Trần Gia Phụng – Nguyên nhân chiến tranh 1960-1975
01/03/2010 | 12:00 chiều | 4 Comments
Category: Chiến tranh Việt Nam, Lịch sử
Thẻ: Công hàm của TT Phạm Văn Đồng > Hiệp định Genève > Kế hoạch Liễu Châu
1. Nguyên nhân biểu kiến
Theo lời nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), nguyên nhân chính mà VNDCCH đưa quân tấn công Việt Nam Cộng hòa (VNCH) từ năm 1960 là vì VNCH không tôn trọng và thi hành Hiệp định Genève ngày 20-7-1954 về việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Bên cạnh đó, cũng theo quan điểm của nhà nước VNDCCH, người Hoa Kỳ càng ngày có mặt càng nhiều ở VNCH nên dân Việt Nam phải “chống Mỹ cứu nước”.
Quả thật, sau Hiệp định Genève đúng một năm, Thủ tướng VNDCCH là Phạm Văn Đồng, gởi thư ngày 19-7-1955 lần đầu tiên cho Thủ tướng Quốc gia Việt Nam (QGVN) là Ngô Đình Diệm, yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955 như đã quy định trong Hiệp định Genève ngày 20-7-1954, để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước.
Ngày 10-8-1955, Ngô Đình Diệm đã bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, dựa vào lý do rằng chính phủ QGVN không ký vào Hiệp định Genève và nhất là vì không có bằng chứng nào cho thấy VNDCCH đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi Quốc tế Cộng sản.
Chính thể QGVN đổi thành Việt Nam Cộng hòa (VNCH) vào ngày 26-10-1955. Tuy chính phủ VNCH nhiều lần từ chối, Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị này hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958 để tuyên truyền với quốc tế. Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là Tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị trên vào ngày 26-4-1958.
Để hiểu rõ vấn đề này, tốt nhất nên trở lại với Hiệp định Genève ngày 20-7-1954. Danh xưng chính thức của Hiệp định Genève là Hiệp định Đình chỉ Chiến sự ở Việt Nam, nghĩa là Hiệp định Genève chỉ là một hiệp định có tính cách thuần tuý quân sự, không phải là một hòa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.
Sau khi Hiệp định Đình chỉ Chiến sự ở Việt Nam và các hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào và Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự Hội nghị Genève họp tiếp và ngày 21-7-1954 thông qua bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”.
Bản tuyên bố gồm 13 điều, trong đó quan trọng nhất là điều 7. Điều này ghi rằng: “Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó.”[1]
Khi chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (Ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), Lào và Cambodge (Cambodia) trả lời miệng rằng “đồng ý”.[2] Không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố này, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký. Điều đó chứng tỏ rằng những nước tham dự hội nghị không cam kết và cũng không yêu cầu các bên liên hệ cam kết là sẽ thi hành tổng tuyển cử, nên không yêu cầu bên nào ký vào bản tuyên bố để cam kết hay để giữ lời cam kết.
Một văn kiện quốc tế không có chữ ký thì chỉ có tính cách gợi ý, hướng dẫn chứ không có tính cách cưỡng hành. Đây chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến tương lai Việt Nam. Hơn nữa, những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà còn bị vi phạm trắng trợn, huống gì là những bản tuyên bố không chữ ký.
Phái đoàn Hoa Kỳ và phái đoàn QGVN không ký vào Hiệp định Đình chỉ Chiến sự ở Việt Nam ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn Hoa Kỳ và QGVN đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của mình. Tuy nhiên, chính phủ QGVN vẫn tôn trọng Hiệp định Đình chỉ Chiến sự ở Việt Nam ngày 20-7-1954 và thi hành việc chia hai nước Việt Nam theo thỏa thuận quốc tế.
Ngoài ra, lúc đó, Hoa Kỳ càng ngày càng tăng viện cho VNCH. Nhà nước VNDCCH quan ngại rằng nếu để cho VNCH yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, thì đến một lúc nào đó chắc chắn VNCH (với nền kinh tế tự do) sẽ vượt xa VNDCCH (với nền kinh tế chỉ huy theo đường lối cộng sản). Đó chính là điều mà VNDCCH thực sự lo lắng.
Sự hiện diện của người Hoa Kỳ ở VNCH chẳng những khiến cho VNDCCH rất quan ngại, mà cả Trung Quốc cũng không yên tâm. Trước đây, Hoa Kỳ hậu thuẫn cho chính phủ Quốc dân Đảng Trung Hoa (QDĐTH), chống lại Đảng Cộng sản Trung Hoa (CSTH). Năm 1949, Đảng CSTH thành công. Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (gọi tắt là Trung Quốc) ngày 1-10-1949. Chính phủ QDĐTH chạy ra Đài Loan. Tuy nhiên Trung Quốc vẫn quan ngại Hoa Kỳ yểm trợ cho QDĐTH trở lui lục địa Trung Quốc.
Trung Quốc mạnh mẽ chống đối Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, hơn cả Liên Xô. Nay Hoa Kỳ lại có mặt ở miền Nam Việt Nam, gần sát với Trung Quốc nên Trung Quốc rất quan ngại. Vì vậy, VNDCCH đưa ra thêm chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”, vừa để khích động lòng yêu nước của dân chúng Bắc Việt chống lại VNCH, vừa để thi hành chủ trương chống Mỹ của Trung Quốc và Liên Xô, ngõ hầu kêu gọi viện trợ của khối CSQT.
Như thế, rõ ràng các lý do “thống nhất đất nước” và “chống Mỹ cứu nước” chỉ có tính cách biểu kiến bên ngoài, dùng làm chiêu bài động binh, trong khi lý do thật sự được nhà nước VNDCCH che đậy chính là tham vọng lớn lao của Đảng Lao động Việt Nam muốn đánh chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, mà kế hoạch đã được Đảng LĐVN chuẩn bị từ trước khi ký Hiệp định Genève ngày 20-7-1954.
2. Kế hoạch Liễu Châu: Tham vọng của Đảng Lao động Việt Nam
Hội nghị Genève về Đông Dương với 9 phái đoàn là Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, CHNDTH, và bốn chính phủ liên hệ ở Đông Dương là QGVN, VNDCCH (VM), Lào, Cambodge (Cambodia), bắt đầu ngày 8-5-1954, một ngày sau khi kết thúc trận Điện Biên Phủ.
Hội nghị Genève kéo dài cho đến ngày 21-7-1954, có thể chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất từ ngày khai mạc đến 20-6-1954. Giai đoạn thứ hai từ ngày 10-7-1954 đến 21-7-1954. Giữa hai giai đoạn này, có ba sự kiện quan trọng: 1) Tại Pháp, Mendès France chính thức nhận chức Thủ tướng ngày 21-6-1954. Ông hứa hẹn với dân chúng Pháp sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong vòng bốn tuần lễ, nghĩa là Pháp dứt khoát rời bỏ Việt Nam và sẽ ký kết hiệp ước chậm nhất vào ngày 20-7-1954. 2) Tại Việt Nam, Ngô Đình Diệm chính thức cầm đầu chính phủ QGVN ngày 7-7-1954 (ngày Song thất). 3) Trong thời gian nghỉ họp vào đầu tháng 7-1954, Chu Ân Lai, Thủ tướng Trung Quốc, về nước và mời Hồ Chí Minh bí mật hội họp tại thị trấn Liễu Châu (Liuzhou), thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi hay Guangxi), từ 3 đến 5-7-1954. Lúc đó, dư luận thế giới hoàn toàn không biết đến hội nghị này. Nội dung hội nghị này không được VNDCCH tiết lộ, mà chỉ được phía Trung Quốc tiết lộ sau năm 1975.
Trong cuộc họp Liễu Châu, Chu Ân Lai ép Hồ Chí Minh phải chấp nhận giải pháp chia hai Việt Nam, đồng thời Châu Ân Lai còn đưa ra kế hoạch cho VM rằng trước khi rút ra Bắc, VM nên kiếm cách phân tán và chôn giấu võ khí ở lại miền Nam, để hữu dụng về sau.
Về phía phái đoàn VM, Võ Nguyên Giáp, tháp tùng theo Hồ Chí Minh, đã trình bày trong cuộc họp rằng nếu phải rút ra Bắc, thì VM chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy, có thể từ 5.000 đến 10.000 người.[3] Trong số những người cộng sản gài lại ở miền Nam Việt Nam, có cả Lê Duẩn, bí thư Trung ương cục miền Nam của Đảng LĐVN.[4]
Như thế, rõ ràng Đảng LĐVN đã sắp đặt kế hoạch trường kỳ mai phục, chuẩn bị lực lượng tấn công miền Nam Việt Nam, vi phạm Hiệp định Genève, trước khi ký kết hiệp định này vào ngày 20-7-1954.
Muốn tiến đánh miền Nam Việt Nam, cộng sản Bắc Việt rất cần viện trợ của Quốc tế Cộng sản (QTCS), nhất là Liên Xô và Trung Quốc. Khi Trung Quốc đưa ra tuyên bố về lãnh hải ngày 4-9-1958, theo đó ranh giới biển của Trung Quốc là 12 hải lý từ bờ biển, thì ngay sau đó, để lấy lòng Trung Quốc, Phạm Văn Đồng, Thủ tướng Bắc Việt, vội vàng viết quốc thư đề ngày 14-9-1958, gởi Chu Ân Lai, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, nhìn nhận tuyên bố của Trung Quốc. Tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc gồm có 4 điểm trong đó điểm 1 và điểm 4 được dịch như sau:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc là 12 hải lý. Điều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Nansha tức Trường Sa], và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
. . . . . . . . . . . . . .
(4) Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc...[5]
Tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc xác định hai điều: 1) Chiều rộng của lãnh hải Trung Quốc là 12 hải lý. 2) Sau tuyên bố của Mao Trạch Đông năm 1939 xác định Việt Nam là một nước phụ thuộc Trung Quốc,[6] nay một lần nữa Trung Quốc mặc nhiên khẳng định rằng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, thuộc về lãnh thổ Trung Quốc và gọi theo tên Trung Quốc là Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa] và Nam Sa [Nansha tức Trường Sa].
Thế mà Phạm Văn Đồng, Thủ tướng Bắc Việt, với sự đồng ý của Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị Đảng LĐVN, ký công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về lãnh hải của Trung Quốc. Nguyên văn phần nội dung chính của công hàm như sau:
“Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.” (Bản công hàm của Phạm Văn Đồng quá nổi tiếng, xin miễn chú thích.)
Tán thành bản tuyên cáo ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Quốc có nghĩa là VNDCCH đồng ý điều 4 trong bản tuyên cáo của Trung Quốc là đúng, tức Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc. Dầu Hoàng Sa và Trường Sao nằm về phía nam vĩ tuyến 17, thuộc quyền kiểm soát của VNCH chứ không phải VNDCCH, nhưng cũng thuộc về tổ quốc Việt Nam. Đây là một hành vi chẳng những vi phạm Hiệp định Genève, mà còn phản quốc trắng trợn của Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo Đảng LĐVN, chỉ vì tham vọng đánh chiếm miền Nam.
3. Quyết định tấn công miền Nam Việt Nam
Sau cuộc CCRĐ giai đoạn 5, Trường Chinh phải rời chức Tổng Bí thư Đảng LĐVN, và Hồ Chí Minh kiêm nhiệm chức này kể từ 30-10-1956. Đảng LĐVN chuyển công tác Lê Duẩn, từ Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ ra Bắc giữ chức Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị để phụ tá cho Hồ Chí Minh khoảng đầu năm 1957.
Vào năm 1958, Lê Duẩn được bí mật gửi vào miền Nam nhằm nghiên cứu tình hình. Khi trở ra Bắc vào cuối năm này, Lê Duẩn viết bản báo cáo đề nghị đánh chiếm miền Nam bằng võ lực. Bản báo cáo của Lê Duẩn là nền tảng của quyết định quan trọng của Hội nghị Trung ương Đảng LĐVN lần thứ 15 ở Hà Nội.
Tại hội nghị này, ngày 13-5-1959, Ban Chấp hành Trung ương ĐLĐVN đưa ra nghị quyết thống nhất đất nước (tức đánh chiếm miền Nam bằng võ lực) và đưa miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa (Nghị quyết đăng trên Nhân Dân ngày 14-5-1959).
Quyết tâm xâm lăng miền Nam của Bắc Việt thật rõ ràng. Ngày 12-9-1959, Phạm Văn Đồng, Thủ tướng Bắc Việt tuyên bố với Lãnh sự Pháp tại Hà Nội: “Ông nên nhớ là chúng tôi sẽ đến Sài Gòn ngày mai.” Trong một lần khác, vào tháng 11 cùng năm, Phạm Văn Đồng nói với vị Đại diện Canada trong Uỷ ban Kiểm soát Đình chiến: “Chúng tôi sẽ đẩy người Mỹ xuống biển.”[7]
Cùng ngày đưa ra nghị quyết thống nhất đất nước, chiếm miền Nam bằng võ lực (13-5-1959), nhà cầm quyền Hà Nội cử thượng tá Võ Bẩm, người Quảng Ngãi, lên đường vào Nam, lập đường dây liên lạc với các lực lượng gài lại trong Nam. Sau đó, ngày 1-6-1959, một toán gồm 32 cán bộ miền Nam tập kết, bắt đầu ra đi mở đường vào Nam. Đó là con đường Trường Sơn, là dãy núi được xem là sống lưng của toàn cõi Đông Dương, để đưa quân xâm nhập Nam Việt Nam.[8]
Vào năm sau, tại Hà Nội, từ ngày 5-9 đến ngày 10-9-1960, diễn ra Đại hội Đảng LĐVN lần thứ III, được mệnh danh là “Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”. Đại hội đưa ra hai mục tiêu lớn của Đảng LĐVN là xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và tiến chiếm miền Nam bằng võ lực. Cuối Đại hội này, Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng LĐVN, Lê Duẩn làm Bí thư Thứ nhất (chứ không phải Tổng Bí thư) thay Trường Chinh (vì những sai lầm trong cuộc CCRĐ.) Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết.[9]
Điểm chót của việc chuẩn bị trong cuộc tấn công miền Nam là việc công bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 12-12-1960 tại Hà Nội. Mặt trận này chính thức ra mắt vào ngày 20-12-1960 tại chiến khu Dương Minh Châu ở Tây Ninh, Nam Việt Nam.
Kết luận
Như thế, rõ ràng nguyên nhân gây ra cuộc chiến năm 1960-1975 không phải vì QGVN và sau đó VNCH không tôn trọng Hiệp định Genève (20-7-1954). QGVN đã thi hành đúng đắn việc tập trung và rút quân về miền Nam, thực hiện kế hoạch chia hai Việt Nam ở sông Bến Hải ngang qua vĩ tuyến 17. Bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954 trong đó có điều 7 là điều đề nghị một cuộc tổng tuyển cứ giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam, không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, nên không có tính cách pháp lý để cưỡng hành.
Chuyện “giải phóng miền Nam” hay “chống Mỹ cứu nước” chỉ là chiêu bài nhằm khích động quần chúng, vì Bắc Việt dư biết trước đó Hoa Kỳ đã giúp Tây Đức, Nhật Bản, Nam Triều Tiên, mà người Mỹ không hề xâm lăng các nước này. Chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” còn được sử dụng nhắm mục đích kêu gọi viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc, vì theo đúng đường lối của QTCS.
Nguyên nhân thực sự duy nhất đưa đến chiến tranh 1960-1975 chỉ là tham vọng độc quyền cai trị Việt Nam của Đảng LĐVN do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Các lãnh tụ Đảng LĐVN lúc đó chẳng những muốn độc chiếm Việt Nam, mà còn muốn làm bá chủ cả Đông Dương nữa (Trích Việt sử đại cương tập 6).
© 2010 Trần Gia Phụng
© 2010 talawas
[1] Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Trình Bày: Sài Gòn 1973, tr. 53. Vì các văn bản ký kết tại Genève được viết bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp.
[2] Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris: Nxb. Nam Á 2002, tr. 2642
[3] Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và Hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung cộng Đảng sử Xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 “Hội nghị Liễu Châu then chốt”. Nguồn: Diễn đàn, 06.2.2009
[4] Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Văn Hóa, Houston, 1997, tr. 202
[5] http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm (trích ngày 26-10-2009)
[6] Năm 1939, trong một tài liệu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tựa đề là Cách mạng Trung Quốc và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã xác quyết: “Các nước đế quốc, sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận, Anh chiếm Miến Điện, Bu-tan, Hương Cảng, Pháp chiếm An-Nam.” Nguồn: Nxb. Sự Thật, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua (tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, không đề tên tác giả), Hà Nội: 1979, tr. 16. Như thế trong quan niệm của Mao Trạch Đông, An-Nam (tức Việt Nam) là nước phụ thuộc Trung Quốc.
[7] Nguyễn Đình Tuyến, Những biến cố lớn trong 30 năm chiến tranh tại Việt Nam 1945-1975, Houston, Texas, 1995, tr. 49
[8] Con đường này chạy dọc theo Trường Sơn, đã từng được người xưa gọi là thượng đạo và sử dụng, như Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng bỏ Quy Nhơn theo đường núi ra Nghệ An năm 1802, hoặc vua Hàm Nghi (trị vì 1884-1885) từ Lao Bảo (Quảng Trị) qua Ai Lao về Quảng Bình năm 1885. Ngoài ra, trong chiến tranh 1946-1954, Trung Quốc gửi sang Bắc Việt phái đoàn cố vấn quân sự để giúp đỡ VM, do tướng Vi Quốc Thanh cầm đầu. Khi muốn kiếm cách tiến quân xuống phía Nam, tháng 10-1953, Mao Trạch Đông đã đưa ra cho Vi Quốc Thanh kế hoạch ba điểm để mở đường Trường Sơn. Ba điểm đó là: 1) Một là dùng hai đại đoàn bộ binh và nửa đại đoàn pháo binh chiếm Lai Châu, chiếm toàn bộ Tây Bắc, chuyển qua Thượng Lào và Trung Lào. 2) Hai là cương quyết khai thông con đường Nam tiến [đường núi Trường Sơn]; đó là con đường huyết mạch; đo đạc thật nhanh, xây dựng kế hoạch, chia giai đoạn để hoàn thành. 3) Ba là điều động cán bộ, quân đội các liên khu 3, 4 làm công tác mở vùng; đánh được nơi nào thì củng cố nơi ấy. Mao Trạch Đông tóm gọn kế hoạch này trong 12 chữ: Hai đại đoàn rưỡi, một đường quốc lộ, ba lớp cán bộ. Nguồn: Vu Hóa Thẩm, “Đồng chí Vi Quốc Thanh trong viện trợ Việt Nam đấu tranh chống Pháp”, trong Hồi ký của những người trong cuộc, ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, một nhóm tác giả, Bắc Kinh: Nxb Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc, 2002, Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch, Dương Danh Dy hiệu đính, bản in của Tạp chí Truyền Thông, Montreal, số 32& 33, tt. 103-104.
[9] Mười một ủy viên chính thức: Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Hoàng Văn Hoan. Hai ủy viên dự khuyết: Văn Tiến Dũng, Trần Quốc Hoàn (cả 2 đều chính thức từ 1972). Nguồn: http://www.cpv.org.vn trích ngày 15-8-2007.
Bình luận
4 Comments (bài “Trần Gia Phụng – Nguyên nhân chiến tranh 1960-1975”)
Một cách nhìn phiến diện về lịch sử.
Mới đọc lại phản hồi của chính mình mới biết viết sai họ của chị Nghiên. Xin lỗi chị Phạm Thanh Nghiên.
Bài viết của sư phụ Trần Gia Phụng quá hay, dẫn dắt sự kiện lịch sử và đưa đến kết luận khách quan cho người đọc suy nghĩ.
Lãnh đạo miền Bắc quyết định dùng vũ lực để thống nhất đất nước đưa đến điêu tàn chết chóc cả triệu người là quả một sai lầm to lớn mà dân tộc Việt ta phải gánh chịu hậu quả. Đã vậy còn bán cả nước nữa (công hàm ký bởi PVĐ nhưng thật sự là HCM và ĐCSVN chịu trách nhiệm) bằng công nhận TQ khẳng định lảnh hải là đúng. Và cũng vì cái công hàm này mà chị Trần Thanh Nghiên lột lịch mấy năm vì tinh thần yêu nước.
Nếu không có cuộc chiến ấy thì đất nước Việt có thống nhất như Tây Đức và Đông Đức bây giờ thì cũng đã giàu mạnh rồi chứ không như ngày nay lẻo đẻo đi sau những nước láng giềng mà ngày xưa dân Việt xem như còn lạc hậu.
Bài viết này là một cái tấm gương phản ảnh sự thật đã xảy ra trên quê hương VN để cho các đảng viên CS bây giờ phải suy nghĩ và có trách nhiệm với đất nước, với dân tộc. Lãnh đạo Việt Nam bây giờ chỉ nghĩ đến họ và gia đình họ trước đất nước. Thay đổi để họ làm ăn chất phát hơn, cho một xã hội công bằng hơn, lảnh thổ bảo toàn hơn trong một tinh thần đoàn kết Diên Hồng và đưa nước Việt đi lên.
Dựa vào những dữ kiện lịch sử như vậy thì việc kết luận rằng, chiến thắng của quân đội XHCN là một chiến thắng nhờ vào bạo lực, mạnh ai nấy thắng thì giành được quyền lực, thắng làm vua mà thua thì làm giặc. Kẻ làm giặc chịu đủ mọi sự bôi nhọ của kẻ thắng trận bằng những thông tin và dẫn chứng dối trá.
http://images.hoabattublog.multiply.com/image/1/photos/71/600×600/18/29.jpg?et=cPDYYDbvXb2DZ2g6JCj8bQ&nmid=317336880
Kim Phúc trong trận bom napalm của Mỹ ở Việt Nam – 1972, của Nick Ut. Hình ảnh 5 đứa trẻ Việt Nam vẻ mặt khiếp đảm chạy trốn một cuộc bỏ bom napalm. Đáng thương nhất là cô bé giữa khuôn hình – Kim Phúc – trần truồng, gào khóc với cánh tay gầy gò xương xẩu. Bức ảnh chạm đến trái tim của những người yêu hòa bình trên khắp thế giới. Tấm ảnh này đã góp phần thay đổi nhận thức của nhiều người về cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam, khiến phong trào phản chiến thêm mạnh mẽ. => Bức ảnh trên có thể đã góp phần cho phong trào phản chiến, gây áp lực khiến nước Mỹ rút quân khỏi Việt Nam.
Hình ảnh bà Kim Phúc đã được chính quyền Cộng Sản Việt Nam khai thác tối đa như một biểu tượng của phong trào phản chiến, nhưng một sự thật đằng sau bức ảnh là trong hình có đến 5 đứa trẻ, nhưng chỉ có Kim Phúc có được “diễm phúc” đó. Chỉ có bà mới được cho học hành tử tế, cho sang Cuba du học. Năm 1992 bà có chồng, sau tuần trăng mật ở Mạc Tư Khoa, trên đường về lại Cuba, máy bay ghé lại Canada đổ xăng và ở đây, Kim Phúc đã tìm cách trốn lại, xin tị nạn chính trị. Câu chuyện này với nhiều người có thể còn có nhiều cảm xúc hơn cả “The Girl in the picture”.
Hiện tại, hình ảnh một người đàn bà mà được chính quyền Việt Nam nhồi sọ cho thế hệ trẻ VN về sự thê lương của chiến tranh để kích động sự thù địch với chính quyền Mỹ,thù địch với chính quyền tư bản, lại đang hưởng sự đầy đủ và vẹn toàn trong xã hội tư bản, nơi bà đã trốn ở lại.
http://images.hoabattublog.multiply.com/image/1/photos/71/600×600/17/Kim-Phuc-who-as-a-girl-appeared-in-a-famous-Vietnam-War-photograph-in-which-she-is-seen-running-nak.?et=%2BDGta2VN3WGHY0AyuwWiCg&nmid=317336880 và http://images.hoabattublog.multiply.com/image/1/photos/71/600×600/16/photo-316.jpg?et=CJ1H66WvoOqOZQ9wTPK7RQ&nmid=317336880
Chiến tranh xảy ra để giải quyết những mâu thuẫn căng thẳng không còn cách nào giải thỏa được nữa, là một điều đau đớn và đáng buồn, đáng xấu hổ cho những kẻ gây ra cuộc chiến. Nhưng tởm lợm hơn, đáng khinh bỉ hơn và đáng lên án mạnh mẽ hơn là hành động tuyên truyền thông tin sai sự thật của chính quyền XHCN Việt Nam đương thời về kẻ thù trong quá khứ để cố gắng lái cái nhìn tri thức về nhận thức vấn đề của cả một dân tộc và những thế hệ tiếp nối theo sau này về những nguồn gốc chiến tranh và những tin tức cập nhật của những giá trị thực tế phi vật thể.