Giang) mà tôi chỉ thấy nhiều người đòi tống cổ cái bọn “ị bậy” phá hoại cái nhà ra mà thôi. Một số người hiểu sai hay cố tình đánh tráo khái niệm (tiếng Pháp họ gọi là faux problème) rồi đánh bùn sang ao để chuyện trao đổi lòng vòng sa lầy theo kiểu ông nói gà bà nói vịt không đưa đi đến đâu cả. Trong xây dựng theo tôi biết phần đông thì không phải công trình nào cũng là “đồ mới” cả, như để cải thiện môi trường, để tiết kiệm tiêu dùng năng lượng, và khi rường/cột/tường hay mái nhà vân vân mục nát hư hỏng (trong trường hợp tệ hại nhất) xấu xí không hợp khung cảnh chung quanh hay gì gì khác nữa ta cũng không cần phải đập xập “cái nhà” để xây cái mới ta chỉ cần “tân trang” (rénovation, renovate) là cái công trình trên trở thành “nhuyễn nhừ”, không tin mọi người có thể hỏi các bạn làm kiến trúc xem sao.
(Để khỏi rối trí quý vị tôi không đưa ra đây những con số thống kê trên thị trường Âu Châu chẳng hạn, quý vị có thể tham khảo dễ dàng trên mạng bằng cách đặt câu hỏi thôi.
Tôi xin đưa 2 thí dụ “hoành tráng” ngắn gọn: 1/ ROM (Royal Ontario Museum / Musée Royal de l’Ontario), 2/ Tate Modern Museum ở London).
Văng vẳng đâu đây bài hát “cái nhà là nhà của ta công khó ông cha lập ra …” và đến giờ này tôi vẫn còn nghe tiếng thầy tôi giảng lúc còn nhỏ ở trường những câu như: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”… mà tôi thấy áp dụng trong chuyện ta đang đòi hỏi đây sao mà chí lý vẹn toàn. Vậy xin yêu cầu mấy “nhân thân” bất tài đốn mạt đi chỗ khác cho người có tài có năng lực làm việc. Tôi có cảm tưởng nhiều người có vẻ không thấy hay tự bịt mắt để không thấy những tài năng có sẵn ở trong nước chỉ chờ có cơ hội thi thố đấy thôi, nếu không bị cái tập đoàn độc tài gian ác đó bịt mồm hay bỏ tù đày đọa cách ly (cả thật và hăm dọa) với cái danh nghĩa trời ơi đất hỡi. Xin đừng cho những đòi hỏi này là đưa đẩy bạo lực hay vấn đề này đang còn được chính phủ thảo luận. Enough is enough, trop c’est trop, that’s all. Chấm hết.
Thưa Ông Hòa Nguyễn và các bạn.
Tôi rất cám ơn các lời phản hồi của ông. Nhờ đó tôi thấy được những thiếu sót trong cách lập luận của mình. Tôi xin đi lại từng điểm:
Đảng Việt Tân mới từ bỏ chủ trưong bạo lực của mình từ khoảng trên 10 năm nay. Có một nhóm ly khai không chấp nhận đường lối này.
Tôi ở bên Úc. Mỗi năm Cộng Đồng ở đây bỏ ra hơn hai chục ngàn đô la Úc, huy động đưọc gần 500 người để biều tình ngày 30/04 trưóc cổng tòa đại sứ Việt Nam. Họ giăng một rừng cờ vàng, dùng micro kêu gọi đám đông lập lại các khẩu hiệu “đả đảo Việt Cộng bán nước, đả đảo. Không khí rất kích động. Theo họ, cờ vàng ba sọc đỏ là biểu hiện của tự do, dân chủ.
Nhưng một cách khách quan hơn, nếu nhìn theo cái nhìn của ngưòi trong nước, hay người nước ngoài, lá cờ vàng nói lên nguyện vọng muốn khôi phục lại chính quyền Miền Nam trước 75, lật đổ chế độ CS hiện tại. Kèm theo những lời đả đảo, tôi nghĩ đó là những đòi hỏi có tính cách bạo động.
Đại diện chính quyền, quốc hội, nhà báo Úc thường tới tham dự và loan tin các dịp lễ truỷền thống của ngươì Việt như ngày Tết, nơi các cờ vàng treo đầy dãy. Nhưng từ hơn 15 năm nay, Họ không bao giờ tham dự hoặc loan tin vê các cuộc biểu tình của người Việt Nam. Có thể có nhiều nguyên do. Nhưng cái trứớc mắt tôi có thể nói là cuộc biều tình có những cái kích động rất “phản dân chủ”.
Ông Thiệu đề ra KHÔNG Nói chuyện với CS, Không nhượng đất cho CS, KHong hòa hợp, hoà giải với CS. Ở hải ngoại này, chẵng có một nhân vật lãnh đạo “quốc gia” nào dám đề ra chủ trương nói chuyện với CS cả, nếu không muốn bị đồng bào của mình nguyền rủa. Phạm Duy trở về VN hát cũng bị nguyền rủa. Nhạc Phạm Duy bị cộng đồng bên Úc “cấm hát”. Thày Nhất Hạnh về VN giảng đạo lý cho ngưòi Việt Nam cũng bị chụp mũ dưói nhiều hình thức.
Năm 96/97, Trịnh Hội định tổ chức Đại Nhạc Hội tại Sydney có mời một hai nghệ sĩ trong nước. Cộng đồng lên tiếng cấm đoán nghệ sĩ trong nước trình diễn vì đây là một phần của nghị quyết 36. Trịnh Hội viết bài phản bác. Cuối cùng, theo tôi nhớ, Đại Nhạc Hội tổ chức không được. Áp lực Công đồng cũng làm Asia phải sa thải MC đang lên Trịnh Hội.
Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền điều thứ 19 quy định rằng tất cả mọi ngưòi đều đưọc quyền phổ biến tư duy của mình. Điều thứ 30 cấm không ai được nhân danh bất cứ lý tưỏng cao đẹp nào, dù là” lý tưỏng chống cộng, chống nghị quyết 36″ để cấm một nghệ sĩ nào trình bày bài hát của mình. Cộng đồng ở đây mang tiếng là đấu tranh cho “tự do, nhân quyền” cho VN, nhưng không biết họ có tôn trọng quyền đưọc phát biểu của Trịnh Hội và nghệ sĩ trong nước hay không.
Trước 75, khi phát hiện một nhóm văn công hát tuyên truyền cho CS, ta có quyền đặt một quả mìn tiêu diệt trọn gói. Ngày hôm nay không còn là chiến tranh, trong vận động tự do dân chủ cho Việt Nam, ta phải kính trọng quyền được phát biểu của ngưới khác, cho dầu người đó là một cán bộ của đảng CS, thi hành nghị quyết 36. Ta đấu tranh cho “nhân quyền” mà ta không tôn trọng “nhân quyền” thì ta đấu tranh cái gì.
Tôi nghĩ sự cấm đoán này là di sản của chiến tranh. Lãnh đạo cộng đồng Người Việt hải ngoại hiện nay đều lớn lên trong chiến tranh Việt Nam. Đấu tranh cho dân chủ có nghĩa là biều tình, đả đảo. Nói chuyện thương thuyết với chính quyền CS là van xin, nhục nhã hay đâm sau lưng chiến sĩ.
Dĩ nhiên, chính quyền đôi tai gỗ, bàn tay sắt CS chẵng ngu dại gì nói chuyện thương thuyết với đám lãnh đạo hải ngoại. Luật đời như vậy thôi. Chính trị ở các nước dân chủ như Mỹ tôi e ngại cũng na ná như vậy. Ngưòi ta giả bộ nghe bạn nói, Nhưng bạn phải có sức mạnh lá phiếu, có thế, có lực, có sức mạnh đồng tiền, thì họ mới thỏa mãn đòi hỏi của bạn.
VẤn đề là cộng đồng chúng ta có sức mạnh gì không. Trong chính trị, trong kinh doanh, khi bạn không có đưòng hướng đúng đắn, không có nhân sư, không có thế lực, không có ai ủng hộ, thì những lời bạn nói chỉ làm ngưòi ta kính trọng bạn là người yêu nước, có kiến thức gioỉ, có cái nhìn cao. Nếu chúng ta muón có tư do dân chủ cho Việt Nam mà không có được một lực lượng thật tư do dân chủ thì tôi e ngại mọi chuyện chỉ là ảo vọng mà thôi. Thân kính
Tôi nghĩ ông Truong Giang có thể rất thiện chí trong việc xây dựng dân chủ cho Việt Nam. Nhưng nhiều nhận định có lẽ không đúng hay khó thực hiện. Xin ghi lại vài điều.
Ông Truong Giang viết: ” kêu gọi những chiêu bài lật đổ bạo động thì chúng ta là những nhà “phản dân chủ” thứ thiệt. ”
Ngay những trang mạng của vài đảng chính trị bị nhà cầm quyền Hà Nội nhắm tới nhiều nhất, như là Việt Tân hay Dân Chủ VN, cũng nói họ không dùng phương cách bạo động trong tranh đấu cho dân chủ, tự do ở Việt Nam. Thực tế họ chỉ đang dùng phương tiện internet, email để liên lạc với nhau, truyền bá thông tin , nhưng chưa kêu gọi ai lật đổ gì. Chắc chắn nhà cầm quyền Hà Nội không đưa ra được chứng cớ gán cho LM Nguyễn Văn Lý, các ông Nguyễn Văn Đài, Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, cô Lê thị Công Nhân, hay anh Đỗ Phương Hải… là đã dùng tới bạo lực, hay làm mất an ninh trật tự. Chỉ trường hợp ông bà Trần Thị Thanh Thủy, bị gài bẫy hay ngụy tạo chứng cớ, để bị buộc tội nhanh chóng với tội danh khác.
.
Ông Truong Giang: “Các vị lãnh đạo cộng đồng vẫn mơ hồ đi theo chính sách 4 không của ông Nguyễn Văn Thiệu, cực lực không thèm nói chuyện với chính quyền trong nước, lên án những ai tiếp xúc với chính quyền trong nước là phản bội lý tưởng “chống cộng”.
Tôi thật không nhớ “chính sách 4 không của ông Nguyễn Văn Thiệu”, và chắc không bao nhiêu người còn nhớ. Tôi chỉ chưa quên câu ông Thiệu nói, nay thường được nhắc lại : ” Đừng nghe những gì CS nói, hãy nhìn kỹ những gì CS làm”.
Tôi cũng không thấy trường hợp ” lên án những ai tiếp xúc với chính quyền trong nước”. Bao nhiêu người đã tiếp xúc với các cấp thuộc chính quyền trong nước, nhưng họ bị kết án gì ? Nếu có, chắc phải vì lý do rất cụ thể, và nên nêu ra, làm sáng tỏ từng trường họp hơn là nói chung chung. Như ngay trường hợp của ông Nguyễn Hữu Liêm, được “bàn tán” nhiều về những việc đã làm có lợi cho chính quyền trong nước do chính miệng ông ấy nói ra, nhưng cũng không bị kết án gì ở đây.
Ông Truong Giang: “Chúng ta chưa gạt bỏ được tàn tích của chiến tranh. Những chính quyền dân chủ thứ thiệt trên thế giới nhìn chúng ta với con mắt kỳ cục. Chẳng ai ủng hộ ta hết.”
Theo ông Truong Giang nghĩ, tới bao giờ chúng ta mới “gạt bỏ được tàn tích của chiến tranh”? Nhìn lại lịch sử, những nước thắng trận như Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô cần phải bao lâu, và những nước bại trận, bị tàn phá, mất mát nhiếu hơn như Đức, Nhật phải mất bao lâu ? Dường như chỉ chừng 20 năm là cùng. Trong khi Việt Nam là nước thắng trận và đã 35 năm trôi qua, tại sao còn giữ lại tàn tích làm gì nữa, trong khi đa số người dân bây giờ thuộc thế hệ trẻ không biết gì về cuộc chiến tương tàn hay ý thức hệ đó.
Ông Truong Giang: ” – Bỏ điều 4 hiến pháp, cho các đảng phái tự do hoạt động.- Đảng CSVN từ từ rút ra khỏi bộ máy quân đội, công an.”
Điều ông đề nghị nhiều người cũng nghĩ là rất đúng, nhưng khi lời nói dù hay mà gặp tai gỗ thì sao ? (không kể còn có bàn tay sắt). Chúng ta đều biết thiền sư Nhất Hạnh đã đề nghị thế nào và nhận hậu quả ra sao (sau đó không ai dám đề nghị gì, trừ vài lão tướng). Dù sao, tôi cũng đồng ý với ông ở chỗ này.
Về trường hợp Gandhi, tôi nghĩ có hơi khác độc giả Truong Giang một chút xíu. Cả Gandhi lẫn Martin Luther King đã thành công không phải vì các hình thức đấu tranh bất bạo động mà hai ông thành công vì đối thủ của họ là những chế độ dân chủ.
Tôi đồng ý với diễn tiến hoà bình, vận động dân chủ cho Việt Nam theo trình tự có thể phác thảo sơ lược sau đây ( thực tế đã có đoàn thể đề nghị rồi).
– Bỏ điều 4 hiến pháp, cho các đảng phái tự do hoạt động.
– Đảng CSVN từ từ rút ra khỏi bộ máy quân đội, công an. Quân đội có nhiệm vụ quốc phòng. Công An có nhiệm vụ bảo vệ luật pháp. Cả hai không có nhiệm vụ bảo vệ đảng CS.
– Thay đổi hệ thống giáo dục, tuyên truyền để có một cái nhìn vô tư về lịch sử.